Nguyên tác: The Light Between Oceans
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Phần Iii.13
H
opetoun, Ngày 28 tháng 8 năm 1950
Ngày nay Hoprtoun chẳng còn gì nhiều, trừ cây cầu tàu dài cẫn như đang thì thầm nhắc lại thời hoàng kim khi thị trấn vẫn còn là cảng vận chuyển cho các bãi vàng. Cảng đã đóng cửa từ năm 1936, chỉ vài năm sau khi Isabel và Tom dọn đến. Anh trai Cecil của Tom chỉ thọ hơn người cha có vài tuổi. Khi Cecil mất, tiền thừa kế đủ mua một trang trại nhỏ ở rìa thị trấn. Cơ ngơi của Tom và Isabel tính theo tiêu chuẩn ở thị trấn thuộc loại nhỏ, nhưng vẫn chạy dọc theo bờ biển vài dặm. Ngôi nhà nằm trên sườn núi mép đất liền, nhìn xuống bãi biển dài. Họ sống một cuộc đời yên tĩnh. Thi thoảng có vào thị trấn. Trang trại chỉ thuê người phụ giúp.
Hopetoun nằm trong vịnh ngang, cách Partageuse gần bốn trăm dặm về phía đông, đủ xa để họ không dễ tình cờ gặp người quen ở xứ Mũi, nhưng đủ gần để hàng năm cha mẹ Isabel ghé thăm mỗi dịp Giáng Sinh, cho đến những năm tận cuối đời. Ralph thi thoảng gửi thư qua lại – chỉ trong vài dòng thăm hỏi, ngắn gọn không màu mè nhưng tận đáy lòng. Sau khi Hilda qua đời thì gia đình con gái dọn vào ở chung với Ralph, chăm sóc cho lão rất chu đáo nhưng đến giờ lão cũng đã yếu đi nhiều. Khi Bluey cưới Kirty Kelly, Tom và Isabel gửi quà nhưng không đến dự. Cả hai chưa bao giờ về lại Partageuse.
Hai mươi năm trôi qua như dòng nước sông yên tĩnh chảy giữa miền quê, lòng sông chảy một ngày một sâu thêm.
***
Đồng hồ đổ chuông. Gần đến giờ lên đường. Ngày nay, đường sá đã được tráng nhựa, từ nhà ra thị trấn chỉ cần lái xe một quãng ngắn. Không như lúc họ mới đến. Tom thắt cà vạt, thấy một người lạ tóc bạc đang nhìn mình. Trong chớp mắt anh nhận ra mình trong gương. Giờ đây bộ complet trở nên rộng thùng thình với anh, áo không còn bó sát như trước nữa.
Bên ngoài cửa sổ sóng vẫn cuộn trào, vỡ tan thành muôn vàn bọt trắng rơi xuống biển xa. Đại dương không hề in dấu thời gian, mặc cho năm tháng trôi đi. Âm thanh duy nhất vang lên là tiếng gió tháng Tám lồng lộn.
Tom đặt phong thư vào chiếc rương bằng gỗ long não, kính cẩn đóng lại. Rồi đây những thứ trong rương sẽ mất hết ý nghĩa, như thứ ngôn ngữ trong chiến hào đã bị lãng quên, chỉ còn thuộc về một khoảng thời gian xưa cũ. Năm tháng tẩy mòn ý nghĩa của mọi thứ, co đến khi chỉ còn quá khứ lạnh như xương, không cảm xúc, không ý nghĩa.
Bệnh ung thư đã làm xong việc từ hàng tháng trước, giờ đây chỉ còn gặm nhấm từng ngày của Isabel. Không còn gì khác để làm, chỉ chờ đợi. Anh đã ngồi bên giường cô, nắm tay cô hàng tuần. “Mình nhớ cái máy hát không?” anh hỏi, hay “Không biết bà Mewett sau này ra sao nhỉ?” Cô mơ hồ mỉm cười. Đôi khi, cô cố sức nói được, “Đừng quên tỉa cây nghe mình?” Hay, “Mình kể chuyện em nghe đi Tom. Kể chuyện gì kết thúc có hậu ấy.” rồi anh sẽ vuốt má cô mà thì thầm. “Ngày xửa ngày xưa có một cô bé tên là Isabel, tính tình nóng nảy nhất vùng…” khi kể câu chuyện, anh nhìn những đốm nắng trên tay cô, để ý thấy khuỷu ngón tay hơi sưng lên còn chiếc nhẫn giờ đây đã lỏng lẻo giữa hai đốt ngón tay.
Gần đến lúc đi, cô không thể tự uống nước, Tom nhúng khăn ướt để cô ngậm, thoa kem mỡ cừu lên môi cô cho đỡ khô nứt. Anh vuốt tóc cô, giờ đây đã bạc nhiều, thắt thành bím dày sau lưng. Anh nhìn lồng ngực gầy gò của Isabel nhô lên hạ xuống, cũng thấp thỏm như khi Lucy vừa đến Janus: mỗi hơi thở là một cuộc vật lộn, một chiến thắng.
“Mình có hối hận là đã gặp em không hả Tom?”
“Tôi sinh ra là để gặp mình, Izz à. Tôi nghĩ vậy đó,” anh nói rồi hôn lên má cô.
Đôi môi anh nhớ lại nụ hôn đầu tiên hàng chục năm trước, trên bãi biển lộng gió trong buổi hoàng hôn: người con gái liều lĩnh, không biết sợ hãi, chỉ nghe theo trái tim mình. Anh nhớ tình yêu mà cô dành cho Lucy, lập tức, dữ dội và không hề nghi ngại – thứ tình yêu sẽ được đền đáp cả cuộc đời, nếu đời rẽ sang một ngả khác.
Anh đã cố thể hiện tình yêu của mình với Isabel, trong từng cử chỉ ba mươi năm qua. Nhưng giờ đây ngày tháng cạn kiệt. Không còn đủ thời gian nữa, anh thấy gấp gáp. “Izz,” anh nói, ngập ngừng. “Mình có muốn hỏi tôi điều gì không? Bất cứ điều gì mà mình muốn tôi nói ra? Gì cũng được. Tôi không giỏi nói năng nhưng nếu mình muốn gì, tôi hứa tôi sẽ cố mà trả lời.”
Isabel cố mỉm cười. “Chắc mình nghĩ kỹ lắm rồi hả Tom.” Cô khẽ gật đầu, rồi vỗ nhẹ lên tay anh.
Anh nhìn vào mắt cô. “Hoặc là cuối cùng tôi cũng thấy sẵn sàng để nói…”
Giọng cô yếu ớt. “Không sao cả. Giờ em không cần gì nữa.”
Tom vuốt tóc cô, nhìn vào mắt cô một hồi lâu. Anh tựa trán mình lên trán cô, cứ ở vậy, yên lặng cho tới khi hơi thở cô thay đổi, rời rạc đi.
“Em không muốn bỏ mình mà đi,” cô nói, nắm chặt tay anh. “Em sợ lắm mình à. Sợ lắm. Nếu Chúa không tha thứ cho em thì sao?”
“Chúa đã tha thứ cho mình từ nhiều năm trước. Giờ đã đến lúc mình phải tha thứ cho chính mình.”
“Còn lá thư?” cô lo lắng hỏi. “Mình sẽ giữ gìn lá thư chứ?”
“Tôi sẽ giữ, Izz à. Tôi sẽ giữ cẩn thận.” Gió lay cửa sổ, như hàng chục năm trước trên Janus.
“Em sẽ không tạm biệt mình, lỡ Chúa có nghe thấy mà nghĩ rằng em muốn đi.” Cô nắm chặt tay anh. Sau đó, cô không hề nói gì nữa. Thi thoảng cô mở mắt, trong mắt cô sáng lên, thứ ánh sáng mỗi lúc một rõ khi hơi thở trở nên nông và nhọc hơn, như thể cô vừa được tiết lộ một bí mật rồi đột nhiên hiểu được điều gì đó.
Và rồi, trong buổi tối cuối cùng đó, khi vầng trăng khuyết lẫn vào mây gió, nhịp thở của Isabel thay đổi, sự thay đổi mà Tom biết quá rõ. Cô tuột khỏi tay anh.
Mặc dù nhà có điện, Tom ngồi đó chỉ với ánh đèn dầu soi mặt người vợ: ánh đèn mềm mại biết bao, thứ ánh sáng từ ngọn lửa trần. Cũng hiền hậu hơn. Anh ngồi bên cô cả đêm hôm đó, đợi trời sáng rồi mới gọi điện cho bác sĩ, làm cái việc canh gác, như những ngày xưa cũ.
Tom đi bộ trên lối nhỏ, anh ngắt lấy một nụ hồng vàng từ bụi hồng mà Isabel trồng lúc hai người vừa dọn đến. Mùi hoa chưa nở đã nồng, làm anh nhớ đến gần hai mươi năm trước, hình ảnh cô quỳ gối bên bồn hoa vừa xới, hai tay vun đất quanh bụi cây non. “Cuối cùng ta cũng có được vườn hồng, Tom nhỉ,” cô nói. Đó là lần đầu tiên anh thấy cô cười kể từ khi rời Partageuse. Hình ảnh đó đọng lại mãi trong anh, như một tấm ảnh kỷ niệm.
Sau đám tang là tiệc trà tưởng niệm nhỏ ở sảnh nhà thờ. Tom nán lại cho phải phép lịch sự. Nhưng anh ước gì người ta thực sự biết người vừa nằm xuống là ai: Isabel mà anh gặp trên cầu tàu, đầy sức sống, liều lĩnh, tinh nghịch. Nửa bầu trời còn lại của anh.
***
Hai ngày sau đám tang, Tom ngồi một mình trong căn nhà giờ đây trống trải và yên lặng. Bên ngoài bụi bốc lên, dấu hiệu có xe vừa tới. Chắc là người giúp việc bên trang trại. Nhưng khi chiếc xe tới gần, anh nhìn lần nữa. Chiếc xe loại đắt tiền, mới cứng, mang biển số Perth.
Chiếc xe dừng lại gần nhà, Tom bước ra trước cửa.
Một người phụ nữ bước ra khỏi xe, vuốt mái tóc vàng rồi vấn chặt sau gáy. Cô nhìn quanh, chậm rãi đi lên phía hiên nhà, nơi Tom đang đứng.
“Chào cô,” anh lên tiếng, “cô bị lạc sao?”
“Cháu mong là không lạc,” người phụ nữ đáp.
“Tôi giúp gì được?”
“Cháu tìm nhà ông bà Sherbourne.”
“Cô tìm thấy rồi đó. Tôi là Tom Sherbourne.” Anh đợi cô gái giải thích.
“Vậy thì cháu không lạc rồi.” Cô gượng cười.
“Tôi xin lỗi,” Tom nói, “Tuần vừa rồi lu bu quá. Tôi có quên gì chăng? Một cuộc hẹn trước?”
“Không, cháu không có hẹn trước. Nhưng cháu đến để gặp bác. Và…” cô ngập ngừng, “bác gái. Cháu nghe nói bác ấy ốm nặng.”
Tom thấy bối rối, cô nói tiếp, “Tên cháu là Lucy-Grace Rutherford. Hồi con gái là Roennfeldt…” Cô mỉm cười lần nữa. “Cháu là Lucy.”
Anh nhìn cô sửng sốt. “Lulu? Lulu bé nhỏ,” anh nói, cứ như tự nói với mình. Anh vẫn đứng tại chỗ.
Người phụ nữ đỏ mặt. “Cháu không biết phải gọi bác là gì… và cả bác gái.” Đột nhiên một suy nghĩ chợt nảy đến, cô hỏi, “Cháu mong bác không thấy phiền. Cháu mong là cháu không phiền hai bác.”
“Bà ấy rất trông cô đến.”
“Gượm đã. Cháu còn mang theo cái này nữa,” cô nói, quay trở lại xe. Cô mở cửa trước, mang ra một cái nôi xách tay, gương mặt cô vừa dịu dàng vừa hãnh diện.
“Đây là Christopher, con trai cháu. Ba tháng tuổi.”
Đứa bé quấn chăn trông y hệt như Lucy lúc còn nhỏ, Tom thấy nhói lòng. “Nếu còn, Izz hẳn rất muốn gặp thằng bé. Chuyện cô tới thăm đây hẳn làm bà ấy rất vui.”
“Ôi. Cháu rất tiếc… Bác gái… khi nào…?” Cô bỏ lỡ câu hỏi.
“Một tuần rồi. Đám tang hôm thứ hai.”
“Cháu không biết. Nếu bác muốn cháu sẽ về…”
Anh nhìn đứa bé một hồi lâu, rồi ngẩng lên, thoáng mỉm cười xao xuyến. “Vào nhà đi.”
Tom mang ra khay, ấm và tách trà, Lucy-Grace ngồi nhìn ra đại dương, đứa bé nằm bên cạnh trong nôi.
“Phải bắt đầu từ đâu hả bác?” cô hỏi.
“Hãy cứ ngồi yên một lúc đã?” Tom đáp. “Để cho quen.” Anh thở dài. “Lucy bé bỏng. Sau ngần đó năm.”
Cả hai ngồi trong im lặng, uống trà, nghe tiếng gió gào từ đại dương, thi thoảng lại kéo dạt đám mây để đủ một vạt nắng chiếu qua cửa sổ, đổ xuống nền nhà. Lucy nghe mùi căn nhà, mùi gỗ cũ, mùi khói lò sưởi, và mùi nước đánh bóng. Cô không dám nhìn thẳng vào mắt Tom, cứ nhìn quanh. Tranh thánh Michael; một lọ hoa hồng vàng. Tấm ảnh cưới của Tom và Isabel, cả hai tươi trẻ, tràn đầy hy vọng. Trên kệ có sách hàng hải, hải đăng, âm nhạc, có những cuốn rất lớn chẳng hạn như cuốn Thiên văn đồ Brown, lớn đến nỗi phải đặt nằm ngang. Trong góc nhà có một cây dương cầm, mấy tờ chép nhạc chồng lên đó.
“Làm sao mà cô biết?” Cuối cùng Tom hỏi. “Chuyện Isabel bị ốm?”
“Mẹ cháu nói. Khi bác viết thư cho Ralph Addicott kể chuyện, Ralph có đến gặp mẹ cháu.”
“Ở partageuse?”
“Giờ mẹ cháu đã dọn về đó. Khi cháu năm tuổi rưỡi thì hai mẹ con cháu dọn đến Perth, muốn làm lại từ đầu. Mẹ chỉ dọn về Partageuse khi cháu vào Không Quân Nữ năm 1944. Sau đó mẹ dọn về với dì Gwen ở Bermondsey, chỗ ông ngoại để lại. Sau chiến tranh cháu ở hẳn lại Perth.”
“Còn chồng cô?”
Cô tươi cười. “Tên là Henry! Gặp nhau hồi còn ở Không Quân… Anh ấy rất dễ thương. Chúng cháu kết hôn hồi năm ngoái. Cháu rất may mắn.” Cô nhìn ra mặt nước phía xa, rồi nói, “Cháu vẫn thường nghĩ về hai bác, nhiều năm qua, không biết hai bác ra sao. Nhưng cho tới khi…” cô dừng lại, “cho tới khi sinh Christopher thì cháu mới thức sự hiểu: tại sao hai người làm như vậy. và tại sao mẹ lại khồng thể tha thứ cho hai người. Vì con cháu có thể làm bất cứ điều gì. Không cần suy nghĩ.”
Cô vuốt lại mặt váy. “Cháu vẫn nhớ vài chuyện. Hoặc ít ra cháu nghĩ vậy… như những giấc mơ rời rạc: ngọn đèn, đương nhiên rồi; tháp hải đăng, rồi cả ban công quanh nó… gọi là gì nhỉ?”
“Vọng đài.”
“Cháu nhớ ngồi trên vai bác. Chơi dương cầm với bác gái. Một bài hát gì đó kể chuyện chim gì đó trên cây, rồi cả lúc tạm biệt bác…
“Rồi mọi thứ lẫn lộn và cháu không nhớ gì nhiều. Chỉ còn cuộc sống mới ở Perth, và trường lớp. Nhưng mà nhiều nhất, cháu nhớ gió, sóng và đại dương: cứ như đã ăn vào máu thịt. Mẹ cháu không thích nước. Chẳng bao giờ đi bơi cả.” Cô nhìn đứa bé. “Cháu không thể đến sớm hơn. Cháu phải đợi mẹ… ừm… cho phép.”
Ngắm cô Tom thấy thấp thoáng nét mặt của cô bé ngày nào. Nhưng thật khó liên kết giữa người phụ nữ ngồi đây và cô bé đó. Và ban đầu anh cũng chật vật tìm lại con người cũ bên trong mình, người đã từng yêu thương Lucy hết mực. Vậy mà người cha trẻ tuổi đó vẫn còn đó, còn đâu đó, trong giây lát, rõ ràng như tiếng chuông đổ, anh nghe thấy giọng con bé lảnh lót. “Ba ơi! Ba ơi bồng Lulu đi!”
“Bà ấy có để lại cái này cho cô,” amh nói, rồi đi đến chiếc rương gỗ long não. Anh mở rương ra lấy lá thư, đưa cho Lucy-Grace. Cô cầm lá thư một lúc mới mở ra.
Lucy thương yêu của má,
Thật lâu phải không con. Thật là lâu quá. Má đã hứa sẽ đi xa con, và má đã giữ lời, mặc dù vô cùng khó khăn.
Giờ má đã đi rồi, nên con mới đọc lá thư này. Má thấy an ủi lắm vì con đã tới tìm ba má. Má chưa bao giờ hết hy vọng là một ngày con sẽ tới.
Trong cái rương cùng với lá thư còn có mấy thứ đồ hồi con còn rất nhỏ: áo con mặc lúc rửa tội, cái chăn vàng, vài bức tranh con vẽ khi còn nhỏ. Rồi cả mấy thứ má làm cho con sau đó, mấy thứ đồ vải. Má giữ cho con – kỷ niệm phần đời đã mất. Để nếu con có muốn tìm lại.
Giờ con đã lớn khôn. Má mong đời con gặp nhiều may mắn. Má hy vọng con có thể tha thứ cho má đã giữ con lại. Rồi để con ra đi.
Nhớ rằng lúc nào má cũng thương con.
Má thương yêu của con
Những chiếc khăn mùi soa thêu tay xinh xắn, mấy đôi giầy bằng len móc, cả chiếc mũ bằng vải satin: mọi thứ được gấp cẩn thận trong rương, cất kỹ dưới những món đồ thơ ấu của chính Isabel. Tom không hề biết là Isabel giữ lại những thứ đó. Những mảnh vỡ của một thời. Của một đời. Cuối cùng, Lucy-Grace mở cuộn giấy có cột ruy-băng. Bản đồ Janus, do chính tay Isabel trang trí từ ngày xưa: Bãi Đắm Tàu, Vũng Phản Trắc… vết mực còn tươi sáng. Tom thấy nhói lòng khi nhớ đến cái ngày cô đưa tấm bản đồ cho anh, khi đó anh chỉ thấy sợ vì đã vi phạm quy định. Đột nhiên anh thấy trào dâng tình yêu đối với Isabel, cả nỗi đau mất cô.
Lucy-Grace đọc bản đồ, một giọt nước mắt lăn xuống gò má cô, Tom đưa cho cô chiếc khăn mùi soa của anh đã được gấp cẩn thận. Cô lau mắt, nghĩ ngợi, rồi cuối cùng nói, “Cháu chưa bao giờ được cảm ơn hai bác. Nói với bác và với cả… má, đã cứu con, đã chăm sóc cho con… Con còn nhỏ quá… rồi sau đó thì đã quá muộn.”
“Con không phải cảm ơn ba má.”
“Con còn sống là nhờ ba má.”
Đứa bé khóc òa, Lucy cuối xuống ôm nó. “Shh, shh, cưng à. Con không sao mà. Con không sao, thỏ con à.” Cô đung đưa đứa bé một lúc, nó nín khóc. Cô quay lại nhìn Tom. “Ba thử bồng nó xem?”
Anh ngập ngừng. “Ba không quen, đã lâu lắm rồi.”
“Thôi mà.” Cô nói rồi đặt đứa bé vào tay anh.
“Nhìn con này,” anh nói, mỉm cười. “Giống y mẹ con ngày xưa vậy, phải không hả? Cái mũi này, mắt xanh này.” Đứa bé chăm chú nhìn Tom, những cảm xúc xa xưa lại tràn về. “Ôi Izz hẳn đã rất muốn gặp con.” Một giọt nước dãi lấp lánh bên khóe mối đứa bé, Tom nhìn dải cầu vồng nơi đó khi nắng chiếu lên. “Nếu còn, chắc Izz cũng thương con lắm,” anh nói, rồi nghẹn ngào.
Lucy-Grace nhìn đồng hồ. “Con phải đi đây. Tối nay con ở Ravenshope. Không muốn lái xe lúc trời tối – lỡ mà đâm trúng kangaroo.”
“Đúng rồi.” Tom gật đầu về phía chiếc rương gỗ long não. “Để ba giúp con bỏ vào trong xe? Nếu mà… nếu mà con muốn đem đi. Ba cũng hiểu nếu con không muốn lấy.”
“Con không muốn lấy,” cô nói, vẻ mặt Tom chùng xuống, cô mỉm cười. “bởi vì vậy hai mẹ con con sẽ còn có cớ để quay lại. Con sẽ ghé lại sớm.”
***
Mặt trời chỉ còn là ánh bạc lấp lánh trên ngọn sóng khi Tom thả người xuống chiếc ghế gỗ dài ở ngoài hiên. Bên cạnh anh, trên ghế của Isabel là những chiếc gối dựa chính tay cô làm, có thêu mấy ngôi sao và mặt trằng lưỡi liềm. Gió vừa lặng, mấy đám mây bừng lên màu cam pha sẫm phía chân trời. Một tia sáng chiếu qua bóng hoàng hôn: hải đăng Hopetoun. Ngày nay hải đăng đều tự động hóa – không còn người gác đèn kể từ khi cảng chính đóng cửa. Anh nghĩ về Janus, về ngọn đèn anh chăm chút bao lâu xưa, mỗi tia sáng của nó vẫn còn dạo chơi đâu đó trong bóng tối xa xôi bên rìa vạn vật.
Cánh tay anh vẫn còn nhớ sức nặng đứa con trai của Lucy, rồi cảm giác đó gợi mở ký ức của cơ thể, trở về lúc anh ôm Lucy, và trước đó nữa là ôm đứa con trai chỉ trong thoáng chốc. Nếu nó sống sót thì bao nhiêu cuộc đời nữa đã khác đi. Anh hít sâu, suy nghĩ một lúc, rồi thở dài. Nghĩ vậy chẳng có ích gì. Một khi đã bắt đầu nghĩ theo hướng đó, dường như không bao giờ có hồi kết. Anh đã sống cuộc đời đó. Đã yêu người đàn bà đó. Không ai khác đã ra đi, hoặc sẽ đi theo con đường đó trên thế gian này, anh cũng thấy yên lòng. Anh vẫn còn thương nhớ Isabel đến cồn cào: nụ cười của cô, làn da của cô. Những giọt nước mắt mà anh đã nuốt lại trước mặt Lucy giờ đây chảy dài trên mặt.
Anh nhìn sang bên, mặt trăng tròn đang lên trên bầu trời như giữ thăng bằng với mặt trời đã gần tàn ở phía chân trời đối diện. Mỗi sự kết thúc lại là một sự khởi đầu khác. Christopher bé bỏng đã được sinh ra trong một thế giới mà ngày trước Tom không thể nào hình dung được. Có lẽ nó sẽ không phải thấy chiến tranh? Lucy-Grace cũng vậy, đã thuộc về một tương lại mà Tom chỉ có thể ước đoán. Nếu Lucy yêu con trai chỉ bằng một nửa tình yêu Isabel dành cho cô, đứa bé sẽ được hạnh phúc.
Vẫn còn nhiều ngày phía trước. Và anh biết rằng mỗi người trong cõi đi về cứ đổi thay theo từng ngày, theo từng mối nhân duyên trong đời. Những vết sẹo cũng chỉ là một thứ ký ức khác. Isabel là một phần của anh, dù cô có ở đâu nữa, cũng như cuộc chiến, và ánh đèn hải đăng, và cả đại dương. Rồi ngày tháng sẽ xóa nhòa cuộc đời họ, cỏ sẽ phủ xanh những ngôi mộ, đến khi câu chuyện của họ chỉ là một tấm bia không người thăm viếng.
Anh nhìn đại dương đang đầu hàng trước đêm tối, biết rằng rồi ngọn đèn sẽ lại hiện ra.