Nguyên tác: 倚天屠龍記
Số lần đọc/download: 26888 / 924
Cập nhật: 2018-05-25 23:16:08 +0700
Hồi 36 Yêu Kiều Tam Tùng Uất Thanh Thương
Bao giờ ma chướng lặng,
Tâm thanh tĩnh vô duyên.
Một niệm oan nghiệt trổi,
Vòng Kim Cương triền miên.
o O o
D
ưới cơn mưa như trút, số người canh gác trên mái nhà và các nơi đều giảm đi nhiều. Trương Vô Kỵ men theo các góc tường, nhờ có các gốc cây che khuất thẳng đường đuổi theo. Chàng thấy Viên Chân nhảy ra khỏi tường vây quanh đằng sau chùa, nghĩ thầm: "Thì ra nghĩa phụ bị nhốt ở bên ngoài, hèn gì trong chùa không thấy một chút hình tích nào hết".
Chàng không dám công nhiên nhảy qua tường đuổi theo nên đành phải đứng ở chân tường từ từ trèo lên. Đến trên bờ tường đợi cho các tăng nhân tuần tra đi qua rồi lúc ấy mới dám nhảy xuống.
Trong cơn mưa chàng thấy chiếc dù của Viên Chân ở phía bắc, cách khoảng chừng một trăm trượng quay ngoặt qua bên trái, rồi đi thẳng lên đỉnh một ngọn núi nhỏ. Viên Chân lúc này tuổi tác cũng phải bảy mươi vậy mà thân thủ vẫn nhanh nhẹn dị thường, chiếc dù không rung động một chút nào, chẳng khác gì có người buộc dây kéo y tà tà bay lên.
Trương Vô Kỵ vội vàng đi tới chân núi, đang định trèo lên, bỗng thấy bên cạnh sơn đạo ánh sáng lấp loáng, có người cầm binh khí mai phục nơi đó. Chàng vội vàng dừng bước, chỉ trong giây lát thấy trong đám cây nhảy ra bốn người, ba người đi trước, một người đi sau, cùng chạy lên trên đỉnh núi. Nhìn lên trên chỉ thấy trên tột cùng có vài cây tùng xanh rì, chẳng thấy nhà cửa gì cả, không hiểu Tạ Tốn bị nhốt ở nơi nào nên chàng cũng theo lên trên ngọn núi.
Bốn người kia khinh công hết sức cao siêu, chàng gia tăng cước bộ, đuổi theo chỉ cách họ chừng hai chục trượng. Trong bóng đêm chàng thấy thấp thoáng một người đàn bà, ba người đàn ông ăn mặc theo lối tục gia, nghĩ thầm: "Bốn người này phần lớn là đến để gây chuyện với nghĩa phụ, vậy cứ để cho họ đấu với Viên Chân đến khi một sống một chết, ta không việc gì phải vội ra tay".
Đến gần đỉnh núi, bốn người kia càng chạy nhanh hơn. Chàng đột nhiên nhận ra hai người trong đó: "Ồ, hóa ra là hai vợ chồng Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn của phái Côn Lôn".
Chỉ nghe Viên Chân hú lên một tiếng dài, đột nhiên quay phắt lại, chạy vụt trở xuống. Trương Vô Kỵ vội vàng ẩn vào trong đám cỏ ở bên đường, nằm mọp xuống mà di hành, vừa qua bên trái mấy trượng, đã nghe binh khí chạm nhau chát chúa, thì ra Viên Chân đã động thủ với những người đi tới.
Cứ như tiếng binh khí đụng chạm nhau thì hai người đang đấu với một mình Viên Chân chàng chợt động tâm: "Nếu hai người còn lại không tiến lên tấn công ắt là họ đang lên đỉnh núi để tìm nghĩa phụ ta rồi". Chàng bèn vội theo đám cỏ cao trèo lên.
Đến đỉnh núi rồi thấy đó là một khoảng đất trống phẳng lì, chẳng có nhà cửa phòng ốc gì hết, chỉ có ba cây tùng cao ngất mọc thành hình chữ phẩm, cành lá vươn lên không uốn khúc như ba con rồng, chàng thầm ngạc nhiên: "Chẳng lẽ nghĩa phụ không phải bị giam nơi đây?".
Bỗng thấy trong bụi cỏ phía bên phải có tiếng loạt soạt, ai đó đang cử động, rồi nghe tiếng Ban Thục Nhàn nói:
- Mau mau động thủ, hai vị sư đệ chưa chắc đã cầm cự được với nhà sư Thiếu Lâm đâu.
Hà Thái Xung nói:
- Đúng thế!
Hai người liền chui ra, xông vào trong giữa ba cây tùng. Trương Vô Kỵ ngại rằng Tạ Tốn cũng ở gần đâu đây, không dám sơ suất chút nào, cũng vội từ trong đám cỏ trườn lên. Đột nhiên nghe thấy Hà Thái Xung kêu hự lên một tiếng, dường như đã bị thương. Chàng thò đầu ra xem, thấy Hà Thái Xung đang ở khoảng giữa ba cây thông, trường kiếm múa lên, dường như đang cùng ai giao đấu, nhưng không thấy đối phương đâu, chỉ thỉnh thoảng vọng tới những tiếng bộp bộp bộp, nghe như trường kiếm đang đụng phải một thứ binh khí gì quái lạ. Chàng trong bụng lạ lùng, vội bò lên thêm vài trượng nữa, chăm chú nhìn xem không khỏi giật mình kinh hãi.
Thì ra hai cái gốc cây đối diện với chàng đều có hõm vào một cái hốc đủ để chứa một người, trong mỗi gốc cây có một lão tăng, tay múa một sợi dây dài màu đen, đánh vào vợ chồng Hà Thái Xung. Một cây tùng thì lưng quay về phía Trương Vô Kỵ, từ phía trước cũng có một sợi dây đánh ra, ắt hẳn cũng có một nhà sư ngồi trong đó. Trong đêm tối, ba sợi đây đen sì, khi múa lên không thấy một chút hình bóng nào. Vợ chồng Hà Thái Xung múa trường kiếm thủ hộ thật nghiêm mật, nhưng vì không nhìn thấy đường đi của binh khí đối phương nên không có cách gì tấn công trả lại được. Ba sợi dây trông thì có vẻ chậm nhưng thực ra rất nhanh, lại không có chút hơi gió nào, dưới cơn mưa như trút nước, nơi đỉnh núi âm u, thật chẳng khác nào ma quỉ, ngụy bí vô cùng.
Hai vợ chồng họ Hà luôn mồm kêu la chỉ điểm lẫn nhau, cố hết sức để thoát khỏi vòng vây hình chữ phẩm này nhưng mỗi lần xông ra đều bị ba sợi dây dồn trở vào. Trương Vô Kỵ kinh ngạc thầm, thấy ba sợi dây múa lên không một tiếng động, nội lực của người sử dụng đã đến mức phản chiếu không minh[1], công lực tinh thuần, không còn lộ ra chút vấp váp nào, chính mình cũng không bì kịp trong bụng sợ hãi: "Viên Chân có nói rằng nghĩa phụ ta do ba vị thái sư thúc canh gác, chắc là ba vị lão tăng này, công lực quả thực thâm hậu kể sao cho xiết".
Chỉ nghe một tiếng "A" thật thảm thiết, lưng Hà Thái Xung đã bị đánh trúng một roi, từ trong vòng văng ra, xem chừng không thể nào sống được nữa. Ban Thục Nhàn vừa đau xót vừa hoảng hốt, sơ ý một chút, ba sợi dây cùng đánh vào lập tức đầu nát tan, chân tay gãy vụn, không còn ra hình dáng gì. Tiếp theo một sợi dây rung mạnh, cuộn cái xác bà ta vứt ra ngoài.
Viên Chân vừa đánh vừa chạy, lùi lên trên đỉnh núi, mồm kêu:
- Gớm nhỉ, có giỏi thì lên đây chịu chết.
Hai người đối địch với y đều là cao thủ phái Côn Lôn, cứ tính võ công thì Viên Chân không kém gì họ nhưng không phải cứ cất tay là giết được ngay, giỏi lắm cũng chỉ giết được một, người kia ắt sẽ nhanh chân chạy mất nên dụ cho họ đến dưới chỗ ba cây tùng.
Hai người còn cách chỗ cây tùng chừng vài trượng thấy xác Hà Thái Xung nằm đó nên cùng dừng lại, không đề phòng hai sợi dây từ đằng sau lẳng lặng bay tới cuốn chặt lưng hai người, cùng rung một cái, ném từ trên đỉnh núi cao hàng trăm trượng xuống dưới vực. Hai người rơi xuống đụng đá chết ngay nhưng tiếng kêu thảm thiết của họ khi còn lơ lửng trên không, vang qua dội lại những vách núi khác vang vang mãi hồi lâu mới dứt.
Trương Vô Kỵ thấy ba vị lão tăng trong giây lát đã thanh toán xong bốn đại cao thủ phái Côn Lôn, ra tay nặng mà xem thật nhẹ nhàng như trò đùa, võ công cao siêu như thế trên đời này thật khó thấy, so với Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông còn có vẻ cao hơn, tuy chưa bì được với thái sư phụ Trương Tam Phong "thâm bất khả trắc" nhưng cũng đạt tới mức thần kỳ. Phái Thiếu Lâm nếu như còn những bậc nguyên lão thế này, xem ra ngay cả thái sư phụ và Dương Tiêu cũng không biết, tim chàng đập thình thình, nằm mọp trong đám cỏ cao không dám thở mạnh.
Chỉ thấy Viên Chân giơ chân đá luôn hai cái xác Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn bay xuống sơn cốc. Hai tử thi rơi một hồi lâu mới nghe truyền lên mấy tiếc lục cục, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Vợ chồng Hà Thái Xung đối với ta lấy oán báo đức, hôm nay lại toan đến hại nghĩa phụ ta để cướp bảo đao, nhân phẩm tuy thấp kém nhưng võ công cao siêu, quả là bậc tông sư của một môn phái, ngờ đâu lại ra nông nỗi". Chàng nghe Viên Chân cung kính nói:
- Ba vị thái sư thúc thần công cái thế, vừa cất tay đã tiêu diệt được bốn đại cao thủ của phái Côn Lôn, Viên Chân này khâm phục vô cùng, không biết nói sao cho vừa.
Một lão tăng hừ một tiếng, không trả lời. Viên Chân nói tiếp:
- Viên Chân phụng lệnh phương trượng sư thúc, kính cẩn đến thăm hỏi ba vị thái sư thúc, xin được nói chuyện với tù đồ vài câu.
Tiếng một người khô khan nói:
- Không Kiến sư điệt tài cao đức trọng, ba chúng ta yêu quí vô cùng, vẫn mong y phát huy được võ học phái Thiếu Lâm, lại chẳng may chết về tay kẻ gian. Ba người bọn ta tọa quan đã mấy chục năm, vốn không màng đến việc đời nữa, nay cũng vì Không Kiến sư điệt mà phải đến ngọn núi này. Gian nhân kia có chết cũng đáng, một đao chém y cho xong, việc gì còn phải lằng nhằng cho thêm phiền việc thanh tu của ba chúng ta?
Viên Chân khom lưng đáp:
- Thái sư thúc dạy chí phải. Thế nhưng phương trượng sư thúc có nói rằng: Ân sư của đệ tử tuy bị gian nhân hãm hại nhưng công phu của ân sư cao siêu biết là chừng nào, làm sao một mình kẻ gian kia lại giết chết được? Cho nên đem y giam ở đây, phiền ba vị thái sư thúc công lao tọa thủ, một là để dẫn dụ đồng đảng của kẻ gian tới cứu, thế là có dịp trừ sạch những kẻ năm xưa giết hại ân sư đệ tử, không để cho ai thoát, thứ nữa ép y giao lại thanh đao Đồ Long, để thanh đao này khỏi rơi vào tay phái khác, soán đoạt cái tên võ lâm chí tôn, làm tổn đến uy vọng trăm nghìn năm qua của bản phái.
Trương Vô Kỵ nghe y nói thế, không khỏi ngầm nghiến răng, nghĩ thầm: "Gã ác tặc Viên Chân này dẫu lăng trì tùng xẻo cũng chưa hết tội, y mồm mép bẻo lẻo mời được ba vị cao tăng không lý việc đời mấy chục năm qua ra, mượn tay ba người giết các cao thủ võ lâm". Chàng nghe một vị lão tăng hừ một tiếng đáp:
- Vậy thì ngươi nói chuyện với y đi.
Khi đó mưa vẫn chưa tạnh, tiếng sấm chớp vẫn ỳ ầm không dứt. Viên Chân đi đến giữa ba cây tùng, quì xuống, nói xuống mặt đất:
- Tạ Tốn, ngươi đã nghĩ kỹ chưa? Chỉ cần ngươi nói ra nơi cất dấu thanh đao Đồ Long, ta lập tức thả cho ngươi đi.
Trương Vô Kỵ thấy thật lạ lùng: "Y nói vọng xuống mặt đất, không lẽ nơi đây có một địa lao, nghĩa phụ ta bị nhốt trong đó hay sao?".
Chỉ nghe một âm thanh trong trẻo hơn của một lão tăng bực bội nói:
- Viên Chân, người xuất gia không được vọng ngữ, sao ngươi lại đánh lừa y là sao? Nếu y nói ra nơi cất giữ bảo đao, không lẽ ngươi thả y ra thật ư?
Viên Chân đáp:
- Xin thái sư thúc minh giám cho, đệ tử thiển nghĩ, mối thù của ân sư tuy sâu thật nhưng để lên bàn cân thì uy vọng của bản phái còn nặng hơn. Chỉ cần y nói lên nơi cất giữ thanh đao, bản phái có được bảo đao rồi thì sẽ thả cho y đi. Ba năm sau, đệ tử sẽ đi kiếm y để báo thù cho ân sư cũng được.
Lão tăng đó nói:
- Như thế cũng phải. Trong võ lâm tín nghĩa làm đầu, một lời nói ra như tên rời khỏi nỏ, dù là kẻ đại gian đại ác thì đệ tử Thiếu Lâm cũng không thể thất tín được.
Viên Chân nói:
- Xin kính cẩn tuân theo lời giáo huấn của thái sư thúc.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ba nhà sư Thiếu Lâm này không những võ công trác tuyệt, mà còn là những cao tăng đức độ, có điều rơi vào gian kế của Viên Chân mà không hay biết đấy thôi". Lại nghe Viên Chân quát xuống dưới đất:
- Tạ Tốn, lời của thái sư thúc ta, ngươi nghe thấy chưa? Ba vị lão nhân gia bằng lòng để ngươi đào tẩu đó.
Bỗng dưới đất truyền lên tiếng người nói:
- Thành Côn, ngươi còn mặt mũi nào nói chuyện với ta nữa?
Trương Vô Kỵ nghe thấy giọng nói vừa hùng hồn vừa lạnh lẽo, chính là tiếng của nghĩa phụ, trong lòng cực kỳ xúc động, hận không thể lập tức xông lên, đánh chết Thành Côn, cứu Tạ Tốn ra. Thế nhưng nếu chàng xuất hiện, ba sợi dây đen của các cao tăng Thiếu Lâm sẽ đánh tới liền, chẳng cần Thành Côn ra tay, riêng ba người liên thủ chàng cũng không thể nào địch được, thành thử cố gắng nén lòng, nghĩ thầm: "Đợi cho tên ác tăng Viên Chân này đi khỏi rồi, ta sẽ tiến lên bái kiến ba vị cao tăng, nói rõ nguyên ủy đầu dây mối nhợ. Ba vị Phật pháp tinh thâm, không lẽ không biết thế nào là phải thế nào là trái".
Lại nghe Viên Chân thở dài nói:
- Tạ Tốn, tuổi ngươi nay cũng đã cao rồi, những việc năm xửa năm xưa, việc gì mà cứ phải u uất chất chứa mãi trong tim? Cùng lắm chỉ hai mươi năm nữa thì ta cũng như ngươi đều về lòng đất. Những gì trước đây ta đối với ngươi không phải cũng như những gì tốt đẹp giữa hai chúng ta, thôi thì xóa sạch là xong.
Tạ Tốn nghe y kể lể, không thèm trả lời, đến khi y nói xong mới đáp:
- Thành Côn, ngươi còn mặt mũi nào nói chuyện với ta nữa?
Viên Chân cứ nói qua nói lại một hồi lâu, Tạ Tốn cũng chỉ có một câu: "Thành Côn, ngươi còn mặt mũi nào nói chuyện với ta nữa?" Viên Chân bèn khinh khỉnh nói:
- Ta để cho ngươi suy nghĩ ba ngày. Ba ngày sau, nếu như vẫn không chịu nói ra thanh đao Đồ Long ở đâu, ngươi chắc cũng đoán biết ta sẽ đối xử với ngươi thế nào rồi.
Nói xong y liền đứng lên chắp tay bái biệt ba nhà sư rồi đi xuống núi.
Trương Vô Kỵ đợi y đi xa, đang định tiến ra tố cáo mọi chuyện cho ba nhà sư rõ, đột nhiên bên người dường như có điều gì khác lạ, bị tập kích mà không thấy có một dấu hiệu gì trước, chàng kinh hoàng, lập tức lăn ra xa, thấy có hai vật dài lướt qua mặt, chỉ cách người chừng nửa thước, thế đi thật nhanh nhưng lại không có chút kình phong nào, chính là hai sợi dây đen.
Chàng vừa lăn ra khỏi một trượng, lại thấy một sợi dây đen khác điểm luôn vào ngực, biến thành một loại binh khí thẳng băng, chẳng khác gì trường mâu, đầu gậy đâm vào, trong khi hai sợi dây kia cũng từ hai bên cuộn lại.
Chàng đã thấy bốn cao thủ của phái Côn Lôn trong chớp mắt đã bị táng mạng dưới ba sợi dây này, biết rằng đây là một loại binh khí cực kỳ lợi hại, lúc này phải đối phó với nó lại càng kinh hãi hơn. Chàng vung tay trái xoay một cái, bắt ngay được sợi dây đang điểm thẳng vào ngực, đang định đẩy sang một bên, bỗng thấy sợi dây rung lên một cái, một luồng kình lực như bài sơn đảo hải tống vào, luồng kình lực đó nếu trúng phải lập tức sẽ gân cốt đứt lìa, ngũ tạng tan nát ngay. Ngay trong một sát na nhanh như ánh chớp ấy, tay phải chàng vung tay ngược về hất dạt hai sợi dây tấn công từ sau lưng ra, tay trái dùng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp phối hợp với Cửu Dương thần công, vừa nâng lên vừa tống ra, thân theo kình mà vọt thẳng lên trời.
Ngay khi đó, trên trời liên tiếp ánh chớp lằng ngoằng mấy cái sáng lòa lên, chỉ thấy hai nhà sư cùng kêu lên "Ồ" một tiếng, dường như ngạc nhiên về võ công của chàng. Mấy ánh chớp đó chiếu rõ thân hình chàng, ba vị cao tăng cùng ngửng đầu lên xem, thấy kẻ mang thần công tuyệt đỉnh trong người đó chỉ là một thanh niên nhà quê mặt mày lem luốc, lại càng kinh hãi. Ba sợi dây đen liền giống như ba con rồng giơ nanh múa vuốt, chạy đuổi theo lên, chia ra làm ba mặt tiến tới. Trương Vô Kỵ nhờ có ánh chớp cũng nhìn rõ mặt mày của ba nhà sư. Người ngồi ở phía đông bắc mặt mũi đen xám như chì, người phía tây bắc thì mặt vàng như gỗ, còn người ở phía nam thì mặt trắng bệch như tờ giấy. Ba nhà sư mặt mũi đều hóp vào, người gầy tưởng như chỉ còn da với xương, nhà sư mặt vàng lại chột một mắt. Năm con mắt của ba nhà sư phản chiếu ánh chớp đều lấp lánh có thần.
Trương Vô Kỵ thấy ba sợi dây đang cuốn vào thân mình, chàng liền tay trái gạt ra tay phải kéo lại, một tay cuộn một tay xoay, mượn luôn kình lực của ba người, kéo luôn cả ba sợi dây lại một chỗ, chiêu này chính là Thái Cực tâm pháp do Trương Tam Phong truyền thụ, hình thành một vòng tròn, kình lực truyền trên ba sợi dây lập tức bị cuộn lại với nhau. Bỗng nghe ầm ầm mấy tiếng sét vang trời, tiếng vọng uy chấn thật là kinh tâm động phách. Trương Vô Kỵ ở trên không lượn một nửa vòng, chân trái móc luôn vào một cành tùng, thân hình đã đứng vững, trong tiếng sấm ầm ầm dõng dạc nói:
- Hậu học vãn bối, Minh Giáo giáo chủ Trương Vô Kỵ, tham kiến ba vị cao tăng.
Nói xong chân trái đứng trên cành cây, chân phải đưa ra ngoài, khom lưng hành lễ. Cành tùng theo thế chàng vái chào nhô lên hụp xuống như sóng biển nhưng Trương Vô Kỵ vẫn bình ổn đứng yên, thân hình phiêu dật. Chàng tuy khom mình hành lễ, nhưng ở trên cao vái xuống, không bị kém vế chút nào.
Bà nhà sư thấy nội kình trên sợi dây đen bị chàng gom lại một chỗ, rung tay một cái, ba sợi dây liền tách ra.
Trong ba chiêu chín thức vừa rồi của ba nhà sư, mỗi thức đều ẩn tàng mười chiêu biến hóa, trong đó có vài chục sát thủ, nào ngờ đối phương từng chiêu từng thức đều hóa giải hết, mà mỗi lần hóa giải đều nguy hiểm cùng cực, chỉ cần sai một ly là đã gân cốt nát nhừ, chết ngay tại chỗ, vậy mà vẫn nhẹ nhàng tiêu sái, coi hung hiểm như chẳng có gì. Tam tăng trong đời chưa từng gặp một địch thủ nào cao cường đến thế, không thể không ngạc nhiên. Họ có biết đâu khi Trương Vô Kỵ hóa giải ba chiêu chín thức vừa rồi, là đã giở hết sức bình sinh, chính nhờ cành cây trồi lên hụp xuống, ngầm điều vận chân khí đang loạn lên trong đan điền.
Võ công Trương Vô Kỵ vừa sử dụng bao gồm cả Cửu Dương thần công, Càn Khôn Đại Na Di, Thái Cực Quyền ba môn đại thần công, còn khi lượn một nửa vòng trên không lúc sau cùng thì chính là tâm pháp khắc trên thánh hỏa lệnh. Ba vị cao tăng của phái Thiếu Lâm tuy mang tuyệt kỹ trong người, nhưng tọa quan đã mấy chục năm, không nghe chuyện đời, trong bốn môn thần công kia chưa từng thấy môn nào bao giờ, chỉ mang máng cảm thấy nội kình của chàng có gì tương đồng với Cửu Dương công của phái Thiếu Lâm nhưng so với thần công của bản phái thì hùng hồn tinh vi hơn nhiều. Đến khi nghe chàng thông báo tính danh, tấm lòng cảm phục và ngạc nhiên của ba nhà sư lập tức biến ra phẫn nộ.
Nhà sư mặt trắng bệch hậm hực nói:
- Lão nạp đang tự hỏi cao nhân phương nào giáng lâm, đâu có biết là đại ma đầu của ma giáo đến rồi. Ba anh em lão nạp tọa quan đã mấy chục năm, không lý gì đến tục vụ, ngay chuyện đại sự của bản tự cũng không nghe không hỏi. Đâu ngờ ngày hôm nay lại có dịp gặp giáo chủ của ma giáo, thực đúng là nghìn năm một thuở.
Trương Vô Kỵ nghe ông ta mở miệng nói ra là "ma đầu", khép miệng lại là "ma giáo" biết rằng ác cảm với bản giáo thật sâu, thành thử hơi trù trừ, không biết làm thế nào để mở mồm thuật chuyện. Chỉ nghe nhà sư mặt vàng chột mắt hỏi:
- Ma giáo giáo chủ là Dương Đính Thiên kia mà? Tại sao lại là các hạ?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Dương giáo chủ đã từ trần hơn ba mươi năm rồi.
Nhà sư mặt vàng liền "A" lên một tiếng, không nói thêm lời nào nhưng trong tiếng kêu dường như ẩn tàng biết bao thương tâm thất vọng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ông ta nghe tin Dương giáo chủ qua đời xem ra rất lấy làm đau khổ, có lẽ năm xưa giao tình với Dương giáo chủ rất sâu. Nghĩa phụ là bộ thuộc cũ của Dương giáo chủ, ta thử gợi lại cái tình cố nhân, nói rõ việc Dương giáo chủ bị Viên Chân chọc tức mà chết để xem ra thế nào?" Chàng liền nói:
- Có lẽ đại sư cũng biết Dương giáo chủ?
Lão tăng mặt vàng đáp:
- Dĩ nhiên là biết. Lão nạp nếu như không biết đến đại anh hùng Dương Đính Thiên thì đâu đến nỗi thành người một mắt. Ba sư huynh đệ ta việc gì phải ngồi khô thiền[2] hơn ba chục năm qua.
Mấy câu nói đó nghe ra có vẻ bình thường, nhưng bên trong ngầm chứa nỗi đau thương oán hờn vừa sâu xa vừa lớn lao. Trương Vô Kỵ thầm kêu: "Khổ rồi, khổ rồi!". Cứ theo như giọng nói của ông ta, một mắt của lão tăng này bị Dương Đính Thiên làm hại, và ba sư huynh đệ tu tập khô thiền hơn ba mươi năm khổ công đau đớn cũng là để báo được mối thù này. Giờ đây họ nghe tin kẻ đại cừu đã chết nên sinh ra lòng thất vọng.
Nhà sư mặt vàng đột nhiên hú lên một tiếng thanh thoát nói:
- Trương giáo chủ, lão nạp pháp danh Độ Ách, còn vị sư đệ mặt trắng đây pháp danh Độ Kiếp, vị sư đệ mặt đen kia pháp danh Độ Nạn. Dương Đính Thiên đã chết rồi, cái thâm cừu đại oán của ba người chúng ta, đành phải đòi nơi giáo chủ đương nhiệm. Sư điệt Không Kiến, Không Tính của anh em ta đều chết vì tay thủ hạ quí giáo, nay giáo chủ đã đến đây, ắt cũng hợm mình nên không có gì sợ hãi cả. Tất cả ân oán mấy chục năm qua, chúng ta dùng võ công mà kết liễu cho xong.
Trương Vô Kỵ nói:
- Vãn bối cùng quí phái vốn không có liên quan gì, đến đây chỉ cốt cứu nghĩa phụ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn mà thôi. Không Kiến thần tăng tuy là do nghĩa phụ tôi lỡ tay đánh chết, nhưng bên trong còn nhiều uẩn khúc. Còn như cái chết của Không Tính thần tăng thì không liên quan gì đến tệ giáo cả. Ba vị xin đừng nghe lời của một bên, xin hãy nói rõ ràng trắng đen phải trái đã.
Nhà sư mặt trắng Độ Kiếp hỏi:
- Cứ như ngươi biết, Không Tính bị ai giết hại?
Trương Vô Kỵ nhíu mày đáp:
- Cứ như vãn bối biết, Không Tính thần tăng chết vì tay võ sĩ của triều đình thuộc Nhữ Dương Vương phủ.
Độ Kiếp hỏi tiếp:
- Thế các võ sĩ của phủ Nhữ Dương Vương thì ai thống lãnh?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Do con gái của Nhữ Dương Vương, Hán danh Triệu Mẫn.
Độ Kiếp nói:
- Ta nghe Viên Chân nói rằng, cô gái đó liên kết với quí giáo cùng chung một đường, nàng ta phản chúa phản cha, đầu nhập Minh Giáo, lời đó có thật hay không?
Y nói năng đanh thép lời lời mỗi lúc một thêm ép chặt, Trương Vô Kỵ chỉ còn nước ấp úng:
- Đúng thế, nàng ... nàng ... hiện nay ... hiện nay đã bỏ chỗ tối tìm đường sáng.
Độ Kiếp lớn tiếng nói:
- Giết Không Kiến là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn của ma giáo; giết Không Tính thì là Triệu Mẫn của ma giáo. Triệu Mẫn lại còn công phá chùa Thiếu Lâm, đem bao nhiêu đệ tử trong chùa bắt cả, nhưng chuyện không thể tha thứ cho được là khắc lời lẽ nhục mạ lên trên mười sáu vị La Hán. Ngoài ra còn một con mắt của sư huynh ta đến nỗi anh em ta phải chịu đựng một trăm năm khô thiền. Trương giáo chủ, món nợ này không tìm giáo chủ để thanh toán thì còn tìm ai?
Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nghĩ thầm nếu mình đã thừa nhận là thu dung Triệu Mẫn, những chuyện ác cũ nàng đã làm, cũng đành phải gánh vác hết. Chỉ trong chớp mắt chàng hiểu ngay được tâm sự của cha mình vì việc sai quấy ái thê đã làm mà phải vung kiếm tự vẫn, còn oán thù năm xưa Dương giáo chủ và Tạ Tốn đã kết, đến ngày hôm nay, lời Độ Kiếp nói quả không sai, nếu mình không gánh chịu thì ai vào đây?
Chàng đứng thẳng người lên, kình lực chạy thẳng xuống đầu ngón chân, cành cây đang nhô lên hụp xuống lập tức đứng dừng ngay lại không còn động đậy chút nào, lớn tiếng nói:
- Ba vị lão thiền sư nếu đã nói thế, vãn bối không thể nào trốn được món nợ này, bao nhiêu tội nghiệt một mình vãn bối chịu hết. Thế nhưng nghĩa phụ vãn bối đả thương Không Kiến thần tăng, bên trong có rất nhiều điều đau lòng, mong được ba vị lão thiền sư tha thứ cho.
Độ Ách nói:
- Ngươi cậy vào cái gì mà dám đến đây chạy tội cho Tạ Tốn? Không lẽ ba sư huynh đệ ta không giết nổi ngươi hay sao?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm việc đến nước này, chỉ còn cách hết sức ra tay một phen, bèn nói:
- Vãn bối lấy một địch ba quyết không thể nào là đối thủ của các vị. Vậy không biết vị lão thiền sư nào đứng ra dậy bảo?
Độ Kiếp nói:
- Nếu bọn ta đơn đả độc đấu chắc không thắng được ngươi đâu. Món huyết hải thâm cừu này, không thể theo qui củ giang hồ cho được. Tên ma đầu kia, mau xuống đây chịu chết. A Di Đà Phật!
Ông ta vừa niệm Phật xong, Độ Ách, Độ Nạn hai người liền tiếp theo:
- Ngã Phật Từ Bi!
Ba sợi dây đen liền cùng vung lên, xông vào cuốn người chàng lại. Trương Vô Kỵ hơi hạ mình xuống, theo chỗ trống của ba sợi dây nhảy xuống, hai chân chưa chấm đất, còn trên không trung thân hình đã biến đổi, xông về phía Độ Nạn. Độ Nạn dựng tả chưởng lên đánh mạnh ra, một luồng kình phong tống thẳng vào bụng dưới chàng. Trương Vô Kỵ xoay người chống đỡ, dùng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp hóa giải kình lực. Ngay lúc đó, hai sợi dây đen của Độ Ách và Độ Kiếp cùng cuốn tới. Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng xoay một nửa vòng, tả chưởng của Độ Kiếp tung ra, đánh tới không một tiềng động. Trương Vô Kỵ ở trong giữa ba cây tùng tùy theo chiêu mà chống trả, bất thình lình đánh ra một chưởng, chưởng lực mang theo cả mấy trăm giọt mưa to bằng hạt đậu theo kình phong bắn về phía Độ Ách. Độ Ách nghiêng qua né tránh nhưng mặt cũng bị trúng phải vài mươi hạt, cảm thấy hơi đau, nhà sư liền quát lên một tiếng:
- Tiểu tử giỏi nhỉ!
Chiếc dây đen trong tay vung ra, xoay thành hai vòng tròn, từ trên không chụp xuống đầu Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thân hình chẳng khác gì một mũi tên tránh được cái vòng, tấn công thẳng vào Độ Kiếp. Chàng càng đấu cành kinh hãi, thấy không khí chung quanh thân mình bị rơi vào giữa ba sợi dây đen và ba luồng chưởng lực, mỗi lúc một ngưng đọng thành một khối. Từ khi chàng tập thành võ công đến nay chưa bao giờ gặp phải đối thủ cao cường như thế. Ba nhà sư không những chiêu số tinh xảo, nội kình cũng hùng hồn không ai sánh kịp. Lúc ban đầu, Trương Vô Kỵ dùng bảy thành để thủ ngự, dùng ba thành còn lại tấn công, đấu đến hơn hai trăm chiêu, dần dần cảm thấy chân khí trong người không còn tinh thuần, thành ra chỉ còn thủ mà không có thể công, chỉ mong tự bảo vệ được mình thôi.
Cửu Dương thần công của chàng vốn dĩ dùng không bao giờ hết, càng sử dụng càng mạnh mẽ, nhưng lúc này mỗi chiêu đều hao phí nội lực rất nhiều, cảm thấy như kình lực? ở sau không nối liền được với kình lực đi trước, tình trạng này từ khi luyện thành thần công chàng chưa từng bị bao giờ. Đến khi trao đổi thêm mấy chục chiêu nữa, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Mình có đấu thêm thì chỉ có nước chịu chết, hôm nay tìm cách thoát thân, sau này sẽ cùng với ông ngoại, Dương tả sứ, Phạm hữu sứ, Vi Bức Vương, năm người hợp lực thì ắt có thể thắng được tam tăng, lúc đó hãy tính tới việc cứu nghĩa phụ".
Chàng nghĩ thế nên liên tiếp tấn công vào Độ Ách ba chiêu liền, đang toan thoát ra, ngờ đâu ba sợi dây kết lại thành một cái vòng vững chãi như thành đồng vách sắt, mấy lần chàng xông lên đều bị dội lại, không có cách nào thoát thân được.
Chàng trong bụng kinh hoảng: "Thì ra tam tăng liên thủ kết chặt lại thành một, công phu tâm ý tương thông này, không lẽ trên đời này có người luyện được hay sao?". Trương Vô Kỵ có biết đâu Độ Ách, Độ Kiếp, Độ Nạn đã tọa khô thiền trên ba mươi năm, bao nhiêu công phu đều dùng vào việc luyện môn "tâm ý tương thông", một người có ý niệm gì nảy ra, lập tức hai người kia biết liền, tâm linh cảm ứng đó thực là huyền diệu. Thế nhưng ba người ở chung một nơi luyện hơn ba mươi năm chuyên tâm vào việc luyện cảm ứng, tâm ý chỉ còn là một thì cũng không phải là chuyện lạ. Chàng lại nghĩ: "Cứ điệu này ta dẫu có ước hẹn thêm được những cao thủ như ông ngoại đến chăng nữa, cũng chưa chắc phá vỡ được bức tường kiên cố tâm ý tương thông của ba người này kết thành. Không lẽ nghĩa phụ ta đã cứu không được, lại bỏ mạng nơi đây hay sao?".
Chàng nóng ruột, tinh thần hơi tán loạn, đầu vai liền bị năm ngón tay của Độ Kiếp quét qua, đau thấu xương tủy, nghĩ thầm: "Ta có chết cũng không đáng gì, thế nhưng nỗi oan của nghĩa phụ không sao rửa được. Nghĩa phụ một đời cao ngạo, dẫu có rơi vào tay người, cũng nhất định không biện giải đến nửa lời đâu". Nghĩ thế chàng bèn dõng dạc nói:
- Ba vị lão thiền sư, vãn bối hôm nay bị nguy khốn, tính mệnh khó mà bảo tồn, đại trượng phu có chết cũng đành, có gì đáng nói đâu? Thế nhưng có một việc phải nói cho rõ ...
Nghe vù vù hai tiếng, hai sợi dây đen chia ra từ hai bên đánh tới, Trương Vô Kỵ tay trái gạt, tay phải kéo, hóa giải hai luồng kình lực, tiếp tục:
- Gã Viên Chân kia tục danh là Thành Côn, ngoại hiệu Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ, chẳng phải ai xa chính là nghiệp sư của nghĩa phụ vãn bối Tạ Tốn ...
Ba nhà sư chùa Thiếu Lâm thấy chàng tay vẫn ra chiêu hóa kình, miệng vẫn mở lời nói chuyện, nội công đến thế họ chưa thể nào đạt tới được, trong lòng càng thêm e ngại. Tam tăng cho rằng Minh Giáo là một tà giáo không việc ác nào không làm, giáo chủ của họ võ công càng cao, làm hại cho thế gian càng lớn, nay thấy chàng thân hãm trùng vi, không thể nào thoát ra được, đúng là cơ hội tốt để trừ khử, thật không công đức nào tày, thành thử không nói một lời, sợi dây đen và chưởng lực càng thêm mạnh mẽ.
Trương Vô Kỵ tiếp tục nói:
- Ba vị lão thiền sư cũng nên hiểu cho rằng, sư muội của Thành Côn chính là phu nhân của giáo chủ Minh Giáo Dương Đính Thiên. Thành Côn vốn si tình sư muội, vì tình sinh ra ghen tức, thành ra kết thâm cừu đại oán với Minh Giáo ...
Chàng tay thì hóa giải chiêu số của ba nhà sư, miệng thao thao tường thuật Thành Côn mưu tính? phá hủy Minh Giáo như thế nào, rồi tư thông lén lút gặp gỡ Dương phu nhân để đến nỗi Dương Đính Thiên tức quá mà chết ra sao, rồi sau giả say toan cưỡng gian vợ Tạ Tốn, giết sạch toàn gia, rồi khích cho Tạ Tốn loạn sát nhân sĩ võ lâm, bái Không Kiến thần tăng làm thầy, dụ cho Tạ Tốn đánh Không Kiến mười ba quyền, rồi sau thất tín không ra khiến cho Không Kiến phải ngậm hờn mà chết.
Ba người Độ Ách càng nghe càng hoảng hồn, bao nhiêu chuyện đó không sao có thể tưởng nổi, nhưng mọi chuyện hợp tình hợp lý, chi tiết phù hợp với nhau. Ngọn roi đen trên tay Độ Ách chậm lại trước nhất.
Trương Vô Kỵ nói tiếp:
- Vãn bối không biết Dương giáo chủ gây thù chuốc oán với Độ Ách đại sư ra sao, chỉ sợ bên trong có kẻ gian xui nguyên giục bị, người đó hẳn là Viên Chân. Độ Ách đại sư thử nghĩ lại chuyện cũ, xem lời của vãn bối có điều gì sai quấy hay chăng?
Độ Ách hừ một tiếng, ngừng roi không đánh nữa, cúi đầu trầm ngâm rồi nói:
- Chuyện đó xem ra cũng có lý. Lão nạp kết cừu với Dương Đính Thiên, tên Thành Côn đó dốc hết toàn lực ra giúp, sau lại muốn bái lão nạp làm thầy, nhưng từ trước tới nay ta không thu đệ tử, nên mới dẫn tiến cho làm môn hạ Không Kiến sư điệt. Cứ xét như thế, không lẽ y cố ý sắp xếp hay sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chắc là như thế, hiện nay y đang dòm dỏ chức vị chưởng môn phương trượng phái Thiếu Lâm, gây bè kết đảng, âm mưu mật kế toan? gia hại Không Văn thần tăng ...
Câu nói chưa dứt, đột nhiên có tiếng ầm ầm, từ bên sườn núi bên trái một khối đá tròn lớn lục cục lăn xuống giữa ba cây thông. Độ Ách quát lớn:
- Ai đó?
Sợi giây múa lên, bộp bộp hai tiếng đánh luôn lên tảng đá, mảnh vụn bay tung. Từ sau tảng đá một người xông ra, nhanh nhẹn phi thường xông đến bên Trương Vô Kỵ, ánh sáng lấp lánh, một thanh đoản đao đã đâm ngay cổ họng chàng.
Biến cố đó xảy ra thật nhanh, Trương Vô Kỵ đang hết sức chống đỡ sợi dây và chưởng lực của hai nhà sư Độ Kiếp, Độ Nạn, đâu có ngờ rằng có người tấn công lén, trong đêm tối chỉ thấy tiếng gió thốc tới, đoản đao đã đâm ngay tới yết hầu rồi, trong cơn nguy vội nhảy vụt qua một bên, nghe soạt một tiếng, mũi dao đã rạch một đường ngay trên áo chàng, chỉ chậm một giây là đã bị cái họa mổ ngực phanh thây rồi. Người đó tấn công không trúng, nhờ có tảng đá che chở đã lăn ra khỏi vòng dây của ba nhà sư.
Trương Vô Kỵ kêu thầm: "Nguy hiểm thật!". Chàng lập tức quát lên:
- Ác tặc Thành Côn! Có giỏi thì cùng ta đối chất, định giết người bịt miệng hay sao?
Khi đoản đao đâm tới, tuy chàng không nhìn rõ mặt người nhưng đối phương thân pháp nhanh nhẹn, thủ pháp độc địa, nội kình mạnh mẽ, võ công gia số cùng một đường không khác gì Tạ Tốn, ngoài Thành Côn ra còn ai nữa. Ba sợi dây của các nhà sư Thiếu Lâm chẳng khác gì ba cánh tay vươn ra cuốn lấy tảng đá, lẳng một cái, đã xách tảng đá nặng hàng nghìn cân kia lên, quăng ra ngoài, còn Thành Côn chạy thẳng xuống núi. Độ Ách nói:
- Có phải đúng là Viên Chân không?
Độ Nạn đáp:
- Quả đúng là y rồi.
Độ Ách nói:
- Nếu chẳng phải có tật giật mình thì việc gì ...
Ngay lúc đó bốn bề tiếng rú tiếng kêu liên tiếp, nhô ra bảy tám bóng người, người đi đầu quát lớn:
- Hòa thượng Thiếu Lâm thật không đáng gọi là đệ tử nhà Phật, giết hại biết bao nhiêu người, không sợ gây tội nghiệt hay sao? Tất cả cùng xông lên.
Tám người đó ai cũng cầm binh khí, tấn công thẳng vào ba nhà sư ở trong ba cây tùng. Trương Vô Kỵ đang ở giữa vòng của ba nhà sư, thấy trong số tám người thì có ba người cầm trường kiếm, năm người còn lại thì kẻ cầm đao, người cầm tiên, người nào cũng võ học tinh cường đấu luôn với ba sợi dây của Thiếu Lâm tam tăng.
Chàng quan sát một hồi thấy ba người sử dụng kiếm cùng một lộ với Thanh Hải tam kiếm chết dưới tay các nhà sư chùa Thiếu Lâm mấy hôm trước nhưng biến hóa tinh vi hơn, kình lực hùng hồn, cao siêu hơn nhiều, hẳn là trưởng bối của những người đó. Ba người cầm kiếm tấn xông một mình Độ Ách. Lại ba người khác hợp công Độ Nạn, còn hai người liên thủ đối phó Độ Kiếp. Đối thủ của Độ Kiếp tuy chỉ có hai người, nhưng hai người đó so với những người khác lại cao hơn một bậc. Đấu một hồi, Trương Vô Kỵ thấy Độ Kiếp dần dần núng thế, còn Độ Ách thì lại có phần hơn, một địch ba nhưng xem ra vẫn còn thừa sức.
Lao trao đổi thêm độ mươi chiêu nữa, Độ Ách thấy Độ Kiếp có vẻ khó khăn liền rung sợi dây đen một cái, từ trên không đâm bổ xuống hai người đang tấn công Độ Kiếp. Hai người đó đều cao to, râu đen phất phới, thân thủ cực kỳ nhanh nhẹn, một người dùng một đôi phán quan bút, còn người kia thì dùng đả huyệt quyết. Độ Ách và Độ Nạn ở bên ngoài xa mấy trượng mà cũng vẫn cảm thấy kình lực từ binh khí của hai người dồn tới, tưởng như ngay ở bên cạnh mình, sử dụng binh khí ngắn mà trải rộng đến thế ắt hẳn lợi hại ghê gớm lắm. Ba người của phái Thanh Hải thấy áp lực hơi lỏng đi, nên dần dần lấy lại phong độ tấn công. Thành thử đến lúc này Độ Nạn một mình địch ba, Độ Ách, Độ Kiếp hai người đấu với năm đối thủ, nhất thời không bên nào thắng thế.
Trương Vô Kỵ trong lòng thầm lấy làm lạ: "Tám người này võ công quả thực đáng kể, không kém vợ chồng Hà Thái Xung chút nào. Ngoài ba người thuộc phái Thanh Hải ra, năm người kia môn phái lai lịch không sao hiểu được. Thế mới biết thiên hạ bao la, trong chốn hoang vu kia có biết bao ngọa hổ tàng long, anh hùng hảo hán vô danh ẩn phục không ai hay biết".
Mười một người trao đổi đến hơn một trăm chiêu, ba sợi dây của Thiếu Lâm tam tăng dần dần thu nhỏ lại. Sợi dây thu nhỏ rồi, múa may tốn ít hơi sức hơn, nhưng việc tấn công địch thì cũng bớt linh động đi vài phần. Lại thêm vài chục chiêu nữa, ba sợi dây của các nhà sư thu nhỏ nay chỉ còn chừng sáu bảy thước. Hai ông già râu đen càng đấu càng tiến đến gần hơn, binh khí của họ uy lực cũng tăng nhiều, tìm những chỗ sơ hở mà tấn công, từng bước từng bước tiến tới, cố hết sức tới sát người ba lão tăng. Thế nhưng ba sợi dây của họ càng thu nhỏ thì thủ ngự càng nghiêm mật, cái vòng mà ba sợi dây đen kết lại uy lực vô cùng, hai ông già râu đen liên tiếp biến đổi chiêu thế tấn công nhưng đều bị vòng dây đẩy bật ra. Lúc này ba nhà sư đã kết liền một khối, thành thế? ba người chống lại tám địch thủ.
Thiếu Lâm tam tăng hết sức chống đỡ, trong bụng không khỏi liên tiếp kêu khổ thầm, đấu với tám người này dù có lâu cũng không đền nỗi thua, chỉ cần vòng dây thu ngắn tám thước, thì đã kết lại thành Kim Cương Phục Ma Khuyên, không nói gì tám địch thủ mà dẫu có mười sáu người, ba mươi hai người thì cũng không thể tấn công vào được. Thế nhưng bên trong cái vòng đó lại có ẩn phục một cường địch trong gan trong ruột, Trương Vô Kỵ nếu ra tay, nội ngoại giáp công, lập tức ba nhà sư Thiếu Lâm sẽ mất mạng ngay. Tam tăng thấy chàng ngồi yên không cử động, hiển nhiên đang chờ cơ hội, hẳn là chờ cho đến khi mình và các kẻ ngoại địch đều chân chồn gối mỏi, lúc ấy mới làm kẻ ngư ông ở giữa thu lợi. Lúc này nội công của ba nhà sư đã thi triển đến mức tận cùng, dẫu có muốn hú lên một tiếng để cầu cứu với chùa Thiếu Lâm ở dưới kia, thì cũng không thể mở mồm, dẫu chỉ há miệng nói một tiếng thôi, lập tức khí huyết trào lên, nếu không chết ngay lập tức, thì cũng bị nội thương, thành người tàn phế. Tam tăng bấy giờ mới tự trách mình quá ỷ y, ngay khi cường địch vừa mới tới tấn công, không lên tiếng thông tri cho tăng chúng bản tự ở dưới, nếu không chỉ cần vài tay hảo thủ của Đạt Ma Đường hay La Hán Đường lên tiếp viện, là sẽ khắc chế được địch thủ thắng ngay.
Tình thế đó Trương Vô Kỵ đã sớm nhìn thấy rồi, lúc này nếu muốn giết ba nhà sư thì chàng chỉ cất tay là xong, nhưng nghĩ đại trượng phu lẽ nào lại nhân lúc người ta bị nguy ngập mà lợi dụng, huống chi tam tăng chỉ vì bị Viên Chân lừa dối mà ra, không đáng phải chết. Huống chi thanh toán được ba nhà sư rồi một mình ứng phó với tám người kia, cuộc thế cũng gian nan không kém. Trước mắt thấy hai bên thắng bại nhất thời chưa rõ ràng, chàng cúi đầu nhìn xuống, thấy có một khối nham thạch lấp chặt miệng địa lao, chỉ để hở ra một cái khe, chắc là để cho Tạ Tốn có chỗ thở và là nơi đưa đồ ăn xuống. Chàng nghĩ thầm thời cơ này trong chốc lát sẽ không còn nữa, đợi đến khi hai bên thắng bại đã rõ rồi, hoặc người trong chùa Thiếu Lâm chạy lên cứu viện thì sẽ không cứu được nghĩa phụ nữa nên quì ngay xuống, vận dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, kình lực tuôn ra hai tay đẩy tảng đá từ từ di động.
Khối cự thạch di chuyển được chừng một thước, đột nhiên từ sau lưng một luồng kình phong thổi tới, Độ Nạn đã múa chưởng đánh vào hậu tâm chàng. Trương Vô Kỵ vừa chế ngự kình lực, vừa mượn sức, nghe bộp một tiếng, áo sau lưng rách một mảng lớn, trong cơn gió táp mưa sa những mảnh vụn bay tung như bươm bướm. Thế nhưng chưởng lực của Độ Nạn đã được chàng truyền vào tảng đá, nghe ầm một tiếng khối cự thạch đã nhích ra hơn một thước. Chưởng lực tuy đã chế ngự được rồi, không bị nội thương nhưng vì chàng bao nhiêu sức lực đã dồn về phía trước để đẩy tảng đá, sau lưng vẫn bị chạm phải đau đớn khó mà chịu nổi.
Độ Nạn đánh ra một chưởng, vòng dây đen liền lộ sơ hở, một lão già râu đen liền xông ngay vào bên trong, gậy điểm huyệt trong tay liền đâm luôn vào dưới vú trái của nhà sư. Sợi dây mềm của Thiếu Lâm tam tăng chỉ giỏi về tấn công xa, không có lợi cho chiến đấu gần, Độ Nạn liền giơ tay trái, vận kình đánh bật điểm huyệt quyết của đối phương ra. Ông già râu đen nhân cơ hội đó đâm ngón tay trỏ nhắm ngay huyệt Đàn Trung của Độ Nạn mà điểm tới. Độ Nạn kêu thầm: "Không xong", có ngờ đâu Nhất Chỉ Thiền của đối phương so với công phu điểm huyệt bằng đả huyệt quyết còn lợi hại hơn, trong cơn nguy cấp đành vứt sợi dây xuống, hai tay giơ lên đỡ, bảo vệ lấy ngực mình, tiếp theo ngón tay cái, ngón tay trỏ, ngón tay giữa vươn ra, phản công trở lại. Ông ta tuy đã chế ngự được địch nhân, nhưng sợi dây đã rời khỏi tay rồi, ông già sử dụng phán quan bút lập tức xông vào ngay. Ba sợi dây của ba nhà sư nay đã mất một, Kim Cương Phục Ma Khuyên đã bị phá vỡ rồi.
Bất thình lình chiếc dây đen đang nằm dưới đất bỗng dựng đầu dậy, chẳng khác gì một con rắn độc giả chết nay vùng dậy cắn người, nghe vút một tiếng nhắm ngay người đang sử dụng phán quan bút điểm tới, đầu dây chưa đến mà kình phong đã ào ạt khiến đối phương phải lạnh người. Ông già đó vội vàng giơ bút lên gạt ra, đụng phải sợi dây, rung động một cái hai vai tê tái, cây bút bên tay trái suýt nữa thì văng đi mất, còn cây bút bên tay phải bị đẩy lạc hướng đâm ngay vào một tảng đá, mảnh vụn tứ tung, lửa xẹt bốn bề. Chiếc dây đen tiếp tục vung lên,? đẩy lùi ba người của phái Thanh Hải ra ngoài xa hơn một trượng, Kim Cương Phục Ma Khuyên lại trở lại như lúc đầu, uy lực xem ra còn mạnh hơn trước.
Thiếu Lâm tam tăng vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, thấy đầu kia chiếc dây đó đang nằm trong tay Trương Vô Kỵ. Chàng tuy chưa từng luyện qua công phu Kim Cương Phục Ma Khuyên, nếu nói về tâm ý tương thông, người khác nghĩ gì mình biết liền thì không thể nào bằng được Độ Nạn, thế nhưng nếu nói về nội lực cương mãnh thì nhà sư Thiếu Lâm lại không thể nào bằng, kình lực trên sợi dây đen chẳng khác gì bài sơn đảo hải, bao trùm cả một khoảng rộng chung quanh. Hai sợi dây của Độ Ách và Độ Kiếp ở hai bên tương trợ, lập tức đẩy cả bảy người kia phải lùi ra.
Lúc này Độ Nạn toàn tâm toàn lực đối phó với ông già râu đen, nói về võ công nội lực đều thắng đối thủ, ông ta ngồi trong cái hốc cây tùng, không cần đứng lên nhưng mười ngón tay vỗ, đâm, búng, móc, điểm, phất, chộp, nắm chỉ trong vài chiêu đã đưa ông già kia vào chỗ nguy hiểm. Người đó thấy bảy đồng bọn đều lâm vào cảnh bất lợi liền giận dữ rống lên một tiếng, từ trong vòng nhảy trở ra.
Trương Vô Kỵ liền đưa sợi dây đen trở lại tay Độ Nạn rồi cúi xuống vận Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, đẩy khối đá đậy địa lao nhích thêm hơn một thước nữa, nói vọng vào trong miệng hầm:
- Nghĩa phụ, hài nhi Vô Kỵ đếu cứu viện chậm trễ, cha có ra được không?
Tạ Tốn đáp:
- Ta không ra đâu. Con yêu quí, mau mau rời khỏi nơi đây.
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:
- Nghĩa phụ, cha bị người ta điểm huyệt, hay là bị xích chặt?
Chàng không đợi Tạ Tốn trả lời, tung mình nhảy xuống hầm tối, nghe tõm một tiếng, nước văng tung tóe. Thì ra sau cơn mưa như trút kia, trong địa lao nước đã ngập đến ngang lưng, một nửa người Tạ Tốn ngập trong nước.
Trương Vô Kỵ trong lòng đau khổ, giơ tay ôm Tạ Tốn, mò chung quanh tay chân ông ta, không thấy có xiềng khóa gì cả, lại nắn bóp mấy nơi huyệt đạo chủ yếu, thấy dường như không bị ai kiềm chế gì, lập tức ôm ông ta tung mình nhảy lên, ngồi trên tảng đá nói:
- Lúc này thoát thân là tiện nhất. Nghĩa phụ, thôi cha con mình đi!
Chàng vừa nói vừa cầm tay Tạ Tốn toan cất bước. Tạ Tốn vẫn ngồi yên không động đậy, hai tay ôm gối nói:
- Con ơi, tội nghiệt lớn nhất trong đời ta là đã giết hại Không Kiến đại sư. Nghĩa phụ con nếu như rơi vào tay kẻ khác thì ắt đã hết sức chống cự, nhưng nay lại bị nhốt nơi chủa Thiếu Lâm, ta đành cam tâm chịu chết để đền tội cho Không Kiến đại sư.
Trương Vô Kỵ vội nói:
- Cha lỡ tay đả thương Không Kiến đại sư cũng chỉ vì tên ác tặc Thành Côn sắp đặt mưu gian, huồng chi cái huyết cừu toàn gia của cha chưa báo được, không lẽ chịu chết dưới tay Thành Côn sao?
Tạ Tốn thở dài nói:
- Trong hơn một tháng qua, ta ngày ngày ngồi dưới hầm này nghe ba vị cao tăng tụng kinh niệm Phật, nghe từ dưới chùa vọng lên chuông sớm trống chiều, nghĩ lại chuyện đã qua, thấy tay cha nuôi con nhuộm không biết bao nhiêu máu tươi của người vô tội, dẫu chết trăm lần cũng chưa hết. Than ôi! Bao nhiêu ác nhân tội nghiệt kia, so với Thành Côn xem ra còn nặng hơn nhiều. Hảo hài tử, con đừng nghĩ tới cha làm gì, một mình mau xuống núi đi thôi.
Trương Vô Kỵ càng nghe càng nóng ruột, lớn tiếng nói:
- Nghĩa phụ, nếu cha không chịu đi, con đành phải ép cha đấy.
Nói xong chàng tiến tới nắm lấy hai tay Tạ Tốn toan cõng lên trên lưng mình. Bỗng nghe dưới sơn đạo tiếng người lao xao, có ai đó lớn tiếng nói:
- Kẻ nào dám tới chùa Thiếu Lâm gây rối thế?
Có tiếng chân bì bõm đạp nước, hơn một chục người từ dưới chạy lên. Trương Vô Kỵ nắm lấy hai đùi Tạ Tốn, đang toan cất bước bỗng thấy huyệt Đại Trùy sau lưng tê tái, thì ra đã bị Tạ Tốn nắm lấy rồi, hai tay không còn chút hơi sức nào, đành phải buông ông ta ra, trong lòng bồn chồn muốn khóc òa lên, kêu lớn:
- Nghĩa phụ, cha ... sao cha phải khổ thế?
Tạ Tốn đáp:
- Con ngoan, nỗi oan khuất của cha con đã nói hết cho ba vị cao tăng nghe cả rồi. Còn tội nghiệt cha làm, cũng phải để một thân cha chịu báo ứng. Nếu con còn không chịu đi thì ai là người thay cha mà báo thù đây?
Trương Vô Kỵ trong bụng run lên, thấy hơn một chục nhà sư chùa Thiếu Lâm, kẻ cầm thiền trượng, người cầm giới đao, xông lên tấn công tám người kia. Leng keng leng keng hai bên giao thủ mấy hợp, ông già râu đen cầm phán quan bút thấy tình thế có đấu thêm nữa cũng không đi đến đâu, không chừng còn lâm vào cảnh nguy khốn, chỉ tức là việc đã sắp thành lại bị một thanh niên phá bĩnh quả thực tức không để đâu cho hết. Y lớn tiếng quát hỏi:
- Xin hỏi cao tính đại danh thanh niên ngồi dưới cây tùng kia, Hác Mật, Bốc Thái của Hà Gian[3] muốn biết xem cao nhân nào đã can thiệp vào thế?
Độ Ách vung sợi dây lên, nói:
- Minh Giáo Trương giáo chủ là đệ nhất cao thủ đời nay, không lẽ Hà Gian Song Sát lại không biết đến?
Ông già cầm phán quan bút "Ồ" lên một tiếng, giơ hai món binh khí lên, nhảy ra khỏi vòng, bảy người còn lại cũng nhảy ra theo. Tăng chúng chùa Thiếu Lâm muốn đuổi theo ngăn trở nhưng tám người đó võ công thật cao siêu, chỉ nhún vai một cái đều đã xuống núi.
Những gì Trương Vô Kỵ đối đáp với Tạ Tốn ba người Độ Ách đều nghe rõ mồn một, lại nghĩ đến mới rồi chàng không nhân lúc người khác nguy nan mà ra tay, chỉ tụ thủ bàng quan, không giúp bên nào, đến khi Bốc Thái phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên tấn công đến tận nơi, cứ như Hà Gian Song Sát ra tay độc địa như thế thì giờ này tính mệnh tam tăng chắc không còn. Ba nhà sư liền bỏ sợi dây xuống, đứng thẳng dậy, chắp tay hướng về Trương Vô Kỵ, cùng nói:
- Đa tạ đại đức của Trương giáo chủ.
Trương Vô Kỵ vội vàng hoàn lễ nói:
- Chuyện phải làm thì làm, có gì đáng nói đâu.
Độ Ách nói:
- Việc ngày hôm nay, đáng ra lão nạp phải để cho Tạ Tốn đi theo Trương giáo chủ, vừa rồi nếu Trương giáo chủ quả thực muốn cứu người, lão nạp không cách gì ngăn trở được. Có điều ba sư huynh đệ chúng tôi tuân theo pháp chỉ của phương trượng canh giữ Tạ Tốn, đã từng lập trọng thệ trước chư Phật, nếu ba anh em còn sống quyết không để Tạ Tốn thoát khỏi nơi đây. Chuyện này liên quan đến vinh nhục hàng nghìn, hàng trăm năm nay của bản phái, xin Trương giáo chủ tha thứ cho.
Trương Vô Kỵ chỉ hừ một tiếng, không trả lời. Độ Ách nói tiếp:
- Cái mối thù bị hỏng mắt của lão nạp, hôm nay coi như đã xong. Trương giáo chủ muốn cứu Tạ Tốn, xin muốn đến lúc nào cũng được, chỉ cần phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên của ba anh em chúng tôi, lập tức có thể dắt Sư Vương đi khỏi nơi đây. Trương giáo chủ muốn ước định thêm người tiếp tay, xa luân chiến cũng được, cùng một lượt xông lên cũng được, chúng tôi chỉ có ba sư huynh đệ ứng chiến mà thôi. Trước khi Trương giáo chủ giá lâm, ba anh em chúng tôi nhất định sẽ bảo vệ cho Tạ Tốn được chu toàn, quyết không để cho Viên Chân làm nhục ông ta một câu nửa chữ, đụng đến một sợi lông.
Trương Vô Kỵ nhìn về Tạ Tốn, trong đêm tối chỉ thấy lờ mờ thân hình cao to của ông ta, mái tóc dài phủ xuống vai, đứng cúi đầu, dường như trong lòng hết sức hối hận về những tội khiên đã làm, mất hết cái uy phong lẫm lẫm thuở xưa. Nước mắt Trương Vô Kỵ như muốn trào ra, nghĩ thầm: "Hôm nay mình không thể nào đánh bại họ nữa rồi, nghĩa phụ lại không chịu đi, chỉ còn nước hẹn với ông ngoại, Dương tả sứ, Phạm hữu sứ cùng lên tái đấu. Bao sợi dây này kết thành một vòng chẳng khác gì tường đồng vách sắt, nếu lúc nãy không vì Độ Nạn đại sư đánh vào lưng ta một chưởng thì Bốc Thái không thể nào có thể xông vào được. Kỳ tới có thêm ông ngoại và tả hữu Quang Minh sứ giả tiếp tay, phá được hay không cũng chưa biết. Ôi, việc trước mắt chỉ đành đến đâu hay đó thôi".
Nghĩ như thế chàng liền nói:
- Nếu đã như vậy, nhất định sẽ quay trở lại lãnh giáo cao chiêu của ba vị đại sư.
Chàng đi đến ôm lưng Tạ Tốn nói:
- Nghĩa phụ, con đi đây.
Tạ Tốn gật đầu, giơ tay vuốt ve đầu tóc của chàng nói:
- Con chẳng cần phải trở lại cứu cha làm chi, cha nhất định không đi đâu. Con ngoan, mong con mọi việc ở hiền gặp lành, không phụ lòng kỳ vọng của ta và cha mẹ con. Con nên học cha con, đừng học nghĩa phụ.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cha con và nghĩa phụ đều là anh hùng hảo hán, là đại trượng phu quang minh lỗi lạc, đều đáng cho con noi theo.
Nói xong chàng khom mình bái biệt, thân hình lắc một cái đã vọt ra ngoài vòng ba cây tùng, hướng về ba nhà sư Thiếu Lâm giơ tay chào, thi triển khinh công thoắt một cái đã không còn thấy đâu nữa nhưng tiếng hú trong trẻo của chàng chỉ nháy mắt đã cách xa hàng dặm.
Những nhà sư Thiếu Lâm ở trên ngọn núi nhìn nhau kinh hãi, từng nghe tiếng Trương giáo chủ của Minh Giáo võ công trác tuyệt nhưng đâu có ngờ thần diệu tới thế.
Trương Vô Kỵ thấy hình tích mình đã bại lộ nên định tâm biểu hiện một môn công phu, cốt để tăng chúng chùa Thiếu Lâm sinh lòng e ngại ngõ hầu đối đãi với Tạ Tốn cho tử tế. Tiếng hú của chàng vận dụng trung khí, miên miên bất tuyệt, theo tiếng gió mưa sấm chớp mà vang vang truyền đi, thật chẳng khác gì nương theo một con rồng đang bay múa. Chân chàng thi triển toàn lực khinh công, mỗi lúc một nhanh, tiếng hú cũng càng lúc càng vang động. Hơn một nghìn nhà sư trong chùa Thiếu Lâm đang ngủ giật mình choàng tỉnh dậy, cho đến khi tiếng hú mỗi lúc một xa mới bàn tán xôn xao. Không Văn, Không Trí thấy Trương Vô Kỵ đã đến, lại càng lo lắng ưu phiền.
Trương Vô Kỵ chạy được mấy dặm đột nhiên bên đường từ sau một cây liễu to có tiếng người gọi:
- Này!
Một người vụt bước ra, chính là Triệu Mẫn. Trương Vô Kỵ ngừng hú đứng lại, giơ tay nắm lấy tay nàng, thấy tình nương ướt đẫm nước mưa, trên đầu trên tóc từng giọt ròng ròng chảy xuống. Triệu Mẫn hỏi:
- Đã cùng với mấy tên trọc chùa Thiếu Lâm động thủ chưa?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Rồi.
Triệu Mẫn hỏi thêm:
- Tạ đại hiệp ra sao? Đã gặp ông ta chưa?
Trương Vô Kỵ bá vai nàng, cùng sóng bước dưới mưa, đem mọi việc kể sơ qua lại một lượt. Triệu Mẫn trầm ngâm rồi hỏi:
- Chàng có hỏi ông ta vì sao lại sểnh tay để đến nỗi bị bắt chưa?
Trương Vô Kỵ nói:
- Anh chỉ chăm chăm lo việc làm sao cứu ông ta thoát hiểm, không có lúc nào rỗi hơi để hỏi những chuyện đó cả.
Triệu Mẫn thở dài một tiếng, không lên tiếng nữa. Trương Vô Kỵ gặng hỏi:
- Em khó chịu hay sao?
Triệu Mẫn đáp:
- Đối với chàng thì là chuyện nhàn rỗi, còn với thiếp thì là chuyện thật quan trọng. Thôi được, đợi cứu Tạ đại hiệp ra rồi hỏi ông ta cũng chưa muộn. Thiếp chỉ sợ ...
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Sợ cái gì? Em sợ mình không cứu được nghĩa phụ hay sao?
Triệu Mẫn đáp:
- Minh Giáo so với các phái khác trong võ lâm thì mạnh hơn nhiều, nếu muốn thì thể nào chẳng tìm được cách cứu Tạ đại hiệp ra. Thiếp chỉ sợ Tạ đại hiệp đã nhất tâm lấy cái chết để trả nợ cho Không Kiến thần tăng thôi.
Trương Vô Kỵ cũng lo chuyện đó, hỏi lại:
- Em xem có thể như thế chăng?
Triệu Mẫn đáp:
- Chỉ mong đừng xảy ra như vậy.
Hai người vừa đi vừa truyện trò đã đến trước nhà vợ chồng họ Đỗ. Triệu Mẫn cười nói:
- Hành tích của chàng đã bại lộ rồi, không nên giấu giếm họ nữa làm gì.
Trương Vô Kỵ thấy cánh cửa chiếc nhà tranh chỉ khép hờ, liền giơ tay đẩy ra, lắc người mấy cái cho ráo những giọt nước mưa rồi mạnh mẽ tiến vào, đột nhiên ngửi thấy mùi máu tanh. Chàng trong lòng kinh hãi, tay trái vội thò ra sau lưng đẩy Triệu Mẫn ra ngoài cửa, trong đêm tối có người vươn tay chộp vào chàng. Trảo đó im lìm không một tiếng động, nhanh nhẹn tuyệt luân, đến khi chàng nhận ra được, những ngón tay đã chạm vào mặt. Trương Vô Kỵ lúc này không còn kịp né tránh, chân trái liền phóng ra, đá thẳng vào ngực người kia. Người nọ vội lật ngược tay móc một cái, cùi chỏ đánh xuống huyệt Hoàn Khiêu trên đùi chàng, chiêu số thật là độc địa. Nếu như Trương Vô Kỵ rút chân về để tránh, bàn tay trái của kẻ địch ắt sẽ vươn ra móc đôi mắt chàng, cho nên năm ngón tay chàng liền chộp hờ ra. Quả nhiên không sai, bàn tay Trương Vô Kỵ bắt ngay được chưởng của địch nhân, nhưng ngay lúc đó huyệt Hoàn Khiêu trên đùi cũng tê tái, đứng không vững chân phải liền khuỵu ngay xuống.
Chàng đang định thừa thế bẻ gãy cổ tay kẻ địch, nhưng thấy bàn tay nắm được nhẵn nhụi mềm mại, chính là tay một người đàn bà, trong lòng chợt động nên không nặng tay nữa, nhắc luôn người đó lên ném ra, nghe kịch một cái, vai đã trúng phải một dao đau nhói. Người kia nhảy một cái đã vọt ra khỏi cửa, múa chưởng đánh thẳng vào mặt Triệu Mẫn. Trương Vô Kỵ biết Triệu Mẫn không sao chống đỡ nổi, thể nào cũng chết tươi ngay tại chỗ, cố nhịn đau tung mình nhảy lên tung chưởng ra đỡ, hai chưởng đụng nhau. Người kia thân hình lảo đảo, chân loạng choạng liền mượn ngay chưởng lực của đối phương, nhảy ra ngoài xa mấy trượng, trong đêm tối biến mất không còn thấy đâu nữa.
Triệu Mẫn sợ hãi hỏi:
- Ai thế?
Trương Vô Kỵ "Hừ" một tiếng, hỏa triệp[4] trong người đã bị nước mưa làm ướt cả, đánh không ra lửa, sợ rằng đoản đao của kẻ địch đâm vào vai có tẩm độc, không dám rút ra nói:
- Em đốt đèn lên.
Triệu Mẫn mò xuống bếp kiếm hỏa đao hỏa thạch, thắp một ngọn đèn dầu, thấy con dao cắm trên vai chàng giật mình kinh hãi. Trương Vô Kỵ thấy mũi dao không có thuốc độc, cười nói:
- Chỉ là ngoại thương, không sao cả.
Chàng liền rút dao ra, quay đầu lại thấy Đỗ Bách Đương và Dịch Tam Nương nằm chúi tại một góc nhà, không kịp rịt vết thương còn đang chảy máu, chạy lại xem, thấy hai người chết tự bao giờ. Triệu Mẫn kinh hoảng nói:
- Lúc em đi ra, hai người này vẫn còn khỏe mạnh bình thường mà.
Trương Vô Kỵ gật đầu, đợi Triệu Mẫn buộc vết thương cho chàng xong, cầm đoản đao lên xem, chính là binh khí của vợ chồng họ Đỗ vẫn thường dùng, nhìn quanh trên nóc nhà, các cột kèo, trên bàn, dưới đất cắm đầy đao, hiển nhiên kẻ địch giao đấu kịch liệt với hai ông bà, từng chiếc từng chiếc đánh rơi hết, sau cùng mới ra tay giết hại. Triệu Mẫn sợ hãi nói:
- Người này võ công lợi hại thật.
Khi nãy trong đêm tối hai người đấu mò với nhau, nếu như Trương Vô Kỵ không ứng biến thật nhanh, đoán được người kia sẽ ra tay móc hai mắt mình, thì giờ này chàng nếu không thành một kẻ đui mù, thì cũng đã cùng Triệu Mẫn chết nằm sóng soài trên mặt đất. Chàng lại coi hai cái xác vợ chồng họ Đỗ, thấy trên ngực mấy rẻ xương sườn gãy thành từng đoạn, ngay cả gân cốt sau lưng cũng nát bấy, quả đã bị chết vì một loại chưởng lực cực kỳ âm độc, cực kỳ ghê gớm. Chàng mấy lần gặp đại địch, vào ra hung hiểm nhiều lần, thế nhưng nghĩ lại chỉ mấy chiêu qua lại nhanh như cắt bắt mồi trong đêm tối vừa qua, không khỏi càng nghĩ càng ghê rợn. Tối hôm nay hai trận ác đấu, trận đầu một địch ba, tuy có giằng dai nhưng không kinh tâm động phách như trận thứ hai chỉ qua vài chiêu ngắn ngủi.
Triệu Mẫn lại hỏi:
- Ai thế?
Trương Vô Kỵ lắc đầu không trả lời. Triệu Mẫn đột nhiên hiểu ra, trên ánh mắt lộ vẻ kinh hoàng, đứng thừ người một hồi rồi sà vào lòng Vô Kỵ, sợ đến khóc nức nở.
Hai người đều biết rằng, nếu Triệu Mẫn không nghe tiếng hú của Trương Vô Kỵ, trời mưa trời gió cũng lặn lội đi đón thì không sao qua khỏi kiếp nạn, lúc này nơi góc nhà nằm chết không phải hai người mà là ba. Trương Vô Kỵ vỗ nhè nhẹ lên lưng nàng, dịu dàng an ủi. Triệu Mẫn nói:
- Người đó muốn giết em nên ra tay giết vợ chồng họ Đỗ trước, núp ở đây ám toán, nhất định không phải định giết chàng đâu.
Trương Vô Kỵ nói:
- Kể từ giờ, em nhất quyết đừng rời xa anh lấy một bước.
Chàng trầm ngâm rồi tiếp:
- Chưa đầy một năm, sao nội lực võ công lại tiến triển nhanh đến thế nhỉ? Trên đời này ngoài anh ra, e rằng chẳng còn ai có thể bảo vệ chu toàn được cho em.
Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ lấy mai thuổng của Đỗ Bách Đương đào một cái huyệt sâu đem chôn hai vợ chồng họ Đỗ, cùng Triệu Mẫn hai người quì xuống lạy mấy cái, nghĩ đến Dịch Tam Nương đối với hai người hết lòng nhân hậu yêu thương, không khỏi thương cảm. Bỗng nghe từ phía chùa Thiếu Lâm tiếng chuông boong boong không dứt, văng vẳng truyền đến, nghe thật khẩn cấp, sau đó phương đông một chiếc pháo bông màu xanh bắn thẳng lên trời, phương nam màu đỏ, phương tây mà trắng, phương bắc màu đen, còn từ xa xa mấy dặm là một chùm pháo bông màu vàng. Năm đạo pháo bông vây chùa Thiếu Lâm vào giữa. Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Tất cả Ngũ Hành Kỳ của Minh Giáo đã đến, chính thức gây chuyện với chùa Thiếu Lâm rồi đó, mình tới mau.
Chàng lật đật cùng Triệu Mẫn thay đổi y phục, rửa sạch các vết bẩn trên mặt mũi tay chân, rồi hối hả đi về phía chùa Thiếu Lâm. Chỉ mới vài dặm, đã thấy một đoàn giáo chúng Minh Giáo tay cầm cờ nhỏ màu vàng, đang đi lên trên núi. Trương Vô Kỵ kêu lớn:
- Nhan kỳ sứ có ở đó không?
Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ là Nhan Viên nghe tiếng gọi mình, quay lại thấy giáo chủ, mừng quá vội vàng tiến lên hành lễ tham kiến. Các giáo chúng trong kỳ hoan hô vang động, cùng phục xuống vái lạy.
Nhan Viên bẩm báo: Quần hào Minh Giáo nghe được tin tức về nơi chốn của Tạ Tốn rồi, sau khi bàn bạc, đều thấy rằng nếu đợi đến tiết Đoan Dương cùng tất cả anh hùng tập trung tại chùa Thiếu Lâm để đòi người, thì như thế sẽ đối địch với tất cả các môn phái, trước mắt không cách nào có thể bẩm cho giáo chủ được, đành phải quyền nghi, Dương Tiêu, Phạm Dao tất lãnh các cao thủ trong Minh Giáo trước tiết Đoan Dương mười ngày cùng đến chùa Thiếu Lâm để yêu cầu thả Tạ Tốn ra. Vẫn biết rằng đại động can qua là chuyện khó có thể tránh được nhưng vì tìm khắp nơi không thấy giáo chủ đâu nên thật chẳng khác gì quần long vô thủ.
Các giáo chúng liền thổi tù và, báo cho mọi người biết giáo chủ đã ra mặt. Chẳng bao lâu, Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương, Chu Điên, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc, Thiết Quan đạo nhân các người trước sau lục tục kéo đến. Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hồng Thủy, Liệt Hỏa bốn kỳ kia vẫn tiếp tục từ bốn phía vây chùa Thiếu Lâm. Mọi người gặp nhau ai nấy đều thật vui mừng. Dương Tiêu và Phạm Dao thì tiến lên tạ tội mình đã tự ý chuyên quyền. Trương Vô Kỵ đáp:
- Các vị cũng đừng khiêm tốn quá, tất cả anh em chúng ta đều đồng tâm hiệp lực cứu Tạ Pháp Vương, chính là vì nghĩa khí huynh đệ trong bản giáo. Bản nhân trong lòng thật là cảm kích, lẽ nào lại còn trách cứ?
Sau đó chàng kể lại mình trà trộn vào trong chùa Thiếu Lâm, đêm hôm qua đã cùng bọn ba nhà sư Độ Ách động thủ kể qua lại một lượt. Mọi người nghe thấy tất cả đều do gian mưu của Thành Côn, ai ai cũng đều phẫn nộ. Chu Điên và Thiết Quan đạo nhân thì ngoạc mồm chửi rủa. Trương Vô Kỵ nói:
- Hôm nay bản giáo đường đường xuất quân đến phương trượng chùa Thiếu Lâm đòi người, tốt nhất là làm sao đừng tổn thương hòa khí. Vạn bất đắc dĩ nếu phải ra tay, chúng ta thứ nhất là để cứu Tạ Pháp Vương, thứ hai là để bắt Thành Côn, ngoài ra không được sát hại người vô tội.
Mọi người ai nấy đều lên tiếng đáp lời. Trương Vô Kỵ quay sang nói với Triệu Mẫn:
- Mẫn muội, tốt hơn hết em nên cải trang đi, đừng để cho tăng chúng trong chùa Thiếu Lâm nhìn ra chân tướng, khỏi thêm phiền nhiễu.
Hôm trước nàng đã lùa bắt giữ hết các nhà sư chùa Thiếu Lâm đem về Đại Đô, cùng với phái Thiếu Lâm gây thù chuốc oán thật sâu. Triệu Mẫn cười nói:
- Nhan đại ca, để tôi giả làm một huynh đệ dưới cờ của đại ca nhé?
Nhan Viên liền sai một anh em dưới cờ cởi áo ngoài để cho Triệu Mẫn khoác lên. Triệu Mẫn chạy vào trong rừng phía sau núi, lật đật cải trang, bôi đen mặt mũi, đến khi ra khỏi rừng đã thành một hán tử gầy gò mặt mũi đen đúa.
Tiếng tù và lại nổi lên, quần hào Minh Giáo xếp thành đội đi lên núi. Chùa Thiếu Lâm đã nhận được thiếp bái sơn của Minh Giáo từ trước, Không Trí thiền sư liền tất lãnh tăng chúng ở sơn đình đón chờ. Không Trí nghe lời của Viên Chân, tin chắc những nhà sư chùa Thiếu Lâm bị Triệu Mẫn bắt nhốt ở Đại Đô, chặt đứt ngón tay, ép phải truyền thụ võ công, là gian kế Minh Giáo ngầm cấu kết sắp đặt với phủ Nhữ Dương Vương, về sau Trương Vô Kỵ ra tay cứu trợ, chỉ là giả vờ để lấy lòng toan tính mưu đồ khác. Vì thế khi gặp nhau, mặt mày ông ta hầm hầm, chắp tay hành lễ không nói một câu.
Trương Vô Kỵ vòng tay ôm quyền nói:
- Tệ giáo có việc phải thành khẩn cầu đến quí phái nên lên núi để bái kiến phương trượng thần tăng.
Không Trí gật đầu, nói:
- Xin mời!
Ông ta dẫn quần hào Minh Giáo đi về phía sơn môn. Không Văn phương trượng liền dẫn Đạt Ma Đường, La Hán Đường, Bát Nhã Đường, Giới Luật Viện các thủ tọa cao tăng, ở ngoài sơn môn nghinh tiếp, mời quần hào đến Đại Hùng Bảo Điện chia ra chủ khách hai bên ngồi xuống, các chú tiểu liền đem trà xanh lên.
Không Văn liền cùng Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Ân Thiên Chính các người hàn huyên mấy câu, sau đó lặng yên. Trương Vô Kỵ nói:
- Phương trượng thần tăng, chúng tôi thật không có chuyện gì thì đâu có đến ôm chân Phật, đến đây xin phương trượng nể mặt đồng đạo võ lâm, phóng thích Tạ Pháp Vương của tệ giáo, đại ân đại đức đó sau này thể nào cũng tìm dịp báo đáp.
Không Văn đáp:
- A Di Đà Phật, người xuất gia lấy từ bi làm gốc, giới sân giới sát, thực không muốn làm khó Tạ thí chủ làm gì. Thế nhưng tệ sư huynh Không Kiến lại chết dưới tay Sư Vương, Trương giáo chủ đứng đầu một tông giáo, chắc cũng hiểu qui củ của võ lâm thế nào rồi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Chuyện này bên trong cũng có nguyên do, không thể chỉ trách Tạ Pháp Vương được.
Chàng liền đem chuyện Không Kiến cam tâm chịu mười ba quyền để hóa giải một đại oan nghiệt cho võ lâm kể lại. Bọn Không Văn chỉ mới nghe một nửa, tất cả đã cùng niệm Phật hiệu, cung kính đứng lên. Không Văn nước mắt rưng rưng, run run nói:
- Thiện tai, thiện tai! Không Kiến sư huynh lấy đại nguyện lực để hoàn thành việc đại thiện này, công đức thật không phải ít.
Quần tăng cúi đầu đọc kinh, đối với cử chỉ nhân hiệp cao nghĩa của Không Kiến ai ai cũng bội phục. Quần hào Minh Giáo tất cả cũng đứng lên để tỏ lộ lòng kính ngưỡng.
Trương Vô Kỵ kể hết đầu đuôi câu chuyện ngày hôm đó, rồi nói:
- Tạ Pháp Vương lỡ tay đánh chết Không Kiến thần tăng, hối hận vô cùng, thế nhưng nghĩ cho cùng, việc này tội khôi họa thủ[5] chính là Viên Chân đại sư của quí tự.
Chàng thấy không có Viên Chân trong điện nên nói tiếp:
- Xin mời Viên Chân đại sư ra đây, trước mặt đối chất để phân biện cho rõ ai phải ai trái.
Chu Điên chen vào:
- Đúng thế, trên Quang Minh Đính con lừa trọc đó giả vờ chết, vậy mà lại sống nhăn, thập thập thò thò, có tốt lành chó gì đâu? Mau gọi y ra đây coi nào.
Từ hôm bị Viên Chân cho một vố đau trên đỉnh Quang Minh đến nay, trong lòng Chu Điên lúc nào cũng hậm hực. Trương Vô Kỵ vội nói:
- Chu tiên sinh không được vô lễ trước mặt phương trượng đại sư.
Chu Điên nói:
- Tôi chửi là chửi con lừa trọc Viên Chân, chứ đâu có dám chửi phương trượng là trọc...
Chữ trọc vừa ra khỏi miệng, y biết ngay là không ổn, vội vàng giơ tay bịt miệng lại.
Không Trí thấy Chu Điên mở lời vô lễ, lại càng tức giận, nói:
- Thế còn cái chết của sư đệ Không Tính, Trương giáo chủ giải thích ra làm sao đây?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Không Tính thần tăng hiệp nghĩa hào sảng, tại hạ năm xưa có duyên bái hội trên đỉnh Quang Minh trong lòng hết sức khâm phục. Không Tính đại sư cũng đã từng ước hẹn với tại hạ, ngày sau có dịp sẽ trao đổi để trau giồi thêm với nhau về võ học. Ngờ đâu bất hạnh gặp phải đại nạn, tại hạ thật là thương tiếc. Việc đó do gian nhân ám toán, thực không can hệ gì đến tệ giáo cả.
Không Trí lạnh lùng nói:
- Trương giáo chủ việc gì cũng chối sạch, chắc chuyện bắt tay với quận chúa của phủ Nhữ Dương Vương chắc cũng không có thật hay sao?
Trương Vô Kỵ đỏ mặt nói:
- Quận chúa không hợp ý với cha anh nên đầu nhập tệ giáo. Những gì ngày xưa quận chúa bất kính đối với quí tự, tại hạ sẽ bảo cô ta lên chùa lễ Phật, trịnh trọng tạ tội.
Không Trí quát lên:
- Trương giáo chủ nói trây nói trớ như thế thì liệu có ích gì? Ngươi thân làm chủ một giáo phái, vậy mà lại ăn càn nói bậy, không khỏi để anh hùng thiên hạ cười chê hay sao?
Trương Vô Kỵ nghĩ việc giết Không Tính, bắt giữ quần tăng quả thật là tội tầy trời của Triệu Mẫn, tuy không liên quan gì đến Minh Giáo nhưng lúc này nàng đã trao thân gửi phận cho mình, không thể nào gạt qua một bên không lý tới, trong lúc còn đang khó nghĩ thì Thiết Quan đạo nhân đã gay gắt nói:
- Không Trí đại sư, giáo chủ ta kính trọng ông là tiền bối cao tăng nên nể nang đấy thôi, ông cũng phải biết tự trọng. Giáo chủ ta thủ tín trọng nghĩa, không lẽ lại nói láo hay sao? Ngươi làm nhục giáo chủ ta, khác nào làm nhục hàng trăm vạn giáo chúng. Dẫu giáo chủ ta có khoan hồng đại lượng, chuyện không thèm chấp, nhưng bọn bộ thuộc chúng ta cũng không phải vì thế mà bỏ qua đâu.
Không Trí cười khẩy:
- Bách vạn chi chúng thì đã sao? Không lẽ đạp được chùa Thiếu Lâm thành bình địa ư? Ma giáo làm nhục chùa Thiếu Lâm ta, không phải chỉ mới hôm nay. Bọn ta sểnh tay bị bắt nhốt nơi chùa Vạn An, chỉ trách mình sơ sẩy vô tâm, chứ xưa nay chính tà không thể đứng chung cái đó cũng có gì lạ đâu. Các ngươi đến chùa Thiếu Lâm khắc ở sau lưng tượng La Hán mười sáu chữ, hừ hừ,"Tiên tru Thiếu Lâm, Tái diệt Võ Đương, Duy ngã Minh Giáo, Võ lâm xưng vương"[6], uy phong quá, dữ tợn quá!
Hồi trước các võ sĩ thủ hạ của Triệu Mẫn sau khi bắt các nhà sư Thiếu Lâm đi rồi, dùng đao khắc mười sáu chữ đó vào sau lưng mười sáu pho tượng La Hán. Phạm Dao đợi cho mọi người đi khỏi, lập tức quay lại La Hán Đường, di chuyển mười sáu pho tượng đó cho lưng xoay vào trong tường để âm mưu giá họa cho Minh Giáo của Triệu Mẫn không thành. Về sau bọn Dương Tiêu phát giác, coi xong liền xoay các pho tượng La Hán lại cho ngay ngắn, có ngờ đâu các nhà sư chùa Thiếu Lâm vẫn tìm ra. Trương Vô Kỵ mồm miệng không nhanh nhảu, nghĩ đến quả thực chuyện đó do Triệu Mẫn gây rối, trong lòng sượng sùng, không biết nói sao cho phải.
Dương Tiêu liền đáp:
- Lời của Không Trí đại sư khiến chúng tôi thật chẳng hiểu ra sao cả. Giáo chủ tệ giáo Trương giáo chủ chính là công tử của Trương ngũ hiệp phái Võ Đương, trên giang hồ còn ai không biết. Chúng tôi dẫu có cuồng vọng đến thế nào chăng nữa cũng chẳng dám nhục mạ đến thân sinh của giáo chủ. Còn bản thân Trương giáo chủ ư, không lẽ lại khắc "tái hủy Võ Đương" những chữ ấy hay sao? Phương trượng đại sư và Không Trí đại sư đều là những bậc cao tăng đức độ, chuyện nhỏ nhặt như thế sao lại không nghĩ đến? Tại hạ nhất quyết không thể nào tin được chuyện này.
Mấy câu đó lời lời đanh thép, chặn ngay Không Trí không còn nói gì thêm được nữa. Phương trượng Không Văn tu hành đã lâu, tâm tính từ hòa, dẫu sao cũng coi đại cuộc là trọng, trong bụng cũng biết Minh Giáo thế mạnh, nếu như hai bên quả đi đến chỗ động thủ, chỉ e rằng ngôi chùa Thiếu Lâm cổ kính đã nghìn năm nay đến tay mình sẽ bị hủy mất. Ông liền nói:
- Các vị chỉ tranh luận bằng lời không thôi, cũng bằng vô ích, xin theo lão nạp đến La Hán Đường, chiêm ngưỡng pháp tượng, ai phải ai trái sẽ thấy ngay.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm:"Một khi đến La Hán Đường thì mọi việc đổ bể hết". Chàng còn trù trừ chưa dám trả lời, Dương Tiêu liền nói:
- Thế thì hay lắm.
Trương Vô Kỵ không hiểu ý ông ta ra sao nhưng thấy Triệu Mẫn trà trộn vào trong Hậu Thổ Kỳ chưa bước chân vào chùa, chắc là tăng chúng trong chùa Thiếu Lâm chưa phát giác được, cho nên cũng không lo lắm.
Kế đó tri khách tăng đi trước dẫn đoàn người đi về hướng La Hán Đường. Không Văn quì xuống lạy các pho tượng La Hán rồi khấn:
- Đệ tử kinh động các pháp tượng, xin chư vị La Hán tha thứ cho.
Sau khi hành lễ xong, nhà sư sai sáu đệ tử cung kính di chuyển các pháp thân. Những đệ tử đó tuân lệnh trèo lên, chắp tay khấn vái mấy câu, sau đó ba người một bên, chia ra hai phía, xoay pho tượng La Hán thứ nhất lại.
Chỉ thấy pho tượng đó sau lưng đẽo phẳng lì, thếp vàng, trước đây vốn có một chữ "Tiên" thật lớn nay không còn chút dấu tích nào nữa. Việc như thế, chẳng những Không Văn, Không Trí cả bọn lạ lùng, ngay cả Trương Vô Kỵ cũng thật ngoài dự liệu.
Quần đệ tử Thiếu Lâm lập tức cùng trèo lên, xoay tất cả các pho tượng La Hán còn lại ra ngoài, nhưng sau lưng có còn nét bút hay một chữ nào đâu. Các nhà sư mặt mày ngơ ngẩn, không ai nói ra được câu nào. Chính bọn họ đã thấy rõ ràng mỗi pho tượng La Hán đằng sau đều có khắc một chữ lớn, xếp lại thành bốn câu:"Tiên tru Thiếu Lâm, Tái diệt Võ Đương, Duy ngã Minh Giáo, Võ lâm xưng vương" tổng cộng gồm mười sáu chữ, sao bây giờ lại không thấy đâu cả. Sau lưng các pho tượng La Hán vết thếp vàng thật mới, rõ ràng ai đó mới tô lên, thế nhưng chùa Thiếu Lâm mấy tháng nay canh giữ cực kỳ nghiêm mật, muốn xóa hết các vết tích chữ kia rồi sơn lại một lớp sơn mới, thực không phải dễ dàng, sao tăng chúng trong chùa chẳng một ai hay biết.
Trương Vô Kỵ quay lại thấy Phạm Dao và Vi Nhất Tiếu hai người nháy nhau cười, liền hiểu ngay là anh em trong bản giáo đã ra tay, nghĩ thầm:"Làm được việc này quả là thần thông quảng đại, thật là ghê gớm".
Dương Tiêu thấy các nhà sư kinh ngạc lạ thường liền nói ngay:
- Quí tự phúc trạch thâm hậu, công đức vô lượng, kim thân của mười sáu pho tượng hoàn hảo không suy suyển chút nào. Chắc có lẽ đúng như Không Trí đại sư đã nói, mười sáu vị La Hán trước đây đã bị kẻ gian hủy hoại nhưng Phật pháp vô biên đã hiển linh tự sửa chữa lại, thực là đáng mừng.
Nói xong y liền hướng về các pho tượng La Hán quì xuống khấu đầu, Trương Vô Kỵ và tất cả những người khác cũng quì theo vái lạy.
Không Văn, Không Trí cả bọn tuy chẳng ai tin rằng những lời nói khéo La Hán hiển linh, Phật pháp vô biên là sự thật, nhưng cũng đoán chừng Minh Giáo ngầm ra tay, dẫu sao chăng nữa cũng đã cố công chuộc tội với bản tự rồi, những bực tức trong lòng tiêu giảm ít nhiều, lại thấy các ma đầu của ma giáo thần xuất quỉ một như vậy cũng đâm ba phần úy kị, ba phần bội phục. Không Văn nói:
- Các pho tượng La Hán nay đã hoàn hảo như xưa, chuyện này không còn gì phải nói nữa.
Ông vẫy tay cho các đệ tử xoay các vị La Hán lại rồi nói:
- Đêm hôm qua Trương giáo chủ giáng lâm, đã gặp qua ba vị sư thúc của lão nạp rồi. Nghe nói Độ Ách sư thúc và Trương giáo chủ đã từng đính ước, chỉ cần giáo chủ phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên của ba vị sư thúc chúng tôi thì cứ việc đem Tạ thí chủ đi.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đúng thế, Độ Ách đại sư quả có nói thế. Thế nhưng tại hạ hết sức khâm phục võ công của ba vị cao tăng, tự biết mình không phải là địch thủ, đêm hôm qua đã thua ba vị cao tăng rồi, kẻ bại trận đâu có còn dám huênh hoang gì nữa?
Không Văn nói:
- A Di Đà Phật, Trương giáo chủ nói quá đấy thôi. Đêm hôm qua thắng bại chưa rõ rệt, lại vì giáo chủ bụng dạ nhân hiệp, ra tay tương trợ, ba vị sư thúc thật cảm kích sâu xa cao nghĩa của giáo chủ.
Bọn Dương Tiêu, Phạm Dao nghe Trương Vô Kỵ nói ba vị cao tăng võ công tinh diệu ai cũng muốn được biết qua. Ân Thiên Chính liền nói:
- Nếu quả như các vị cao tăng nhất định lấy việc cao thấp trong võ học để giải quyết, thưa giáo chủ, chúng ta không lượng sức mình, cũng đành lãnh giáo tuyệt học của phái Thiếu Lâm thôi. Chúng ta có đến đây cũng vì việc cứu Tạ huynh đệ, đến nước cùng này thì cũng không còn đường nào khác, chứ nào dám đến gây chuyện với chốn lãnh tụ võ lâm là chùa Thiếu Lâm.
Trương Vô Kỵ xưa nay vốn kính trọng lời nói của ông ngoại mình, lại nghĩ ngoài cách đó ra không còn cách nào hay hơn nữa liền nói:
- Các anh em nghe tại hạ ca tụng cái thế thần công của ba vị cao tăng, đều nói ba vị tọa quan đã mấy chục năm, trong võ lâm không một ai hay biết, nay chúng tôi có dịp bái kiến, thực là đại hạnh bình sinh.
Không Trí giơ tay nói:
- Xin mời!
Ông ta liền dẫn đường cho quần hào đi về phía đỉnh núi sau chùa.
Các giáo chúng thuộc Hồng Thủy Kỳ của Minh Giáo do lệnh của chưởng kỳ sứ Đường Dương bày trận tại chân ngọn núi này, thanh thế thật là hùng hậu. Cả bọn Không Văn nhìn qua mà làm như không thấy, cứ đi thẳng lên núi. Không Văn, Không Trí chắp tay hướng về phía ba cây tùng bẩm báo. Độ Ách nói:
- Cừu oán với Dương Đính Thiên tối hôm qua đã hóa giải rồi, tượng La Hán ngày hôm nay cũng đã xong, thật hay biết mấy, hay biết mấy. Trương giáo chủ, bên quí vị mấy người tiến lên động thủ đây?
Bọn Dương Tiêu thấy ba nhà sư thân hình bé nhỏ, gầy gò, ngồi lọt thỏm vào trong ba hốc cây tùng thật chẳng khác gì ba cái xác khô, thế nhưng mấy câu đó vang vọng sơn cốc, quả thực nội lực thâm hậu, ai nấy đều kinh hoàng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm:"Hôm qua có một mình ta, đấu không lại ba nhà sư này. Hôm nay tuy mình đông thật nhưng nếu tất cả ùa lên, một là bó chân bó cẳng, hai là ỷ đông để thắng làm giảm uy phong của bản giáo. Nhiều cũng không xong, ít cũng không xong, mình cứ ba người chống ba người là công bình hơn cả". Chàng liền đáp:
- Đêm hôm qua tại hạ đã được biết đến thần công của ba vị cao tăng, trong lòng thật là bội phục, đúng ra chẳng nên lộ cái xấu trước mặt ba vị một lần nữa. Thế nhưng Tạ Pháp Vương đối với tại hạ có cái tình cha con, với các anh em khác có cái nghĩa bằng hữu, cho nên chúng tôi chẳng thể nào không cứu ông ta ra. Tại hạ có ý mời thêm hai anh em khác trong bản giáo ra giúp đỡ một tay, lấy ba địch ba để hai bên ngang tay lãnh giáo.
Độ Ách thản nhiên nói:
- Trương giáo chủ chẳng phải khiêm tốn như thế. Nếu trong quí giáo có được một người nào tài ba ngang ngửa với giáo chủ, thì chỉ cần hai vị liên thủ cũng đã đủ sức giết ba anh em chúng tôi rồi. Thế nhưng nếu lão nạp không lầm, người có thân thủ như giáo chủ trên đời này chắc chẳng có ai đâu, cho nên dẫu bao nhiêu người tất cả xông lên thì cũng thế.
Bọn Chu Điên, Thiết Quan đạo nhân người nọ nhìn người kia, đều nghĩ lão lừa trọc này quả thật huênh hoang quá, chẳng coi anh hùng thiên hạ vào đâu, nhưng trong giọng điệu vẫn thừa nhận không bằng được giáo chủ của mình, nói trên đời không ai ngang tay được với Trương Vô Kỵ, kể cũng là nể nang lắm. Chu Điên vừa toan đáp lời, Thuyết Bất Đắc nhanh tay bịt ngay mồm y lại.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tệ giáo tuy là bàng môn tả đạo, không thể nào sánh được với danh môn như quí phái, nhưng cơ nghiệp đã mấy trăm năm, cũng có đôi chút nhân tài. Tại hạ vì gặp được nhân duyên, tạm thời đảm đương trách nhiệm giáo chủ, thực ra nói về tài đức võ công, những người hơn hẳn tại hạ trong tệ giáo thật đâu có phải là ít? Vi Bức Vương, nhờ ông đem danh thiếp trình lên ba vị cao tăng.
Nói xong chàng lấy ra tờ giấy trên đề từ Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu mọi người trở xuống, ghi chép hết tên quần hào kỳ này cùng đến bái sơn.
Vi Nhất Tiếu biết giáo chủ muốn mình hiển thị khinh công có một không hai trên đời để cho quần tăng chùa Thiếu Lâm không dám coi thường nhân vật của Minh Giáo, liền khom lưng tuân lệnh, cầm lấy danh sách, thân hình chưa đứng thẳng người cũng chẳng xoay lại, búng ngược trở ra, như một làn khói mỏng vụt xa ngoài mươi trượng, lờ lững bay vào giữa ba cây tùng, song chưởng lật một cái đã nâng tờ danh thiếp giao cho Độ Ách.
Ba nhà sư thấy y thấp thoáng đã đến ngay trước mặt mình, khinh công đẹp như thế quả chưa từng thấy bao giờ, huống chi y lại bật ngược về sau, không ai tưởng nổi nên tấm tắc khen:
- Khinh công giỏi thật!
Tăng chúng phái Thiếu Lâm đều là những người hiểu biết, lập tức hoan hô vang dội. Quần hào Minh Giáo tuy ai cũng biết Vi Nhất Tiếu khinh công tuyệt luân, nhưng lối bật ngược về sau như thế này cũng chỉ mới thấy lần đầu, tuy trong lòng cũng bội phục nhưng không tiện "mèo khen mèo dài đuôi" nên đành yên lặng, chỉ có một mình Chu Điên là vỗ tay tán thưởng thôi.
Độ Ách hơi nghiêng người, thò tay cầm danh thiếp, năm ngón tay phải của ông ta vừa đụng vào, Vi Nhất Tiếu toàn thân tê dại, cổ tay như bị sét đánh trúng, ngực nóng ran, thân mình cảm thấy như muốn quị xuống. Y hết sức kinh hãi, vội vàng vận công chống lại. Độ Ách vừa cầm tờ giấy lên, luồng nội lực hùng hồn truyền qua lập tức biến mất. Vi Nhất Tiếu mặt hơi biến sắc, nghĩ thầm nhà sư chột mắt này nội kình đúng là không sao lường nổi, đâu dám ở lại thêm giây phút nào, nghiêng người một cái là là lướt trên đám cỏ cao trở về đứng bên cạnh Trương Vô Kỵ. Môn khinh công Thảo Thượng Phi đó tuy không lạ lùng gì nhưng luyện tới mức phất phới như bay quả cũng là một thần kỹ.
Không Văn, Không Trí mọi người đều nghĩ:"Người này công phu khinh công đạt tới mức này, dĩ nhiên phải được cao nhân truyền thụ nhưng cũng còn do trời sinh, xem ra y vốn khác thường, người ngoài dù có khổ luyện tới đâu cũng không sao được như thế".
Độ Ách nói:
- Trương giáo chủ nói quí giáo sẽ có ba người hạ trường, trừ giáo chủ và vị Vi Bức Vương kia, còn thêm ai đứng ra chỉ giáo?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vi Bức Vương đã lãnh giáo nội kình thần công của đại sư rồi, tại hạ định mời tả hữu Quang Minh sứ giả trong Minh Giáo ra giúp đỡ.
Độ Ách hơi chột dạ:"Gã thanh niên này mắt tinh thật, ta vừa rồi cách thiếp truyền kình chỉ trong chớp mắt vậy mà y đã thấy rồi. Tả hữu Quang Minh sứ giả là ai, không lẽ võ công còn cao hơn gã họ Vi hay sao?". Ông ta tọa quan đã lâu, tên tuổi Dương Tiêu chưa từng nghe nói tới, còn Phạm Dao thì bao nhiêu năm qua ẩn tính mai danh, người ngoài vốn chẳng ai hay biết.
Dương Phạm hai người nghe tới giáo chủ đề cập đến mình, lập tức hiên ngang tiến ra, khom lưng nói:
- Cẩn tuân mệnh lệnh của giáo chủ.
Trương Vô Kỵ nói:
- Ba vị cao tăng sử dụng binh khí mềm, mình dùng binh khí gì cho phải?
Trương, Dương, Phạm ba người bình thời khi lâm trận chỉ dùng tay không, hôm nay gặp phải kình địch, không dám cao ngạo không dùng binh khí, ba người nhất pháp thông, vạn pháp thông, binh khí nào dùng cũng có thể sử dụng được, Trương Vô Kỵ nói thế chính là để cho hai người được quyền chọn lựa. Dương Tiêu đáp:
- Xin để tùy giáo chủ sai bảo.
Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm, nghĩ thầm:"Hôm qua Hà Gian Song Sát dùng đoản chống trường, xem ra có vẻ lợi thế". Chàng bèn lấy từ trong bọc ra sáu chiếc thánh hỏa lệnh, đem bốn chiếc chia cho Dương Phạm nói:
- Chúng ta lên chùa Thiếu Lâm bái sơn, không dám đem theo binh khí, đây là bảo vật trấn giáo của Minh Giáo, mình cầm sử dụng vậy.
Dương Phạm khom lưng nhận lấy rồi hỏi xem phương lược thế nào. Không Trí đột nhiên lớn tiếng nói:
- Khổ đầu đà, chúng ta nơi chùa Vạn An có chuyện với nhau, sao không nhân dịp này thanh toán cho xong? Lại đây, lại đây, để lão nạp lãnh giáo cao chiêu của ngươi trước đã. Lão nạp hôm nay không uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán để xem ai hơn ai nào.
Y bị tù nơi chùa Vạn An vẫn còn uất ức chưa có dịp nào phát tiết, hôm nay gặp lại Phạm Dao vẫn cố hết sức nén lòng lúc này không còn nhịn thêm được nữa. Phạm Dao cười nhạt nói:
- Tại hạ phụng lệnh giáo chủ, ra lãnh giáo ba vị cao tăng, đại sư nếu muốn báo thù cũ, để việc này xong sẽ phụng bồi sau.
Không Trí cầm lấy trường kiếm từ tay một đệ tử đứng bên quát lớn:
- Ngươi không lượng sức mình, dám động thủ với ba vị sư thúc của ta, không chết thì cũng bị thương nặng. Thù của ta như thế làm sao báo được đây?
Phạm Dao cười nói:
- Ta chết dưới tay lệnh sư thúc thì cũng thế thôi.
Không Trí cười khẩy:
- Trong Minh Giáo ngoài các hạ ra không còn cao thủ nào khác hay sao, thôi thế cũng được.
Câu nói của y là kế khích tướng, quần hào trong Minh Giáo ai mà không biết. Thế nhưng nếu làm ngơ không nói gì, chẳng hóa ra để ông ta coi thường Minh Giáo lắm ư. Cứ theo thứ bậc mà luận, dưới Phạm Dao mới tới Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính. Trương Vô Kỵ thấy ông ngoại tuổi đã cao, không tiện mời ra, nên định gọi cậu là Ân Dã Vương xuất mã. Ân Thiên Chính tiến lên một bước nói:
- Giáo chủ, thuộc hạ Ân Thiên Chính xin ra ứng chiến.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Ông ngoại tuổi cao, xin để mời cậu...
Ân Thiên Chính nói:
- Ta tuổi có cao cũng chưa hơn được ba vị cao tăng. Phái Thiếu Lâm có thạc đức kỳ túc[7] Minh Giáo ta lại không có lão tướng hay sao?
Trương Vô Kỵ biết ông ngoại mình võ công cao cường, không kém gì Dương Tiêu, Phạm Dao, so với cậu còn giỏi hơn nhiều, nếu như để ông xuất chiến, xem ra phần thắng nhiều hơn bèn nói:
- Thôi được, Phạm hữu sứ để dành sức lãnh giáo Không Trí thần tăng, xin ngoại công ra giúp hài nhi vậy.
Ân Thiên Chính đáp:
- Tuân lệnh.
Ông giơ tay nhận lấy hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay Phạm Dao. Không Văn phương trượng dõng dạc nói:
- Ba vị sư thúc, vị Ân lão anh hùng đây người đời gọi là Bạch Mi Ưng Vương, năm xưa tự sáng lập ra Thiên Ưng giáo, một mình chống lại sáu đại môn phái, quả là một anh hùng hảo hán. Còn vị Dương tiên sinh này, nội ngoại công đã đến mức tuyệt luân, là hảo thủ số một của Minh Giáo, rất nhiều cao thủ các phái Côn Lôn, Nga Mi đã từng bị bại dưới tay y.
Độ Kiếp cười khô khan mấy tiếng nói:
- Thật may mắn quá, may mắn được gặp, để xem hôm nay môn hạ đệ tử Thiếu Lâm tài nghệ đi đến đâu?
Tam tăng vung tay một cái, ba sợi dây chẳng khác gì ba con rồng đen quây thành ba tầng vòng tròn. Trương Vô Kỵ tối hôm qua cùng ba nhà sư động thủ giơ tay không nhìn thấy rõ năm ngón, chỉ do kình khí của sợi dây mà biện nhận phương hướng, lúc này trời mới sắp trưa, ánh nắng ngay trên đỉnh đầu, cả đến những nếp nhăn trên mặt ba nhà sư cũng nhìn rõ từng nét. Chàng xoay ngược thánh hỏa lệnh, ôm quyền cúi mình chào nói:
- Xin lỗi!
Nói rồi liền nghiêng mình xông lên ngay. Dương Tiêu phi thân qua bên trái, còn Ân Thiên Chính quát lên một tiếng, tay phải cầm thánh hỏa lệnh đập vào dây của Độ Nạn. Hai thứ binh khí kỳ lạ này đụng nhau phát ra âm thanh nghe coong cong hết sức quái dị, cả hai tay đều ê ẩm, nghĩ thầm: "Lợi hại thật" biết rằng mình đã gặp một kình địch khó kiếm trên đời.
Trương Vô Kỵ suy tính:"Sợi dây của ba nhà sư kết thành một vòng tròn, chiêu số nghiêm mật, tuy bên mình ba người liên thủ, nhưng trong vòng vài ba trăm chiêu không thể nào phá vỡ được, vậy làm sao hao phí nội kình của tam tăng rồi từ từ tìm chỗ sơ hở". Chàng thấy sợi dây cuốn tới, liền dùng thánh hỏa lệnh lấy cứng chọi cứng đối công.
Hai bên đấu chừng ăn xong một bữa cơm, ba người phe Trương Vô Kỵ đã dồn cho vòng dây thu nhỏ lại chỉ còn chừng hơn một trượng. Thế nhưng vòng càng thu nhỏ, kháng lực của ba nhà sư càng mạnh thêm, ba người mỗi khi tiến lên được thêm một bước, sức lực hao phí so với lúc trước tăng thêm gấp mấy lần. Dương Tiêu và Ân Thiên Chính càng đấu càng kinh hãi, lúc đầu cục diện là ba đánh ba, sau nửa giờ rồi, Dương Ân hai người gần như không còn chịu nổi, thành ra hai người hợp công Độ Nạn, còn Trương Vô Kỵ một mình chống đỡ Độ Ách, Độ Kiếp nhị tăng.
Ân Thiên Chính đánh ra toàn một lối cương mãnh, còn Dương Tiêu thì lúc cứng lúc mềm, biến hóa khôn cùng. Trong sáu người, chỉ có võ công Dương Tiêu trông đẹp mắt nhất, hai thanh thánh hỏa lệnh trong tay y xoay múa tít lên, lúc thì thành kiếm, lúc thì thành đao, lúc thì như đoản thương chọc, đánh, cuốn, đập, lúc lại giống như phán quan bút điểm, đâm, đè, nhử khi thì tay trái như chủy thủ[8], tay phải như thủy thích[9] rồi thoắt một cái tay phải biến thành cương tiên, tay trái biến thành thiết xích[10], thỉnh thoảng lại dùng hai lệnh bài gõ vào nhau, phát xuất âm thanh u u nhiễu loạn tâm thần đối phương. Đấu chưa đầy bốn trăm chiêu, y đã biến đổi luôn hai mươi hai loại binh khí, mỗi loại binh khí chỉ sử dụng hai pho, tổng cộng bốn mươi bốn pho chiêu thức.
Không Trí đã luyện thành mười một trong bảy mươi hai tuyệt nghệ của phái Thiếu Lâm, Phạm Dao vẫn tự hào võ công thiên hạ không đâu không biết qua, lúc này nhìn thấy thần kỹ của Dương Tiêu, trong lòng không khỏi ngầm thán phục. Chu Điên với Dương Tiêu vốn có hiềm khích, hai bên đã mấy lần gây sự với nhau, lúc này càng xem càng hổ thẹn:"Thì ra gã con rùa Dương Tiêu vốn nhường nhịn mình. Lúc trước vẫn tưởng võ công gã chỉ hơn mình chút đỉnh, mỗi lần động thủ có thắng cũng chỉ nhờ may mới hơn mình được nửa chiêu một thức. Có ngờ đâu gã con rùa ấy so với Chu Điên này thật một trời một vực".
Thế nhưng dù cho Dương Tiêu biến chiêu thế nào chăng nữa, sợi dây đen của Độ Nạn vẫn chia ra chống đỡ cả hai người, không một chút gì núng thế. Mọi người thấy Ân Thiên Chính trên đầu sương trắng bốc lên, biết là nội lực đã phát huy đến tận cùng, chiếc trường bào màu trắng bên trong cũng đầy hơi dần dần căng phồng. Mỗi bước chân của ông ta đều để lại một dấu chân, đấu đến khoảng gần một giờ, trong giữa ba cây tùng vết chân ông ta đã thành một cái vũng.
Đến lúc đó, Ân Thiên Chính đưa thanh lệnh bài từ tay phải sang bên tay trái, đè luôn vào sợi dây của Độ Nạn, tay phải dùng một chiêu Phách Không Chưởng đánh tới. Độ Nạn giơ tay trái lên, năm ngón tay chụp hờ ra, biến thành không quyền cũng trả lại một chưởng.
Không Văn, Không Trí cả bọn cùng "Ồ" lên một tiếng, thanh âm đầy vẻ kinh ngạc cùng bội phục. Thì ra chưởng Độ Nạn vừa đánh trả, là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm gọi là Tu Di Sơn Chưởng. Môn chưởng lực này hết sức khó luyện là chuyện đương nhiên, nhưng dẫu đã luyện thành, mỗi lần xuất chưởng đều phải xuống tấn vận khí, ngưng thần một lúc lâu, cốt để ngưng tụ nội kình nơi Đan Điền. Ngờ đâu Độ Nạn muốn đánh là đánh ngay, chỉ cần nghĩ tới là đã có thể tung Tu Di Sơn Chưởng ra, tiếp theo sợi dây đen lại rung một cái nhắm đánh vào Dương Tiêu.
Thế nhưng Độ Nạn đã dùng Tu Di Sơn Chưởng đối chưởng với Ân Thiên Chính, kình lực trên sợi dây đã giảm đi quá nửa. Ông ta liền dùng khéo léo để bù vào chỗ yếu của mình, múa sợi dây vùn vụt chẳng khác gì một con linh xà cuồn cuộn, còn hai thanh thánh hỏa lệnh của Dương Tiêu cũng biến hóa vô cùng khiến người đứng coi phần lớn đổ dồn vào xem hai người đấu với nhau.
Ân Thiên Chính ngưng thần đề khí, từng chưởng từng chưởng đánh ra, lúc thì tiến lên hai bước, lúc thì lùi lại hai bước. Ở bên kia Trương Vô Kỵ một mình đấu với hai, ba người chiêu thức có vẻ bình thường không có gì kỳ lạ, nhưng tất cả đều là thi triển nội kình. Lối đấu đó so với cách đấu lực của Ân Thiên Chính và đấu xảo của Dương Tiêu thì không bằng nhưng thực ra hung hiểm hơn nhiều, chỉ cần nội kình bị đối phương đánh ép trở về, nếu không khí tuyệt thân vong, thì cũng lập tức tẩu hỏa nhập ma, điên cuồng tàn phế. Thế nhưng lối đấu đó chỉ có người trong cuộc là hiểu được thôi, người đứng ngoài dù võ công cao siêu bực nào cũng không thể nào theo chiêu số mà biết được.
Ánh mặt trời từ đông nay đã lên đỉnh đầu, rồi lại từ từ ngả về phương tây. Không Văn, Không Trí, Phạm Dao, Vi Nhất Tiếu lúc này đã nhìn thấy hai bên thắng bại thế nào. Chỉ thấy Ân Thiên Chính trên đầu hơi trắng bốc lên mỗi lúc một đậm, còn kim châm trên cành cây tùng mà Độ Kiếp ngồi cũng rung động không ngớt, đủ biết Độ Ách và Độ Kiếp hai nhà sư công lực có kẻ thấp người cao. Đến lúc này, Độ Kiếp phải dựa lưng vào, mượn sức cây đang ngồi đỡ cho mới kháng cự nổi với Cửu Dương thần công của Vô Kỵ. Nếu như Ân Thiên Chính chịu không nổi thì Minh Giáo thua, còn nếu Độ Kiếp chống đỡ không nổi thì phái Thiếu Lâm kể như bại trận.
Sáu người đang đấu lại càng hiểu điều đó hơn ai hết. Ân Thiên Chính tỉ đấu chưởng lực với Độ Nạn đến hơn ba mươi chưởng thì biết mình không phải là địch thủ của ông ta, nghĩ thầm:"Việc của bọn ta hôm nay, cốt sao cứu được Tạ huynh đệ là quan trọng. Vinh nhục thắng bại của một cá nhân ta có đáng gì đâu. Huống chi thua về tay một tiền bối cao nhân trong phái Thiếu Lâm thì cũng chẳng có gì thương tổn uy danh của Bạch Mi Ưng Vương này".
Thế rồi mỗi lần đánh ra một chưởng, ông ta lại lùi ra nửa bước, đến lúc hơn mười chưởng rồi đã lùi ra xa hơn một trượng. Nào ngờ Tu Di Sơn Chưởng là một trong bảy mươi hai tuyệt nghệ của phái Thiếu Lâm, Độ Nạn đã tập luyện pho chưởng này mấy chục năm rồi, uy lực quả thật là ghê gớm. Ân Thiên Chính lùi lại một bước, chưởng lực của Độ Nạn lại đuổi theo một bước, kình lực không vì lộ trình dài ngắn mà suy suyển chút nào.
Dương Tiêu nghĩ thầm:"Nhà sư Thiếu Lâm này quả thật lợi hại, chiêu số trên thánh hỏa lệnh của ta dẫu có biến hóa thêm nữa, cũng chẳng làm gì được ông ta. Ân Bạch Mi một mình chịu đựng nội kình, e rằng lâu nữa sẽ chịu không nổi". Y chập hai thanh thánh hỏa lệnh làm một, toan kẹp lấy sợi dây đen, lấy cứng chọi cứng hai bên đấu lực, để giảm bớt gánh nặng cho Ân Thiên Chính. Ngờ đâu thánh hỏa lệnh vừa định kẹp vào sợi dây thì Độ Nạn rung tay một cái, đầu dây liền thẳng băng ra đâm luôn vào mặt Dương Tiêu. Dương Tiêu nhanh như chớp nhằm ngay ngực Độ Nạn ném luôn thánh hỏa lệnh ra, hai tay vung lên, chộp ngay được đầu dây, dùng chiêu Đảo Duệ Cửu Ngưu Vĩ, lập tức kéo chạy ra ngoài.
Độ Nạn thấy binh khí của đối phương rời khỏi tay chẳng khác gì ám khí bắn tới, kình đạo mãnh liệt, cùi chỏ trái liền hạ xuống, chặn thanh thánh hỏa lệnh đang bay tới ngực, nhưng thấy một thanh đang đi giữa đường đột nhiên chuyển hướng, nghe vù một tiếng, nhắm ngay Độ Kiếp phóng tới. Thì ra trong sáu người chỉ có Dương Tiêu là đa mưu hơn cả, hai thanh thánh hỏa lệnh tấn công Độ Nạn chẳng qua chỉ là hư chiêu, kình lực trên lệnh bài đánh vào Độ Kiếp mới sử dụng toàn thể nội kình.
Độ Kiếp đang dùng hết sức kháng cự với Trương Vô Kỵ, thấy Độ Nạn đấu với Dương Ân hai người xem ra vẫn chiếm thượng phong, đâu có ngờ Dương Tiêu đột nhiên sử dụng kỳ chiêu, dùng thủ pháp quái lạ tấn công lén mình, còn đang kinh hoàng, thánh hỏa lệnh đã đến ngay trước mặt. Độ Kiếp tâm thần hơi loạn, nhẹ nhàng giơ hai ngón tay, kẹp lấy thanh thánh hỏa lệnh nọ. Thế nhưng lúc đó ông ta đang toàn tâm toàn lực tỉ đấu với Trương Vô Kỵ, tâm thần vừa phân ra, lập tức cây tùng đang ngồi rung lên bần bật, kim châm trên cành rơi lả tả xuống, chẳng khác gì một trận mưa rào. Trương Vô Kỵ thấy đối phương sơ hở, Càn Khôn Đại Na Di của chàng tối thiện dụng là tìm chỗ thất thố của đối phương tấn công vào, dẫu cho phòng vệ trăm bề chặt chẽ cũng còn chưa ổn, huống chi lại đang yếu thế. Năm luồng kình lực trên năm ngón tay chàng lập tức tấn công thẳng tới kêu lên sì sì. Chỉ nghe lốp bốp liên tiếp, từng cành từng cành tùng từ trên cây của Độ Kiếp liên tiếp rơi xuống.
Độ Ách thấy thế nguy, vội đứng nhỏm dậy, liệng một cái đã đến bên cạnh Độ Kiếp, giơ tay trái ra, vịn vào vai sư đệ. Độ Kiếp được sư huynh tương trợ mới ổn định trở lại. Phía bên kia Độ Nạn và Ân Thiên Chính, Dương Tiêu cũng đã đến lúc đấu với nhau bằng chân lực, việc sinh tử chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc. Dương Tiêu cầm sợi dây kéo mạnh ra ngoài, còn Ân Thiên Chính cứ tiếp tục sử dụng chưởng lực với sức mạnh vỡ núi tan bia liên tiếp nhắm Độ Nạn đánh tới. Hai đại cao thủ một kéo một đẩy, hai luồng kình lực tương phản, Độ Nạn ở ngay chính giữa, tuy gặp phải khó khăn vạn phần nhưng chưa có vẻ gì kém thế.
Quần hào Minh Giáo và tăng chúng Thiếu Lâm đứng bên ngoài thấy tình hình như thế biết rằng nếu tiếp tục đấu đến khi phân thắng bại, trong sáu cao thủ e rằng ít ra một nửa phải táng mạng tại chỗ. Trên một đỉnh núi rộng như thế, nhất thời không nghe một tiếng động, quần hào mồ hôi lạnh ướt đầm lưng, không ai là không thấp thỏm lo cho phe mình.
Ngay trong lúc tĩnh mịch như thế, bỗng từ dưới hầm sâu giữa ba cây tùng có tiếng trầm trầm vọng lên:
- Dương tả sứ, Ân đại ca, Vô Kỵ hài nhi, Tạ Tốn tôi hai tay dính đầy vết máu, đáng lẽ phải chết từ lâu rồi mới phải. Hôm nay các người vì muốn cứu tôi mà đến đây, đấu với ba vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm, nếu như hai bên có tổn thương, Tạ Tốn này tội lỗi càng thêm chồng chất. Vô Kỵ hài nhi, con mau mau dẫn huynh đệ bản giáo, rời khỏi chùa Thiếu Lâm ngay. Nếu không ta sẽ lập tức tự tuyệt kinh mạch, để khỏi tăng thêm tội nghiệt.
Đó chính là Tạ Tốn dùng thần công Sư Tử Hống từ trong địa lao nói ra. Năm xưa ông ta ở trên đảo Vương Bàn Sơn dùng Sư Tử Hống làm cho bao nhiêu hào sĩ các môn phái hôn mê hoặc chết, lúc này thần công đó không làm hại ai, nhưng mọi người ai cũng tai lùng bùng, mặt mày thất sắc.
Trương Vô Kỵ biết nghĩa phụ mình lời nói ra nặng như núi, nhất định không vì mình được thoát thân mà phải để cho người khác thương tổn, tình thế trước mắt, nếu đánh cho đến lúc tàn cuộc, tuy mình có thể không sao nhưng ông ngoại, Dương Tiêu, Độ Kiếp, Độ Nạn bốn người ắt khó thoát. Chàng còn đang trù trừ, lại nghe Tạ Tốn quát lên:
- Vô Kỵ, con còn chưa đi hay sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vâng! Kính cẩn tuân lời dạy bảo của nghĩa phụ.
Chàng lùi lại một bước, lớn tiếng nói:
- Ba vị cao tăng võ công quả nhiên thật là thần diệu, hôm nay Minh Giáo không cách nào phá nổi, ngày khác sẽ quay lại lãnh giáo. Ông ngoại, Dương tả sứ, thôi mình thu tay lại!
Nói xong kình khí rút về, bật văng kình lực của Độ Ách, Độ Kiếp trên hai sợi dây ngược trở lại. Dương Tiêu và Ân Thiên Chính nghe chàng ra lệnh như thế nhưng khổ nỗi hai người đang cùng Độ Nạn giở toàn lực ra đấu, không có cách gì rút tay về, nếu như thu hồi nội kình thì sẽ bị kình khí của Độ Nạn làm cho bị thương ngay, còn Độ Nạn lúc này muốn ngừng lại cũng không được. Trương Vô Kỵ chạy đến trước mặt Ân Thiên Chính, song chưởng tung ra, tách Độ Nạn và Ân Thiên Chính thành hai bên, tiếp theo giơ thánh hỏa lệnh đè lên ngay giữa sợi dây của Độ Nạn. Sợi dây vốn đang bị Dương Tiêu và Độ Nạn kéo căng như dây cung, thánh hỏa lệnh của Trương Vô Kỵ vừa ấn xuống, Càn Khôn Đại Na Di thần công liền hóa giải ngay hai luồng lực đạo mãnh liệt từ hai đầu dây truyền vào, sợi dây mềm nhũn rơi ngay xuống đất, Dương Tiêu nhanh tay liền nhặt lên.
Độ Nạn mặt biến sắc, đang định lên tiếng, Dương Tiêu hai tay cầm sợi dây đen, tiến lên mấy bước nói:
- Phụng hoàn binh khí của đại sư.
Độ Kiếp hiểu ngay tâm ý của ông ta, cũng cầm hai thanh thánh hỏa lệnh ở bên cạnh lên, giao trả lại.
Sau trận chiến này, ba vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm không còn dám cuồng ngạo như trước, biết rằng nếu có tiếp tục cũng chỉ đến nước lưỡng bại câu thương, ba người bên mình không thể nào chiếm thượng phong được. Độ Ách nói:
- Lão nạp bế quan mấy chục năm, trở lại được gặp hiền hào đời nay, thật là may mắn. Trương giáo chủ, quí giáo anh tài đầy rẫy, các hạ lại càng trội hẳn mọi người, mong rằng đem cái tài ba đó tạo phúc cho thương sinh, đừng làm những chuyện thương thiên hại lý.
Trương Vô Kỵ khom mình đáp:
- Đa tạ đại sư chỉ giáo, tệ giáo không dám làm chuyện sai quấy đâu.
Độ Ách nói tiếp:
- Ba anh em chúng tôi tại nơi này cung kính chờ đợi đại giá của Trương giáo chủ đến lần thứ ba.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Không dám, thể nào chúng tôi cũng đến lãnh giáo lần nữa. Tạ pháp vương là nghĩa phụ của tại hạ, ơn sâu chẳng khác gì cha đẻ.
Độ Ách thở dài một tiếng, nhắm mắt lại không trả lời.
Trương Vô Kỵ cùng tất cả mọi người, chắp tay chào từ biệt Không Văn, Không Trí rồi xuống núi. Bành Oánh Ngọc truyền tín hiệu ra, triệt hồi giáo chúng thuộc Ngũ Hành Kỳ. Giáo chúng Cự Mộc Kỳ và Hậu Thổ Kỳ lùi ra cách chùa năm dặm, dựa vào núi dựng hơn chục chiếc nhà gỗ để cho mọi người nghỉ ngơi.
Trương Vô Kỵ lòng u uất không vui, nghĩ thầm trong bản giáo, không còn ai võ công có thể cao hơn ông ngoại và Dương Tiêu, dẫu có thay bằng Phạm Dao và Vi Nhất Tiếu, thì cũng chỉ đến như cục diện hôm nay thôi, trong đời này kiếm đâu ra hai người hơn được những cao thủ này để cùng chàng phá Kim Cương Phục Ma Khuyên? Bành Oánh Ngọc đoán được tâm sự chàng nói:
- Giáo chủ quên Trương chân nhân rồi sao?
Trương Vô Kỵ chần chừ đáp:
- Nếu như thái sư phụ tôi có hạ sơn giúp đỡ, cùng tôi hai người liên thủ, hẳn sẽ phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên. Thế nhưng sẽ làm sứt mẻ hòa khí hai phái Thiếu Lâm, Võ Đương, chưa chắc thái sư phụ tôi đã bằng lòng. Hơn nữa thái sư phụ tôi tuổi đã trên trăm, công phu võ học đã đến mức lô hỏa thuần thanh rồi, nhưng dù sao thì tuổi cao suy nhược, nếu có sơ sẩy chuyện gì thì biết làm sao?
Đột nhiên Ân Thiên Chính đứng dậy cười ha hả nói:
- Nếu Trương chân nhân bằng lòng xuống núi, thể nào cũng mã đáo thành công, hay lắm, hay lắm.
Ông cười khan mấy tiếng, mồm há hốc, thanh âm đột nhiên ngừng hẳn. Quần hào thấy ông ta mặt tươi rói, đứng sừng sững giữa trời, đều không khỏi ngạc nhiên. Dương Tiêu nói:
- Ân huynh có nghĩ là Trương chân nhân sẽ hạ sơn xuất mã chăng?
Y hỏi luôn mấy lần, Ân Thiên Chính vẫn đứng yên không trả lời, thân thể tuyệt nhiên không động đậy. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, giơ tay thăm mạch ngờ đâu tâm mạch đã ngừng, hơi đã tắt chết từ bao giờ. Thì ra năm xưa trên Quang Minh Đính ông một mình đối phó sáu đại môn phái, hết sức chống đỡ, chân nguyên đã bị tổn hại rất lớn, bây giờ lại khổ chiến với Độ Nạn, hao kiệt toàn bộ lực khí, hơn nữa tuổi đã cao, chẳng khác gì đèn khô dầu kiệt.
Trương Vô Kỵ ôm lấy xác ông ngoại khóc òa, còn Ân Dã Vương cũng vội chen vào rống lên kêu trời gọi đất. Quần hào nghĩ đến nghĩa khí đồng giáo, ai nấy nước mắt sụt sùi. Tin tức truyền ra, trong Minh Giáo có rất nhiều người nguyên ở dưới cờ Thiên Ưng giáo, lập tức tiếng khóc vang cả sơn cốc.
Mấy ngày hôm sau, quần hào bận bịu việc tang ma cho Ân Thiên Chính. Các môn phái, các bang hội cùng các nhân vật võ lâm cũng lục tục lên núi. Những người đó ngưỡng mộ uy danh Ân Thiên Chính, đều đến trước linh sàng nơi căn nhà gỗ để điếu tang. Không Văn, Không Trí cũng đích thân đến viếng, lại phái ba mươi sáu nhà sư, làm lễ cầu siêu cho Ân Thiên Chính. Thế nhưng ba mươi sáu nhà sư đó chỉ mới tụng được vài câu kinh, thì Ân Dã Vương đã cầm gậy tre chạy ra đánh đuổi. Chu Điên đứng ở một bên cũng chửi toáng lên:
- Bọn lừa trọc Thiếu Lâm chỉ giỏi vờ vịt, giả nhân giả nghĩa.
Trương Vô Kỵ trong bụng buồn bã, cùng Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc, Triệu Mẫn thương nghị mấy lần nhưng không tìm ra thiện sách. Triệu Mẫn đã nghĩ tới việc dùng Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bỏ vào đồ ăn thức uống của ba nhà sư, lại nói tới việc đi gọi Lộc Trượng Khách, Hạc Bút Ông hai người đến liên thủ với Trương Vô Kỵ, thế nhưng Trương Vô Kỵ và Dương Tiêu đều thấy không ổn chút nào.
Chú thích
[1] Cao đến mức không còn thấy gì nữa
[2] tức một môn tu tập chỉ ngồi mà không nằm còn gọi là khô mộc thiền hay khô kháo thiền tọa, chủ trương buông xả hết mọi việc
[3] phủ Hà Gian, nay thuộc Tân Đạo, tỉnh Trực Lệ.
[4] Đồ đánh lửa
[5] kẻ đứng đầu nguyên nhân gây ra tội lỗi
[6]Diệt phái Thiếu Lâm trước, Rồi diệt Võ Đương sau. Chỉ còn mình Minh giáo Trong võ lâm đứng đầu.
[7] Người già cả tiếng tăm
[8] dao ngắn
[9] đòng đâm cá
[10] tay thước, một loại vũ khí giống như một thanh gỗ ngắn