Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 36: Spiuni Gjerman
H
arry mở mắt ra và ngước nhìn lên thì thấy một cô bé đang mỉm cười và chợt cảm thấy đầu đau như búa bổ.
Anh bèn nhắm mắt lại, nhưng cả tiếng cười của cô bé lẫn cơn đau đều không biến mất.
Anh cố gắng nhớ lại đêm hôm đó.
Raskol, nhà vệ sinh ở ga tàu điện, gã béo lùn mặc bộ vest Armani cũ huýt sáo, một bàn tay đeo nhẫn vàng chìa ra, mái tóc đen và móng tay út dài, nhọn hoắt. “Chào anh, Harry. Tôi là Simon bạn anh.” Và, đối lập hoàn toàn với bộ vest sòn mòn là một chiếc Mercedes mới cứng với một anh chàng tài xế trông giống em trai của Simon, cũng với cặp mắt nâu vui vẻ và cái tay lông lá, đeo đầy vàng chìa ra bắt.
Hai người đàn ông đứng trước xe trò chuyện bằng thứ tiếng pha trộn giữa tiếng Na Uy và tiếng Thụy Điển, với ngữ điệu lạ lùng của người trong gánh xiếc, người bán dao, nhà truyền giáo, và ca sĩ chính trong ban nhạc hát cho vũ hội. Nhưng họ không nói gì nhiều lắm. “Anh thế nào, anh bạn?”
“Thời tiết sợ nhỉ?”
“Quần áo bảnh ghê, anh bạn. Chúng ta trao đổi nhé?” Tiếng cười vui vẻ ánh lập lòe của bật lửa. Harry có hút thuốc không? Thuốc lá Nga đấy. Làm một điếu, chắc sẽ hơi thô, nhưng, anh biết đấy, ‘ngon theo cách của nó’. Tiếng cười lại rộ lên. Không ai nhắc đến tên của Raskol hay nơi họ đang tới.
Hóa ra cũng chẳng xa lắm.
Họ rẽ sau Bảo tàng Munch và xe xóc nẩy qua những ổ gà để vào một bãi đỗ xe phía trước một sân bóng bỏ hoang, lầy lội. Cuối bãi đỗ xe có ba căn nhà lưu động. Hai căn to và mới, còn một căn nhỏ không có bánh, kê trên những khối gạch xi măng cốt liệu.
Cánh cửa của một trong hai căn nhà lưu động to mở ra và Harry trông thấy bóng của một người phụ nữ. Mấy đứa trẻ con ló đầu ra từ phía sau cô ta. Harry đếm được năm đứa.
Anh bảo anh không đói và ngồi trong góc nhà nhìn họ ăn. Người trẻ hơn trong hai người phụ nữ ở căn nhà lưu động đó mang thức ăn lên và họ ăn rất nhanh, không khách sáo. Đám trẻ con vừa nhìn Harry vừa cười khúc khích và xô đẩy nhau. Harry nháy mắt với chúng và gượng nở một nụ cười trong lúc cảm giác dần dần trở lại với thân thể cứng ngắc, tê liệt của anh. Thế là tốt, vì cơ thể đó dài đến hai mét và từng xăng ti mét đều đang đau nhức. Sau đó Simon đưa cho anh hai cái chăn len và thân thiện vỗ vai anh một cái, hất đầu ra hiệu về phía cái nhà lưu động nhỏ. “Không phải là khách sạn Hilton, nhưng ở đây anh được an toàn, anh bạn.”
Chút hơi ấm nào còn sót lại trong cơ thể Harry thì cũng bay biến nốt ngay khi anh bước vào căn nhà lưu động khang khác nào cái tủ lạnh hình quả trứng đó. Anh đã hất văng đôi giày của Øystein vốn nhỏ hơn chân anh ít nhất một cỡ và xoa chân rồi cố gắng xoay trở để đôi chân ngoằng của mình vừa với cái giường ngắn ngủn. Việc cuối cùng anh nhớ nổi mình đã làm là anh đã phải chật vật lột cái quần ướt nhẹp ra.
“Hi hi hi.”
Harry lại mở mắt ra. Khuôn mặt nhỏ ngăm đen biến mất và tiếng cười lúc này cất lên từ bên ngoài, vọng vào qua cánh cửa để mở khiến một dải nắng bạo dạn len vào và chiếu lên bức tường sau lưng anh cùng những tấm ảnh ghim trên đó. Harry chống khuỷu tay ngồi lên và ngắm những tấm ảnh. Một tấm chụp hai thằng bé quàng tay ôm nhau đứng góc chính căn nhà lưu động mà lúc này anh đang nằm. Trông chúng có vẻ mãn nguyện. Không, còn hơn thế. Trông chúng thật hạnh phúc. Đó có lẽ là lý do khiến Harry hầu như không nhận ra nổi Raskol ngày nhỏ.
Harry lia chân xuống khỏi chiếc giường tầng và quyết định phớt lờ cơn đau đầu. Để chắc chắn là dạ dày vẫn ổn, anh bèn ngồi nán lại vài giây. Anh đã trải qua những thử thách tồi tệ hơn nhiều so với chuyện ngày hôm qua, tồi tệ hơn rất nhiều. Trong suốt bữa ăn tối hôm qua, anh đã suýt buột miệng hỏi họ xem có thứ đồ uống gì nặng hơn không, nhưng kìm lại được. Có lẽ cơ thể anh lúc này sẽ chịu được rượu tốt hơn sau một thời gian dài tiết chế chăng?
Câu hỏi của anh được trả lời khi anh bước ra ngoài.
Lũ trẻ tròn mắt kinh ngạc khi thấy Harry vịn vào cái thanh sắt nổi giữa xe ô tô và căn nhà lưu động rồi nôn lên lớp cỏ úa. Anh ho và khạc nhổ vài lần rồi dùng mu bàn tay chùi miệng.
Khi anh quay lại thì thấy Simon đang đứng đó với một nụ cười tươi roi rói, như thể việc trút hết mọi thứ trong dạ dày ra là cách khởi đầu tự nhiên nhất cho một ngày. “Ăn chứ, anh bạn?”
Harry nuốt khan rồi gật đầu.
Simon cho Harry mượn bộ vest nhàu nhĩ, một cái áo sơ mi sạch cổ rộng và chiếc kính râm to đùng. Họ lên chiếc Mercedes và lái tới phố Finnmarkgata. Tại chỗ dừng đèn đỏ cạnh quảng trường Cal Berners, Simon hạ cửa kính xuống và quát một người đàn ông đang đứng bên ngoài một ki ốt hút xì gà. Harry ngờ ngợ là đã trông thấy gã đâu đó. Theo kinh nghiệm thì anh biết cảm giác đó thường có nghĩa gã từng có tiền án. Gã cười hô hố và quát lại gì đó mà Harry không nghe rõ.
“Người quen à?” anh hỏi.
“Một đầu mối liên lạc,” Simon nói.
“Một đầu mối,” Harry lặp lại, nhìn chiếc xe cảnh sát đang chờ đèn xanh phía bên kia ngã tư.
Simon rẽ sang hướng Tây, đi về phía bệnh viện Ulleval.
“Nói cho tôi biết đi,” Harry nói. “Raskol có đầu mối kiểu gì ở Nga mà lại có thể tìm ra một người trong cái thành phố hai mươi triệu dân như thế?” Harry búng ngón tay đánh tách. “Có phải là mafia Nga không?”
Simon bật cười. “Có lẽ. Nếu anh không nghĩ ra ai giỏi tìm người hơn.”
“KGB ư?”
“Nếu tôi nhớ chính xác thì họ không còn tồn tại nữa, anh bạn ạ.” Simon cười to hơn.
“Vị chuyên gia Nga ở Cục An ninh đã bảo tôi rằng những cựu điệp viên của KGB vẫn đang hoạt động.”
Simon nhún vai. “Đặc ân, anh bạn ạ. Và đáp lại đặc ân. Toàn bộ chuyện đó là như vậy.”
Harry nhìn lướt khắp con phố. Một cái xe tải phóng ào qua. Anh đã nhờ Tess cô bé mắt nâu đã đánh thức anh - chạy tới khu trung tâm Toyen mua hộ mấy tờ báo Dagbladet và Verdens Gang, nhưng chẳng thấy tờ nào đăng tin cảnh sát bị truy nã. Nhưng như vậy không có nghĩa là anh có thể chường mặt ra khắp nơi, bởi lẽ, trừ phi anh nhầm, ảnh anh hẳn đã có trong mọi xe cảnh sát.
Harry vội bước tới chỗ cánh cửa, cắm cái chìa khóa của Raskol vào ổ và xoay. Anh cố gắng không gây ra tiếng động trong hành lang. Có một tờ báo bên ngoài cửa nhà Astrid Monsen. Khi đã lọt vào được trong căn hộ của Anna, anh nhè nhẹ đóng cánh cửa lại sau lưng và hít một hơi.
Đừng nghĩ về thứ mình cần tìm.
Căn hộ có mùi mốc. Anh đi vào căn phòng ở cuối. Chẳng có gì bị đụng tới kể từ lần cuối anh tới đây. Bụi nhảy múa trong ánh nắng đang tràn vào qua cửa sổ và chiếu sáng ba bức chân dung. Anh đứng ngắm nhìn chúng. Có gì đó quen thuộc đến kỳ lạ ở những cái đầu méo mó. Anh đi tới gần những bức tranh và lướt những đầu ngón tay qua những cục sơn dầu. Nếu chúng đang trò chuyện với anh thì anh chẳng hiểu chúng nói gì cả.
Rồi anh đi vào bếp.
Bếp bốc mùi rác và mỡ ôi. Anh mở cửa sổ ra, xem xét đống đĩa và dao kéo trong bồn rửa. Chúng đã được tráng nhưng chưa được rửa. Anh dùng nĩa chọc chọc những mẩu thức ăn đã rắn lại. Tách một mẩu bé xíu màu đỏ trong nước xiết ra. Cho vào miệng. Ớt Nhật.
Hai ly rượu vang nằm sau cái chảo lớn. Một ly còn dính ít cặn mịn màu đỏ, còn ly kia có vẻ như đã không được dùng đến. Harry đưa cái ly lên mũi ngửi, nhưng chỉ thấy mùi một chiếc ly ấm. Ngoài những cái ly uống rượu vang còn có hai cái cốc thường. Anh tìm thấy một cái khăn lau bát để có thể cầm mấy cái ly giơ ra trước ánh sáng mà không để lại dấu vân tay. Một cái sạch, còn cái kia phủ một lớp dinh dính. Anh dùng móng tay cạo lớp dính đó và mút ngón tay. Đường. Có vị cà phê. Coca ư? Harry nhắm mắt lại. Rượu vang và Coca? Không. Là nước và rượu vang cho một người. Coca và cái ly không đụng đến cho người kia. Anh quấn cái ly trong mảnh khăn và nhét nó vào túi áo khoác. Trong cơn bốc đồng, anh đi vào phòng tắm, xoáy mở nắp bồn chứa nước bồn cầu và lần sờ bên trong. Không thấy gì.
Bước ra phố, anh nhìn thấy những đám mây từ đằng Tây đang ùn ùn kéo tới và không khí trở nên lạnh tê. Harry cắn môi dưới. Anh quyết định rồi rảo bước về phía phố Vibes.
Harry ngay lập tức nhận ra gã trai đứng sau quầy ở cửa hàng khóa.
“Xin chào, tôi tới từ Sở Cảnh sát,” Harry nói, hy vọng thằng nhóc không hỏi tới cái thẻ ngành anh cất trong túi áo khoác bỏ lại nhà Vigdis Albu ở Slemdal.
Gã trai đặt tờ báo xuống. “Tôi biết.”
Nỗi hoảng hốt choán lấy Harry trong một giây.
“Tôi nhớ anh đã tới đây lấy một chiếc chìa khóa.” Gã trai cười toe. “Tôi nhớ tất cả các khách hàng của mình.”
Harry hắng giọng. “Ừm, tôi không hẳn là một khách hàng.”
“Vậy sao?”
“Không, chiếc chìa khóa đó không phải lấy cho tôi. Nhưng đó không phải là lý do…”
“Phải là của anh chứ,” gã trai cắt ngang. “Một chiếc chìa khóa hệ thống, phải không?”
Harry gật đầu. Từ khóe mắt, anh nhìn thấy một chiếc xe tuần tra đang chầm chậm chạy qua. “Chính là tôi đang muốn hỏi về chìa khóa hệ thống. Tôi không biết là làm thế nào mà một người bên ngoài lại có thể có được bản sao của một chiếc chìa khóa hệ thống như thế. Ví dụ như một cái chìa Trioving.”
“Không thể,” gã trai nói với cái giọng chắc như đinh đóng cột của một người hay đọc các tạp chí khoa học có hình minh họa. “Chỉ Trioving mới có thể làm thêm một bản sao sử dụng được. Vì thế cách duy nhất là làm giả giấy xin phép viết tay của ban quản lý chung cư. Nhưng ngay cả chuyện đó cũng sẽ bị phát hiện khi anh tới lấy chiếc chìa khóa vì chúng tôi sẽ hỏi thẻ căn cước của anh và so lại với danh sách các chủ căn hộ trong tòa nhà.”
“Nhưng tôi đã lấy được một cái chìa khóa hệ thống trong này. Và đó lại là chìa khóa của người khác.”
Gã trai nhíu mày. “Không, tôi nhớ khá rõ là anh đã chìa thẻ căn cước ra và tôi đã kiểm tra tên. Anh nghĩ là mình đã lấy chìa khóa của ai?”
Qua hình ảnh phản chiếu trên cửa kính sau quầy, Harry thấy chiếc xe cảnh sát kia chạy ngược lại.
“Thôi bỏ qua đi. Có cách nào khác để đánh thêm một chiếc chìa khóa không?”
“Không. Trioving, cái công ty đã đánh những cái chìa này, chỉ nhận đơn đặt hàng từ những khách hàng được ủy quyền giống như chúng tôi thôi. Và, như tôi đã nói, chúng tôi kiểm tra giấy tờ và quản lý những chiếc chìa khóa của các nhà ở chung và các khu chung cư. Hệ thống này phải khá an toàn.”
“Nghe có vẻ như vậy.” Harry bực bội đưa tay lên xoa mặt. “Cách đây ít lâu tôi đã gọi tới và được bảo rằng có một người phụ nữ sống ở Sorgenfrigata đã nhận được ba chiếc chìa cho căn hộ của cô ta. Một cái chúng tôi tìm thấy trong căn hộ của cô ta, cái thứ hai cô ta đưa cho người thợ điện phải sửa chữa gì đó và cái thứ ba chúng tôi tìm được ở một nơi khác. Vấn đề là, tôi không tin rằng cô ta đã đặt đánh chiếc chìa thứ ba. Anh có thể kiểm tra thông tin đó giùm tôi không.”
Gã trai nhún vai. “Đương nhiên là có thể, nhưng tại sao anh không tự mình hỏi cô ta cho xong?”
“Có kẻ đã bắn chết cô ấy.”
“Ối trời,” gã trai kêu lên, chẳng buồn chớp mắt.
Harry đứng im như tượng. Anh có thể cảm nhận được thứ gì đó. Những rung động nhỏ nhất. Có lẽ chỉ là gió lùa qua cửa? Đủ để khiến tóc gáy dựng đứng. Có tiếng hắng giọng ngập ngừng. Anh chưa nghe thấy tiếng chân người bước vào. Không quay đầu lại, anh cố gắng nhìn xem ai, nhưng ở góc đó thì không thể.
“Cảnh sát,” một giọng the thé cất lên sau lưng anh. Harry nuốt nghẹn. “Sao?” gã trai nói, ngó qua vai Harry.
“Họ đang ngoài kia,” cái giọng đó nói. “Họ bảo rằng bà già ở số nhà 14 vừa bị đột nhập. Bà ấy cần một ổ khóa mới ngay lập tức vì vậy họ muốn hỏi là liệu chúng ta có thể cử ai đó tới ngay lập tức không.”
“Thế anh đi với họ đi, Alf. Anh thấy đấy, tôi đang có khách.”
Harry chăm chú lắng nghe cho đến lúc tiếng bước chân xa dần. “Anna Bethsen.” Anh nghe thấy mình thì thào. “Anh có thể kiểm tra xem liệu có phải chính cô ấy đã đích thân đến lấy tất cả các chìa khóa không?”
“Không cần phải kiểm tra. Chắc chắn là cô ta đã lấy tất cả.”
Harry nhoài qua mặt quầy. “Anh cứ kiểm tra giúp tôi xem?”
Gã trai thở dài đánh sượt rồi đi vào gian trong. Gã mang một tập hồ sơ ra rồi lật giở. “Anh tự xem đi,” gã nói. “Đây, đây và đây.”
Harry nhận ra mấy cái giấy biên nhận. Chúng giống hệt với những cái mà chính anh đã ký khi anh tới lấy chìa khóa cho Anna. Nhưng tất cả các biên nhận đều là do Anna ký. Anh đang định hỏi cái biên nhận có chữ ký của anh đâu thì chợt nhìn thấy ngày tháng.
“Biên nhận này cho thấy cái chìa khóa cuối cùng được lấy vào tháng Tám,” anh nói. “Nhưng đó là từ rất lâu trước lúc tôi tới đây và…”
“Sao?”
Harry ngước nhìn lên không trung. “Cảm ơn anh,” anh nói. “Tôi đã tìm thấy thứ tôi cần.”
Ngoài trời, gió đã mạnh lên. Harry gọi điện từ một bốt điện thoại ở quảng trường Valkyrie.
“Beate à?”
Hai con mòng biển bay ngược chiều gió phía trên tòa tháp của Trường Hàng hải và lượn lờ ở đó. Bên dưới chúng là vịnh Oslo, nước đã ngả màu xanh đen đáng sợ, và đỉnh Ekeberg, nơi hai người đang ngồi trên chiếc ghế băng trông như hai cái chấm nhỏ xíu.
Harry đã nói xong chuyện về Anna Bethsen. Về thời gian họ qua lại với nhau. Về những gì anh còn nhớ được trong cái đêm cuối cùng đó. Về Raskol. Beate cũng đã kể với anh rằng họ đã truy ra nguồn gốc của cái máy tính xách tay đó. Ba tháng trước, nó đã được rạp phim Colosseum mua lại từ cửa hàng Expert. Giấy bảo đảm là do Anna Bethsen viết. Chiếc điện thoại di động kết nối với nó là cái điện thoại Harry khẳng định anh đã bị mất.
“Tôi ghét tiếng kêu của lũ mòng biển,” Harry nói.
“Anh chỉ nói được có thế thôi à?”
“Và lúc này thì đúng là vậy.”
Beate đứng dậy. “Tôi không nên tới đây, Harry. Lẽ ra anh không nên gọi cho tôi.”
“Nhưng cô đã tới đấy thôi.” Harry thôi không cố châm lửa giữa gió nữa. “Điều đó có nghĩa là cô tin tôi, phải không?”
Đáp lại, Beate vung hai tay ra với vẻ bực bội.
“Tôi cũng chẳng biết gì nhiều hơn cô,” Harry nói. “Thậm chí còn không chắc chắn được là mình đã không bắn Anna.”
Hai con mòng biển tách nhau ra và trình diễn một màn nhào lộn đẹp mắt trong giờ.
“Hãy cho tôi những gì anh biết một lần nữa,” Beate nói.
“Tôi biết gã này đã lấy được chìa khóa căn hộ của Anna bằng cách nào đó nên hắn đã có thể lẻn vào rồi thoát ra vào cái đêm xảy ra án mạng. Khi rời khỏi đó, hắn mang máy tính xách tay của Anna và điện thoại di động của tôi đi theo.”
“Điện thoại di động của anh sao lại ở trong căn hộ của Anna?”
“Có lẽ nó đã bị rơi ra khỏi túi áo khoác của tôi trong buổi tối hôm đó. Tôi kể với cô là tôi đã hơi hưng phấn.”
“Rồi sao?”
“Kế hoạch ban đầu của hắn đơn giản thôi. Lái xe tới Larkollen sau khi ra tay rồi nhét cái chìa hắn đã dùng vào căn nhà gỗ của Arne Albu. Móc vào cái móc chìa khóa có những chữ cái A.A. để không ai nghi ngờ gì. Nhưng khi thấy điện thoại của tôi ở đó thì đột nhiên hắn nhận ra rằng hắn có thể thay đổi kế hoạch một chút. Khiến cho sự việc trông như thể tôi mới chính là kẻ giết Anna rồi sắp đặt chứng cứ để đổ tội cho Arne Albu. Sau đó, hắn dùng điện thoại của tôi để kết nối với một máy chủ ở Ai Cập và bắt đầu gửi email cho tôi theo một cách mà không bao giờ có thể lần ra người gửi.”
“Và nếu như hắn bị lần ra thì nó sẽ dẫn tới…”
“Tôi. Tuy nhiên, tôi không phát hiện ra có chuyện gì bất ổn cho tới khi nhận được hóa đơn kế tiếp từ hãng Telenor. Có lẽ thậm chí ngay cả lúc đó cũng không, vì tôi không đọc kỹ lắm.”
“Hoặc là cắt thuê bao khi bị mất điện thoại.”
“Ừm.” Harry đứng phắt dậy và bắt đầu đi đi lại lại. “Điều khó hiểu hơn là làm thế nào hắn lọt được vào kho của tôi trong tầng hầm. Cô không tìm thấy bất cứ dấu hiệu nào cho thấy có kẻ đột nhập và không ai trong tòa nhà tôi ở lại tiếp tay cho kẻ đột nhập. Nói cách khác, ắt là hắn phải có chìa khóa. Thật ra, hắn chỉ cần một cái chìa khóa vì chúng tôi sử dụng một chiếc chìa khóa hệ thống để mở cả cửa tòa nhà, cửa gác mái, cửa tầng hầm và cửa căn hộ, nhưng không dễ gì mà có được một cái như thế. Mà chìa khóa của căn hộ nhà Anna cũng là một chiếc chìa khóa hệ thống…”
Harry dừng lại và nhìn về hướng Nam. Một con tàu vận tải màu xanh lục, có hai cái cần trục to tướng đang đi ngược trên vịnh.
“Anh đang nghĩ gì thế?” Beate hỏi.
“Tôi đang nghĩ là liệu có nên nhờ cô kiểm tra một số cái tên giúp tôi không.”
“Tốt hơn là tôi không nên làm, Harry. Như tôi đã nói, lẽ ra tôi còn không nên tới đây.”
“Và tôi đang thắc mắc là sao cô lại bị mấy vết bầm kia.”
Cô đưa phắt tay lên cổ. “Tại tập Judo thôi. Anh còn thắc mắc gì nữa không?”
“Có, tôi muốn nhờ cô đưa cái này cho Weber.” Harry lôi một cái ly thủy tinh bọc vải từ trong túi áo khoác ra. “Nhờ ông ta kiểm tra dấu vân tay trên đó và so sánh với dấu vân tay của tôi.”
“Ông ấy có dấu vân tay của anh không?”
“Phòng Giám định Pháp y có dấu vân tay của mọi cảnh sát hình sự. Và nhờ ông ấy phân tích chất trong ly.”
“Harry…” cô lên tiếng, giọng có vẻ quở trách.
“Làm ơn?”
Beate thở dài và cầm lấy cái gói.
“Lasesmeden AS,” Harry nói.
“Anh nói vậy là sao?”
“Nếu cô đổi ý chuyện kiểm tra mấy cái tên đó, cô có thể xem danh sách nhân viên ở Lasesmeden. Đó là một công ty khóa nhỏ.”
Cô làm vẻ mặt cam chịu.
Harry nhún vai. “Chỉ cần cô đưa cho Weber cái ly là tôi cũng hài lòng rồi.”
“Khi Weber có kết quả thì tôi liên lạc với anh ở đâu?”
“Có thật cô muốn biết không?” Harry mỉm cười.
“Tôi muốn biết càng ít càng tốt. Anh sẽ liên lạc với tới, được chứ?”
Harry khép chặt cái áo khoác hơn nữa. “Ta đi chứ?”
Beate gật đầu, nhưng không nhúc nhích. Harry nhướng mày.
“Thứ mà hắn viết,” cô nói. “Cái đoạn nói rằng ‘chỉ có kẻ hận thù nhất mới sống sót được’. Anh nghĩ điều đó có đúng không, Harry?”
○○○
Harry duỗi chân trên chiếc giường ngắn ngủn trong căn nhà lưu động. Tiếng xe cộ ngoài phố Finnunarkgata khiến Harry nhớ tới thời thơ ấu ở Oppsal, nằm trên giường và lắng nghe tiếng xe cộ. Vào mùa hè, khi cả nhà anh về nhà ông nội ở thị trấn Andalsnes yên tĩnh, đó là thứ duy nhất mà anh khao khát: được trở về với cái tiếng vù vù đều đều ru ngủ của ô tô, chỉ bị phá vỡ bởi một chiếc xe máy, một cái ống bô ồn ào hay tiếng còi hụ của xe cảnh sát ở đằng xa.
Có tiếng gõ cửa. Là Simon. “Tess muốn anh kể chuyện cho nó trước khi đi ngủ cả tối mai nữa,” anh ta vừa nói vừa bước vào trong nhà. Harry đã kể cho con bé nghe chuyện con chuột túi đã học cách nhảy như thế nào và được thưởng một cái ôm chúc ngủ ngon của tất cả bọn trẻ.
Hai người đàn ông lặng lẽ hút thuốc. Harry chỉ vào tấm ảnh trên tường. “Đó là Raskol và anh trai phải không? Stefan, cha của Anna ấy?”
Simon gật đầu.
“Bây giờ Stefan đang ở đâu?”
Simon nhún vai, tỏ vẻ không mấy quan tâm, và Harry biết chủ đề đó là cấm kỵ.
“Nhìn trong tấm ảnh trông họ có vẻ là một đôi bạn thân,” Harry nói.
“Anh biết không, họ cứ như cặp song sinh dính liền vậy. Đôi bạn chí thân. Raskol từng ngồi tù hai lần thay cho Stefan.” Simon bật cười. “Tôi có thể thấy là anh sửng sốt, anh bạn ạ. Đó là truyền thống của họ. Anh có hiểu không? Nhận sự trừng phạt thay cha hoặc anh là một vinh dự.”
“Cảnh sát hoàn toàn không thấy như vậy đâu.”
“Họ không phân biệt được Raskol với Stefan. Anh em Di gan mà. Không dễ dàng đối với cảnh sát Na Uy.” Anh ta toét miệng cười và mời Harry một điếu thuốc. “Nhất là khi họ đeo mặt nạ.”
Harry rít một hơi thuốc và hỏi bừa một câu. “Chuyện gì đã chen vào giữa họ?”
“Anh nghĩ sao?” Simon mở to mắt với điệu bộ rất kịch. “Đương nhiên là một người đàn bà.”
“Anna ư?”
Simon không trả lời, nhưng Harry biết anh đang tới gần cái anh đang muốn biết. “Có phải việc Stefan không muốn dính dáng gì đến Anna nữa liên quan tới chuyện cô ấy đã cặp với một gã gadjo không?”
Simon dụi tắt điếu thuốc rồi đứng lên. “Không phải là Anna, mà là mẹ cô ta. Chúc ngủ ngon, Spiuni.”
“Ừm. Câu hỏi cuối cùng được không?” Simon đứng lại. “Spiuni nghĩa là gì vậy?”
Simon cười khùng khục. “Đó là cách nói gọn của từ Spiuni gjerman - gã gián điệp người Đức. Nhưng thư giãn đi, anh bạn. Nó không có ý xúc phạm gì đâu. Ở vài nơi, thậm chí nó còn được dùng để đặt tên cho con trai đấy.”
Rồi anh ta đóng cửa lại và đi về.
Gió đã lặng và chỉ còn nghe thấy tiếng xe cộ đều đều chạy qua ngoài phố Finnmarkgata. Nhưng Harry vẫn không sao ngủ nổi.
○○○
Beate nằm trên giường, lắng nghe tiếng xe cộ bên ngoài. Hồi còn nhỏ, giọng kể của cha thường ru cô vào giấc ngủ. Những câu chuyện của cha chẳng có trong cuốn sách nào mà là do ông sáng tạo ra ngay trong lúc kể. Chúng chẳng bao giờ giống hệt nhau, cho dù thỉnh thoảng cũng mở đầu giống nhau và có những nhân vật giống nhau: hai tên trộm xấu xa, một ông bố thông minh và cô con gái dũng cảm. Và chúng luôn kết thúc có hậu là lũ trộm bị tóm.
Beate không nhớ nổi có bao giờ cô nhìn thấy ông đọc sách không. Khi lớn lên, cô nhận ra rằng cha cô bị mắc chứng khó đọc. Nếu không phải vì thế thì lẽ ra ông đã trở thành luật sư, mẹ cô bảo vậy.
“Đúng như mong muốn của cha mẹ về con.”
Nhưng những câu chuyện đó chẳng kể về ông luật sư nào, và khi Beate báo với mẹ rằng cô đã được nhận vào trường Cảnh sát thì mẹ cô bật khóc.
Beate giật mình choàng tỉnh. Có ai vừa bấm chuông. Cô rên lên và lia chân xuống khỏi giường.
“Anh đây,” giọng nói trong điện thoại nội bộ nói.
“Tôi đã bảo không muốn gặp anh nữa rồi cơ mà,” Beate nói, run lên trong cái áo choàng mặc nhà mỏng manh. “Về đi.”
“Anh sẽ về khi đã xin lỗi xong. Đó không phải là anh. Anh không phải là người như vậy. Chỉ tại anh… mất kiểm soát. Làm ơn Beate. Chỉ năm phút thôi.”
Cô do dự. Cổ cô vẫn cứng đơ và Harry đã nhận thấy những vết bầm. “Anh mang theo một món quà,” cái giọng đó nói.
Cô thở dài. Dù chuyện gì xảy ra thì một lúc nào đó cô cũng sẽ phải gặp anh ta thôi. Tốt hơn là giải quyết mọi chuyện nhà chứ không phải ở cơ quan. Cô nhấn nút, buộc chặt cái áo choàng lại quanh người và đứng đợi ở cửa, lắng nghe tiếng bước chân của anh ta trên cầu thang.
“Chào,” anh ta nói khi nhìn thấy cô, và mỉm cười. Một nụ cười tươi rói, trắng lóa của David Hasselhoff.