Tác giả:
Nguyên tác: Người Của Biển
Số lần đọc/download: 0 / 5
Cập nhật: 2024-09-01 17:35:07 +0700
Chương 36
Đ
oàn trưởng Tư đi lại trước tấm hải đồ khá lớn lồng sau lớp mi-ca, to trên vách, trong sở chỉ huy. Khuôn mặt đăm chiêu già hẳn. Hai má hóp, gồ lên những thớ thịt. Mái tóc đã bạc, càng bạc hơn. Lưng gầy, gù xuống, mệt mỏi. Đã theo dõi, chỉ huy nhiều chuyến đi, song chưa bao giờ ông lo lắng, hồi hộp và thấp thỏm như lần này. Bốn con tàu đã ra khơi ở bốn thời điểm, bốn vị trí khác nhau. Theo báo cáo sở chỉ huy, cho tới lúc này, những người thuyền trưởng của ông đang đưa tàu đi đúng kế hoạch, đúng phương án; chẳng còn mấy nữa, họ sẽ tới các vị trí chuyển hướng vào bờ. Bọn địch cũng thừa rõ ràng những con tàu của đoàn đang chở vũ khí đi về phía Nam. Phòng quân báo cho hay, hải quân Mỹ và hải quân ngụy cùng các lực lượng ven bờ đã được lệnh báo động. Rút kinh nghiệm những lần thất bại trước, lần này chúng tung lực lượng đông hơn và việc kiểm soát mặt biển chặt chẽ hơn. Rõ ràng đôi bên đã quá hiểu nhau, nắm chắc nhau. Vấn đề lúc này là sự đấu trí trong một ván bài lật ngửa.
Đoàn trưởng Tư nhắc đồng chí sĩ quan tác chiến chú ý bám sát tình hình địch từ phòng quân báo cung cấp, từ các bến điện tới, rồi để đỡ căng thẳng, ông ra khỏi sở chỉ huy. Hít một hơi thật sâu, ông bước thong thả trên lối mòn sát chân núi. Ông muốn có vài ba phút thảnh thơi trước khi bước vào cuộc đọ sức với hải quân Hoa Kỳ và hải quân ngụy. (Thực ra sự thử thách bắt đầu từ khi con tàu rời bến, nhưng giai đoạn quyết liệt là khi con tàu quay mũi, chuyển hướng vào bờ). Nhưng hình ảnh những con tàu lênh đênh ngoài khơi và gương mặt những người thuyền trưởng mà ông biết chắc là đang căng thẳng cứ bám riết lấy ông. Đêm nay, ở một nơi thật xa trên biển phía Nam, những người lính của ông bước vào giai đoạn thử thách cuối cùng đầy nguy hiểm, giai đoạn đòi hỏi lòng dũng cảm, sự thông minh sáng suốt và mưu trí. Chiếc tàu nào sẽ vào bến, thả hàng an toàn và quay về? Chiếc tàu nào đụng địch bắt buộc phải nổ súng chiến đấu? Và chiếc nào phải hủy? "Hủy tàu", hai tiếng ấy là điều hãi hùng ám ảnh ông, gây sự căng thẳng. Đành rằng mỗi lần ra khơi đưa vũ khí vào Nam, những thủy thủ của ông đều xác định không trở về, đều xác định hy sinh và quả thật công việc mạo hiểm đòi hỏi phải có sự quả cảm như vậy, song cứ mỗi lần nhận được mấy chữ "Xin hủy tàu", đoàn trưởng lại choáng váng, đau thắt, có một cái gì nhói lên nơi lồng ngực. Ông nghĩ rằng mình có lỗi, rằng mình đã bất lực... và điều đó giày vò ông đêm đêm.
Công việc vận chuyển vũ khí vẫn không thể ngưng trệ, những con tàu lại nối tiếp nhau ra đi và nỗi thấp thỏm của đoàn trưởng dường như không bao giờ vơi. Ông chóng già, chóng bạc tóc vì thế.
Trời mùa đông chóng tối. Chưa đầy sáu giờ chiều, ngọn núi đã nhoà mờ, không rõ hình nét. Gió xào xạc. Lưng chừng núi, một vài chiếc lá vàng bay bay như cánh bướm. Trời se se. Đâu đó, thoảng có tiếng động cơ máy bay. Phía Hải Phòng một vầng sáng hắt lên đùng đục.
Đoàn trưởng nhìn chiếc đồng hồ đeo tay, ông biết đã tới lúc mình cần có mặt trong sở chỉ huy. Tuy thế, ông vẫn bước chậm. Ông muốn giảm thời gian chờ đợi. Một chiến sĩ nhỏ người từ phía ngôi nhà của ban chỉ huy đi tới.
- Báo cáo thủ trưởng, quá giờ ăn cơm chiều hơn nửa tiếng rồi ạ - Cậu ta nói, có ý trách.
Đoàn trưởng dừng lại:
- Cậu cứ ăn trước nhé. Đừng chờ.
- Mùa đông cơm chóng nguội lắm ạ.
- Không sao!
Đã thuộc tính người chỉ huy, cậu chiến sĩ không nài thêm. Chàng lẳng lặng bước lại ngôi nhà, vẻ mặt không hài lòng.
Đoàn trưởng ngước nhìn theo: "Cậu không chỉ nhỉnh hơn thằng con út của mình vài ba tuổi. Có lẽ đợt tới sẽ xin cho nó vào bộ đội". Đoàn trưởng nhớ lại lá thư vợ, ông mới nhận gần đây và không khỏi thú vị. Bà khoe với ông là con ngoan hơn, biết thương mẹ, ân hận với những điều đã qua và đỡ đần được khối việc gia đình. Tuy thế, bà vẫn lấy làm xót xa rằng đáng ra không nên giao thằng bé cho công an. Bà thương nó ăn uống kham khổ. Nhưng ông biết thằng bé tiến bộ được là nhờ gửi vào trại. Ít ra cậu chàng qua đó mà khôn lên, vỡ vạc ra một số điều. Cuối thư, bà trách ông ít về, trách ông không ngó ngàng gì tới chuyện gia đình. Con hư cũng mặc, vợ ốm cũng mặc. Bà bảo ông vô tâm. Ừ, vô tâm, ông chịu tiếng ấy với vợ, nhưng về sao được khi công việc của đơn vị lút đầu lút cổ không còn kẽ hở thời gian. Giá bà rõ ông bận đến thế nào, chắc thông cảm hơn. Ông biết, lấy ông, bà chịu nhiều thiệt thòi. Thiệt thòi đủ thứ. Hơn hai mươi năm qua, ông cứ đi biền biệt, thỉnh thoảng đảo về, bà chưa kịp bàn định chuyện gia đình ông đã đi. Trong nhà bà sắm được cái gì, phải bán đi cái gì nào ông có hay. Tức lên, bà bảo: "Nơi này với ông khác gì cái quán trọ!". Ông cười. Bà cũng cười, nước mắt giàn giụa. Ông rõ là bà thương ông. Không thương mà mấy chục năm trời một mình vò võ nuôi con khôn lớn; học hành cũng bà, gả chồng cũng bà. Một tay bà thu vén mọi việc để ông rảnh bề công tác. Lắm lúc ngẫm nghĩ, ông thương nhiều, nhưng ông không nói ra.
- Báo cáo đoàn trưởng, có điện! - Người sĩ quan tham mưu hớt hải đi tới.
Ông Tư quay vào sở chỉ huy. Tham mưu trưởng Đặng đang ngóng lên hải đồ. Trên đó bốn con tàu đã nằm ở những vị trí quy định chuyển hướng.
Nghe bước chân đoàn trưởng, tham mưu trưởng quay lại:
- Cả bốn tàu đều đã tới Z... xin vào bờ anh ạ.
- Bước đầu, thế là thắng - Đoàn trưởng quay sang người sĩ quan tham mưu - tình hình địch?
- Báo cáo, phòng quân báo cho hay, bọn địch vẫn ở thế sẵn sàng chờ ta đi vào hải phận miền Nam.
- Cụ thể?
- Các tàu tuần tiễu của hải quân Mỹ thuộc biên đội 115 triển khai từ Đà Nẵng đến sông Bồ Đề (Cà Mau). Tất cả các tàu tuần tiễu ngoài khơi đều được gọi về chốt giữ các cửa sông, luồng lạch. Phía Côn đảo, Hòn Khoai, ngụy có 17 tàu. Phía Nha Trang có 26. Phía Đà Nẵng có 19. Và...
- Tình hình bến?
- Cho tới giờ, các bến báo ra đều yên. Hiện địch chưa rõ ta vào hướng nào. Chúng đang phân vân: đây là nghi binh của Bắc Việt hay hành động thật, vì thế lúng túng trong đối phó, đành dàn mỏng lực lượng khắp tuyến.
- Điện cho các tàu: "Bến yên, địch báo động. Tùy tình hình cụ thể, khôn khéo lựa thời cơ vào bờ. Liên lạc thường xuyên với sở chỉ huy".
- Rõ!
Đoàn trưởng ngồi xuống ghế, bàn tay phải ôm lấy khuôn mặt gầy nhỏ. Ông thấp thỏm chờ đợi.
Thời gian trôi đi. Trong phòng im ắng, chỉ có tiếng rè rè của chiếc máy thông tin đang túc trực đón tín hiệu.
- Báo cáo các tàu điện về: bắt đầu chuyển hướng.
Đoàn trưởng không trả lời. Ông khẽ trở mình trên ghế. Mạch máu hai bên thái dương giật mạnh. Những nếp nhăn trên trán hằn sâu. Ông ngồi lặng như một pho tượng.
Nửa tiếng trôi qua.
Một giờ trôi qua.
- Báo cáo, T.37 điện về: trên hướng vào có nhiều tàu cá.
- Nhắc T.37: ở đó có tàu địch. Được phép xử lý theo tình hình cụ thể.
- Báo cáo, phòng quân báo cho biết: địch tập trung lực lượng khá đông phía cửa sông Bồ Đề. Tàu T.63 đang đi vào hướng đó.
- T.63 không thuận rồi đó, anh - Tham mưu trưởng quay sang phía đoàn trưởng - Tôi đề nghị T.63 quay ra. Kinh nghiệm cho hay, địch đã bịt cửa sông, rất khó vào.
- Nhắc T.63, phía trước có địch. Nếu không thuận thì quay ra. Còn hướng Bình Định, Nha Trang? - Đoàn trưởng hỏi người sĩ quan.
- Chưa có tin tức ạ.
Đoàn trưởng bước quanh phòng. Trời lạnh nhưng ông bức bối. Ông lại bên cửa phòng và có cảm giác như đầu sắp vỡ. Cạnh đó, tham mưu trưởng Đặng, hai tay chống vào hông, đôi mắt dán lên hải đồ, lẩm nhẩm tính toán.
Đêm vắng lặng. Phía ngoài, nghe rõ từng đợt gió thổi lên vách núi, tiếng bước chân của người lính gác và tiếng hòn đá nào đó lăn lộc cộc xuống vực. Trời âm u, nặng nề.
Thời gian trôi.
Khoảng hơn mười giờ đêm, đồng chí sĩ quan tác chiến từ phòng bên bước sang.
- Báo cáo "bến" Hòn Hèo (Nha Trang) điện ra: địch đổ quân bao vây khu vực "bến". Dưới biển, tàu chiến địch đã chặn hết mọi lối ra vào.
- Cáo bến khác? - Đoàn trưởng quay nhanh lại.
- Không thay đổi.
"Địch càn vô cớ hay chúng đã rõ ý định của ta?". Đoàn trưởng Tư vừa bước, vừa nghĩ. Dù sao cũng không để tàu T.250 tiếp tục vào Hòn Hèo. Vào là nguy hiểm, là bị tiêu diệt.
- Báo cáo, tàu T.178 điện: địch đã biết ý định của tàu vào Bình Định. Chúng cho máy bay rà thấp theo dõi và dồn lực lượng từ phía Nha Trang lên. T.178 muốn chuyển lên phía bắc để đánh lạc hướng địch. Xin ý kiến đoàn.
Tham mưu trưởng Đặng rời tấm hải đồ, quay lại phía đoàn trưởng Tư:
- Theo tôi, phía Hòn Hèo động, T.250 không thể vào được "bến" nên cần nhanh chóng di chuyển lên phía bắc nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của địch để T.178 lựa thời cơ vào bến. Phía Bình Định, "bến" vẫn yên. Từ Nha Trang lên Bình Định không xa.
- Tôi đồng ý phương án đó, lưu ý thuyền trưởng Ngát, tránh địch không xảy ra nổ súng.
11 giờ có điện của T.37 báo về.
"Đã vượt qua đảo Lý Sơn, tàu địch, quây phía ngoài, cho biết tình hình bến!".
Bằng cách nào Hòa và Tòng đưa được tàu vượt qua đảo Lý Sơn? - Đoàn trưởng nghĩ, ông lệnh:
- Báo cho T.37 biết "bến yên" cố gắng vào - Ông hỏi thêm- T.63 đang ra sao?
- Báo cáo, vẫn chưa thấy trả lời.
- Vùng biển gần sông Bồ Đề vẫn yên?
- Vâng, phòng quân báo chỉ chỏ biết, địch vẫn gọi nhau: Chim về tổ! Chim về tổ!
- Điện cho T.63 quay ra.
Song, ngay lúc đó, từ phòng bên, một sĩ quan hối hả bước sang, đưa cho đoàn trưởng bức điện mới. Ông đọc nhanh: "... Chúng tôi gặp địch...". Khuôn mặt đoàn trưởng biến sắc. Những giọt mồ hôi lấm tấm rịn trên trán. Ông đứng lặng. Cách đây gần hai năm ông cũng nhận được bức diện như thế của tàu T.165. Và đó là bức điện cuối cùng, tin tức cuối cùng của con tàu. Chẳng lẽ có sự trùng lặp như thế đối với tàu T.63? Giọng run run, đoàn trưởng nhắc lại:
- Điện cho T.63 tránh địch, quay ra vùng biển quốc tế gấp.
Ông hiểu điều gì đã và đang xảy ra. Ông nói thêm:
- Báo cho anh em trên tàu rõ, sở chỉ huy luôn theo sát các đồng chí, hãy vững vàng, hãy bình tĩnh...
Lát sau, đồng chí sĩ quan ái ngại nhìn đoàn trưởng rồi lại nhìn chính ủy rồi rụt rè thông báo: đứt liên lạc với T.63.
- Vẫn phải cố gắng bám sát T.63, bắt liên lạc với nó - Đoàn trưởng đưa mắt nhìn tấm hải đồ, giọng trầm hẳn xuống.
- Báo cáo, T.37 điện về "gặp bến".
Đoàn trưởng Tư đứng phắt dậy. Những nếp nhăn trên gương mặt thoáng giãn. Cố nén tiếng thở mạnh, đoàn trưởng rời bàn, đi lòng vòng quanh phòng. "Gặp bến! Làm thế nào mà T.37 lách vào đó tài tình, nhanh chóng như vậy? - Quả là một tập thể cán bộ thuyền khôn ngoan, táo bạo... "
Thành công của tàu T.37 phần nào làm vơi trong ông nỗi lo lắng. Ông hỏi nhanh:
- Tình hình T.250?
- Thuyền trưởng Ngát điện về: Địch vẫn chú ý T.250 - T.250 đang cố thu hút lực lượng địch về phía mình, kéo chúng ra xa ngoài khơi.
- Một trò ú tim! Điện cho T.178:. Lựa sơ hở địch, nhanh chóng vào bến.
- Rõ!
Lại chờ đợi. Trời đã khuya lắm. Căn phòng lành lạnh. Ngoài tiếng lẹt rẹt của chiếc máy vô tuyến, chỉ còn lại tiếng bước chân nặng nề, chậm rãi của đoàn trưởng. Không gian bên ngoài yên tĩnh. Ngọn núi đá đứng lặng trong đêm và khu đoàn bộ nghỉm trong bóng tối. Xa xa, có tiếng gà eo óc. Đoàn trưởng liếc nhanh chiếc đồng hồ: một giờ sáng!
Ông vẫn bước thong thả, kiên trì và căng thẳng.
Chốc chốc lại hỏi:
- Bắt liên lạc được với T.63 chưa?
Nhưng lần nào cũng gặp sự thất vọng trên gương mặt người sĩ quan tác chiến.
Hai giờ sáng, sở chỉ huy như trút được một phần gánh nặng: "Tàu T.178 điện về: thả hàng an toàn. Đang ra khơi ".
Đoàn trưởng lập tức ra lệnh:
- Điện cho T.250 mở hết tốc độ, ra vùng biển quốc tế trong đêm và quay trở về.
Số phận bốn con tàu như vậy là rõ. Lúc này chỉ mong ngóng tin cuối cùng của T.37.
Mấy phút sau, lúc 2 giờ 47 phút, sở chỉ huy nhận được điện của thuyền phó Tòng: "Đã thả xong hàng".
Mọi người đang mừng thì chừng nửa tiếng sau, T.37 điện về: "Chúng tôi bị bao vây. Bắt buộc phải nổ súng chiến đấu. Nhất định chiến thắng!"
"Phải nổ súng chiến đấu! Phải nổ súng chiến đấu!". Đoàn trưởng Tư lặng lẽ ngả người ra ghế, khuôn mặt đanh lại.
Và đó là bức điện cuối cùng của tàu T.37.
- Báo cáo, mạn phải có máy bay địch!
- Anh Hòa, đề nghị cho dừng máy, tránh ánh lân tinh - Tòng nói nhanh.
- Máy bay địch có thể đã phát hiện ra ta, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. - Nói rồi Hòa bước ra boong.
Trong buồng lái chỉ còn Đạm và Tòng. Đêm cuối tháng, tối đen. Mặt biển như một khối mực khổng lồ. Mây sà thấp. Trời không sao.
Chiếc máy bay lướt qua con tàu rất nhanh.
Tòng tăng tốc độ, con tàu đã hết hàng, dềnh trên mặt biển lướt nhanh về phía đông.
- Trước mặt là đảo Lý Sơn - Đạm nói - Chúng ta cố gắng vượt qua đó trước ba rưỡi.
Tòng dõi ra: trên mặt biển thấp thoáng những bóng đèn màu.
- Đèn ở sân bay trên đảo. Cứ nhằm hướng đó mà ra khơi - Vẫn tiếng Đạm.
Lẫn trong tiếng sóng, có tiếng máy bay vọng tới. Rồi một chùm mười hai quả pháo sáng bung trên đỉnh tàu. Mặt biển sáng trắng, lấp loá. Con tàu trơ ra chơi vơi dưới những ngọn đèn dù.
- Thẳng lái! Giữ nguyên tốc độ - Tòng hô, rồi anh bám thành cửa, nhìn ra bốn phía: vẫn không thấy tàu địch.
Con tàu đi nhanh về hướng đảo Lý Sơn.
Chừng mười lăm phút sau, chếch về bên phải, phía trước mũi tàu một ánh đèn pha đột ngột bật sáng, chiếu thẳng vào buồng lái.
Tòng cho tàu quặt bên trái. Con tàu nghiêng hẳn, lượn nửa vòng, hướng lên phía bắc. Nhưng, đã thấy ba tàu địch lù lù chắn trước mặt. Chúng đánh tín hiệu hỏi sang: Tàu nào? Quốc tịch?
Tòng đá mắt nhằm bên phải: có đến hơn sáu khối đen đang tiến tới.
- Bị bao vây rồi anh Đạm ạ - Hòa từ boong xộc vào nói nhanh.
Tòng giảm tốc độ. Bốn phía là tàu địch. Chúng đang rọi đèn pha về phía T.37.
- Tôi đề nghị nên đưa tàu gần sát bờ. Nếu phải hủy, anh em rời tàu dễ dàng hơn - Đạm tham gia.
Hòa và Tòng đồng ý. Tòng trực tiếp cầm vô lăng, xoay nửa vòng, con tàu quay mũi. Anh tăng tốc độ.
Tàu địch lập tức đuổi theo. Máy bay rà thấp, bắn pháo sáng. Trước mũi, nhiều cột nước dựng lên. Địch bắt đầu bắn chặn. Đạm chạy ra mặt boong chỉ huy chiến đấu.
- Hủy tài liệu - Hòa quay lại nói với thuyền phó Xuyên vừa bước vào - Điện về: "Chúng tôi bị bao vây. Bắt buộc phải nổ súng. Nhất định chiến thắng!".
Ngoài boong, đạn ĐKZ, đạn B.40 và đạn 12 ly 7 nổ ran. Tiếng Đạm:
- Không để chúng vào gần. Nhằm luồng đạn chỗ nòng súng địch làm vật chuẩn, bắn.
Địch không dám lại gần. Chúng lảng vảng từ xa đổ đạn về phía con tàu.
Máy bay nhào xuống bắn rốc két. Cả một vùng biển nhập nhoà, lửa đạn loang loáng.
Tòng điều khiên tàu lách tránh đạn. Hòa đứng cạnh, nhô hẳn nửa người ra khỏi buồng lái. Đạn 20 ly không ngớt rải trên boong. Tiếng đạn va vào vỏ thép khô đanh.
Chợt Tòng nhận ra có vật đó vừa xuyên qua buồng Lái. Tòng quay lại: người lính hàng hải ngã vật xuống sàn tàu, máu thấm ướt khung ngực.
- Anh Hòa! Có đồng chí hy sinh - Tòng gọi. Anh cho tàu mở hết tốc độ, đâm thẳng vào giữa cụm tàu địch. Bọn địch giạt ra. Lựa thời cơ ấy, con tàu chạy nhanh vào bờ.
Tiếng súng vẫn nổ. Phía sau Tòng, thuyền phó Xuyên và hai chiến sĩ nữa đang cho thi hài tử sĩ vào bao ni lông.
Cột lửa bốc cháy phía đuôi tàu. Tiếng Đạm:
- Thùng dầu phụ trúng rốc két. Dập lửa!
Rồi khuôn mặt Đạm hiện ra ở buồng lái.
- Sáu đồng chí bị thương - Anh nói hổn hển - thêm hai đồng chí hy sinh. Cần cho anh em rời tàu ngay anh Hoà ạ.
Hòa nhìn lên phía trước: dải núi trên bờ mờ mờ hiện ra. Anh gọi:
- Đồng chí Xuyên!
Người thuyền phó chạy tới. Khuôn mặt ám khói. Một vệt máu dòng chảy qua má.
- Bị thương à? - Hòa hỏi.
- Tôi đã hủy xong tài liệu!
Hòa với cuộn băng, quấn vết thương cho Xuyên.
- Đồng chí phụ trách công việc cài kíp vào các khối thuốc nổ để anh Đạm đưa thương binh và tử sĩ vào bờ. Đặt giờ nổ ba mươi phút.
- Báo cáo...
- Không chần chừ nữa!
- Báo cáo, đạn địch đã phá hủy hoàn toàn hòm đựng kíp.
- Hả?
Hòa chồm tới, hai tay bíu chặt vai người thuyền phó, tai ù đi. Chẳng lẽ anh nghe nhầm.
- Vâng đúng thế. Tất cả số kíp bị phá hoàn toàn, tôi đã kiểm tra kỹ - Xuyên thất vọng nhắc lại.
Bốn khuôn mặt đờ dại. Họ cùng lặng đi, và cùng hướng nhìn về phía những chiếc tàu địch. Đạn từ đó vẫn bắn như mưa vào tàu T.37.
- Chúng ta vẫn còn phương án cuối cùng. Đề nghị các anh cho tôi ở lại nối mạch điện để tàu nổ - Tiếng Xuyên rành rọt.
Hòa, Tòng và Đạm quay nhìn. Khuôn mặt Xuyên chờ đợi.
- Với cương vị bí thư chi bộ, việc ấn kíp điện cho tàu nổ ngay là phần việc của tôi - Đạm nói thong thả, cố nhấn mạnh vào từng chữ. Tôi phân công...
Một loạt đạn đã găm vào buồng lái. Đạm loạng choạng, đưa tay ôm ngang ngực. Từ đó, một dòng máu vọt ra.
- Anh Đạm!
Hòa và Xuyên vội đỡ lấy chính trị viên.
Đạm tựa vào người Hòa:
- Mình bị rồi... tiếc quá... - Giọng Đạm ngắt quãng, - Vĩnh biệt... Bằng mọi giá, đừng để tàu và... anh em rơi vào tay địch... Cho chào...
Tòng buông vô lăng, lao tới:
- Anh Đạm! Anh đừng chết!
Đạm mềm trên tay Tòng. Tòng nấc lên, rồi đánh mặt ra phía ngoài, anh hét:
- Bắn! Bắn!
Lập tức các cỡ súng trên tàu đua nhau nhả đạn.
- Bắn! Bắn!
- Bắn! Bắn Bắn!
Mấy chiếc tàu chiến lùi xa. Hòa cho tàu cơ động, nhích gần vào bờ.
- Tôi sẽ thay anh Đạm ở lại - Quay về phía mọi người, Hòa nói to - Đồng chí Tòng và đồng chí Xuyên tổ chức cho anh em rời tàu.
- Anh Hòa, tôi xin làm nhiệm vụ hủy tàu - Tòng nói vội vã.
- Tất cả chấp hành mệnh lệnh!
Tòng nhìn Hòa trân trân. Chẳng lẽ thế, chẳng lẽ đây là sự thật; chỉ ít phút nữa, anh Hòa cũng sẽ như anh Đạm? Cái chết đến với người ta lại nhanh chóng như vậy ư?
- Anh Hòa, cho tôi ở lại - Tòng thấy mình quá nhỏ bé trước người thuyền trưởng, anh nài - Anh cho tôi ởlại tôi là thuyền phó, tôi có thể... Tòng, anh em đang nhìn chúng ta đấy.
Tòng chạy vội ra boong. Thời gian gấp lắm, phía bờ đã nghe tiếng lạch phạch của máy bay trực thăng. Chúng đổ quân. Tòng cùng Xuyên sắp xếp để anh em thủy thủ rời tàu. Mọi người lặng lẽ thả mình xuống nước. Những khuôn mặt đanh lại, chỉ đôi mắt rực lên như có lửa...
Khi còn lại một mình, Tòng chạy vào buồng lái:
- Anh Hòa! Sao lại thế được... Tôi...
- Tòng có nhiệm vụ dẫn anh em trở về - Hòa cắt ngang, giọng tỉnh như băng - Cố gắng gặp cho được người của mình. Trên bờ bọn Mỹ dang đổ quân đấy... có nhiều anh em bị thương...
- Đồng chí Xuyên có thể làm việc ấy. Anh Hòa, đừng nhìn tôi thế... Tôi cũng có trách nhiệm hủy tàu chứ. Anh Hòa, chẳng lẽ...Tôi không bỏ anh đâu. Tôi nhất định không rời tàu. Chúng ta sẽ...
- Cậu nói gì thế? Thương mình! Đằng nào cũng có một người ở lại... Tòng, xuống nước đi - Hòa hét: Hãy xuống nước! Hãy đi đi. Nghe mình. Đừng để anh em chờ... Hãy báo cáo với đảng ủy và thủ trưởng đoàn rằng chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ, vũ khí đã đưa tới bến an toàn, con tàu không lọt vào tay địch. Nó đã xứng đáng với cái tên T.37. Gửi lời chào anh em...
- Anh Hòa!
- Tòng đứng như tượng, mắt đăm đăm nhìn Hòa. Bỗng anh nhào tới, đôi tay dài lêu đêu nguềnh ngoằng vụng về ôm lấy Hòa, riết mạnh. Rồi anh lần hít mùi mồ hôi trên người thuyền trưởng, hít lên cổ và hôn tới tấp lên mặt. Hai giọt nước mắt lăn dài trên má. Hòa sợ mình cũng khóc, anh gỡ nhẹ tay Tòng. Hai người đứng nhìnnhau rất lâu, không nói. Rồi Tòng quay nhanh. Hoà chỉ thoáng thấy đôi vai người thuyền phó rùng rung nơi mạn tàu. Và sau đó, anh bắt gặp đôi mắt Tòng đỏ hoe, quay nhìn lần nữa... Tòng mất hút.
Lúc ấy xung quanh chợt lặng tanh. Cái lặng đến hãi sợ. Con tàu to bè. Buồng lái nơi Hòa đứng dường như cũng rộng hơn. Bên ngoài, trời tối lờ nhờ. Mặt nước đen thẫm đặc quánh. Xa xa rừng đêm lặng lẽ viền một đường gấp khúc nơi nền trời. Phía biển, những chiếc tàu địch đen trũi dập dềnh nhích lại, nhích lại. Chốc chốc, một vệt pháo sáng vọt lên, hắt vào người Hòa, nhập nhòe. Không gian yên vắng. Chỉ có tiếng sóng vỗ vào mạn và tiếng tích tắc đều đều của chiếc đồng hồ.
Anh em chắc đã lên bờ và đang dõi theo! - Hòa nghĩ và nghe nhìn cái núm nhựa màu đỏ, chỗ anh sẽ nối mạch điện cho năm tạ thuốc nổ, tự nhiên thấy cô đơn lạ lùng. Tòng đâu? Mọi lần, trong những phút hiểm nguy, anh vẫn có Tòng bên cạnh. Và Xuyên đâu? Mọi người đâu hết cả rồi, anh thèm được nhìn anh em thủy thủ một lần nữa quá! Anh rung chuông. Anh đấm thình thình lên cửa. Vẫn chỉ một mình với con tàu. Cho tàu nổ ngay bây giờ. Chờ một phút nữa đã... Hòa bối rối và có cảm giác hoảng sợ như người bị lạc vào chốn hoang vu xa lạ không lần dược lối ra. Năm tạ thuốc nổ. Một tia chớp. Tất cả sẽ vụn tơi. Chẳng lẽ, chao ôi, chẳng lẽ...
Tàu địch lại nháy đèn pha, phát tít hiệu hỏi sang.
Thần kinh căng quá. Mọi bận gặp địch, mình tỉnh táo bình tĩnh kia mà. Mình đâu phải kẻ hèn nhát. Đã bao lần sẵn sàng hy sinh... "Bằng giá nào cũng phải hủy tàu". Hòa nuốt nước bọt, rồi run run đưa tay về phía cái núm nhựa.
Bỗng "choang!" chiếc ống nói treo cạnh đó rơi mạnh xuống sàn. Hòa giật bắn người, vội rụt tay lại, toàn thân lạnh toát. Anh rùng mình và một nỗi sợ hãi không rõ từ đâu nhanh chóng choán ngợp, khiến anh run lên. Anh đưa tay quệt ngang mặt. Người ướt đầm mồ hôi. Lúng túng, anh cởi vội chiếc áo ngoài, ném lên vô lăng rồi lảo đảo đi giật lùi mấy bước. Đứng tựa vào vách, hai tay thu phía sau, nhắm mắt. Hòa thở dốc. Trông anh như người võ sĩ thoáng phút nghỉ ngơi để vào trận đấu. Năm tạ thuốc nổ! Thật khửỉlg khiếp... Thế là hết, nhanh quá! Cuộc đời một con người chỉ đơn giản có thế? Anh thấy ngột ngạt, chân tay rã rời.
Một luồng gió từ cửa lùa vào. Hòa khẽ rùng người. Anh từ từ mở mắt, nhìn lên bờ. Nơi mép nước, có ánh lân tinh thấp thoáng lóe sáng. Ở đó, sóng đang đua nhau mài lên bãi. Sau trảng cát là rừng. Rồi đến bầu trời và nhường ngôi sao sắp tàn. Chỉ ít phút nữa là trời sẽ bừng lên... ôi, cuộc sống sao lại ào ạt, sao lại có sức quyến rũ đến thế! Hòa thở hắt ra, thấy dễ chịu hơn. Và tự dưng anh thấy khát. Anh muốn được ra ngoài boong quá! Ra đó chắc dễ thở, nhưng anh lại sợ... Mình tự nguyện kia mà... mình đã hứa... Trách nhiệm... Trách nhiệm!... Anh cố đứng thẳng, nhưng đôi chân ướt mèm từ bao giờ, mềm nhũn. Sao thế? Hòa tự hỏi cũng là tự kêu gọi mình - Hãy vững vàng như những lần tàu lọt vào vòng vây địch. Vững vàng lên!
Có tiếng loa chiêu hồi vọng tới. Địch bắt đầu dùng chiến thuật "hoà bình". Tiếng loa khiến Hòa choàng tỉnh. Anh nhìn ra. Mấy chiếc tàu địch đã vây bốn phía. Chắc chúng muốn "bắt sống!". Và sau đó, sẽ kéo về triển lãm... Thời gian gấp lắm. Hòa vơ vội chiếc áo, khoác vào và bước lên mấy bước. Nào, miễn là đừng run tay, chỉ một nhoáng là xong. Lúc dó thì chăng còn hay biết gì nữa. Hình như sự mãn nguyện của những chiếc tàu địch đã đánh thức lòng tự ái trong anh. Anh mạnh bạo hẳn.
Nhưng quái, cái núm nhựa màu đỏ vừa vặn bằng chiếc cúc áo kia sao lúc này lại giống con mắt thế? Nó cứ chòng chọc nhìn Hòa, giễu cợt, dọa nạt, thách đố. Hòa chùng gối lùi lại một bước. Tiếng loa chiêu hồi rang ráng vọng tới. Thần kinh không bình thường rồi! Nó làcái núm nhựa, hoàn toàn bằng nhựa. Hòa bước lên: Anh với tay ra, nhắm mắt, nín thở. Mồ hôi vã đầy mặt. Tất cả sẽ là cát bụi. Tích tắc! Tích tắc! Tất cả sẽ là... Chợt Hòa chùng tay lại. Thật vô lý! Tại sao không thể khác được? Chiếc chìa khoá gỡ rối tức khắc hiện ra, và nó nhanh chóng trùm lên tất cá mọi suy tính: Có thể hủy tàu bằng súng. Còn kịp! Vẫn còn kịp! Miễn là phải hành độngthật nhanh. Không nên hy sinh vô ích. Cái thoáng thông minh biết đánh lừa mình ấy làm cho Hoà tỉnh hẳn.
Hoàn toàn bản năng, anh nhào ra khỏi buồng lái, chạy tới mạn tàu, bung mình xuống nước, sải tay cắt sóng...
- Thế nào anh Hòa? Trời sáng mất rồi.
Mọi người ùa ra mép nước, đỡ Hòa dậy. Tòng hỏi:
- Sao thế, anh Hòa?
- Ta có thể... dùng ĐKZ... Tòng điều cho tôi - Tiếng Hòa hổn hển, ngắt quãng - Tòng điều cho tôi hai khẩu ĐKZ.
- Không kịp đâu, anh Hòa - Tòng hốt hoảng nói - Cần nhanh chóng rời khỏi đây. Bộ binh Mỹ đã đổ quân bao vây phía sau núi... Cần hủy tàu tức khắc.
Một loạt đạn AR.15 ở đâu đó bắn tới. Mọi người vội cúi thấp xuống.
- Chần chừ là bị bắt sống cả người và không hủy được tàu. Đồng chí Xuyên. Cho anh em rời khỏi đây ngay...
- Sao vậy Tòng? - Tiếng Hòa lo lắng.
- Anh phụ trách anh em thoát vòng vây. Còn T.37, cứ mặc tôi. Tàu địch vào gần lắm rồi.
Tòng vụt chạy. Bóng Tòng hoà lẫn vào biển, mất hút. Hòa luống cuống đuổi theo:
- Không được liều, Tòng - Hòa hét to - Tòng! Tòng!
Nhưng vừa lúc đó, một loạt đạn xỉa ngay xuống trảng cát, Hòa phải dừng lại.
- Chúng ta rút thôi, anh Hòa - Xuyên giục.
Đôi mắt Hòa vẫn không rời con tàu. Anh loạng choạng đứng dậy, song Xuyên đã kịp ấn anh xuống: Đạn AR. 15 vãi xung quanh.
- Đồng chí dẫn anh em rút ngay - Hòa nói.
- Còn anh?
- Mặc mình!
Hòa lảo đảo đứng lên. Xuyên gắt:
- Anh Hòa, không được. Anh cũng phải rút. Mặc mình - Hòa nói như trong cơn mê và nhao ra phía mép nước.
Lúc đó Hòa chợt thấy con tàu xoay mũi, hướng về phía những chiếc tàu địch. Hòa chưa kịp trấn tĩnh, chưa kịp hiểu thì một tia chớp lóe lên, kế đó là một cột lửa hình nấm khổng lồ sáng lòa vọt cao, lơ lửng trong không trung. Một tiếng sét dữ dội nổ vang, trùm khắp mặt biển. Cột nước khổng lồ dựng đứng, đổ ập xuống tràn lên bờ. Luồng gió mạnh phả vào trảng cát, nóng hừng hực.
Hòa bàng hoàng, hai tay hoảng loạn dang ra, chới với. Anh cảm giác như mình vừa hẫng hụt vào chỗ chân không nào đó. Anh chỉ kịp gào lên một tiếng: "Tòng ơi!", rồi tuyệt nhiên không còn cảm giác, toàn thân cứng đờ, nặng nề đổ phịch xuống như cây chuối bị một nhát dao sắc bất ngờ phạt đứt gốc. Hòa nằm sấp trên cát, đôi bàn tay nhoài với ra biên. Anh không còn nghe gì nữa, không thấy gì nữa và không biết gì nữa.
Mọi người vội vã xốc anh dậy, dìu đi...
Từ ngày 18 đến ngày 22, bốn chiếc tàu vận tải Bắc Việt giả dạng tàu đánh cá lần lượt rời bến, tìm cách thâm nhập vào miền Nam để tiếp tế đạn dược, khí cụ và không loại trừ khả năng cả binh sĩ cho Việt Cộng. Đây là một cố gắng thâm nhập liều lĩnh và can đảm nhằm cung cấp vũ khí cho Việt Cộng trên toàn miền Nam..
Song, lộ trình và ý đồ của các tàu trên đã bị hải quân Hoa Kỳ phát giác. Các tàu tuần tiễu ven biển của hải quân Hoa Kỳ thuộc biên đội 115, do đại tá Hen-rik chỉ huy được lệnh cùng các lực lượng hải quân Việt Nam Cộng hòa theo dõi và ngăn chặn.
Chiếc tàu thứ nhất bị phát giác vào đêm 19 do những chiếc máy bay tuần tiễu trên biển kiểu SP.24 thuộc hai đại đột tuần tiễu VP-2 và VP-17 trong hoạt động gọi là "hành quân phiên chợ". Các máy bay tiếp tục theo dõi, bám sát tàu này từ xa bằng những máy móc hiện đại và tối tân nhất. Và những ngày sau đó thì phát hiện ra ba tàu kia.
Đợi khi đối phương vào hải phận miền Nam, các chiến hạm Hoa Kỳ và các chiến hạm của hải quân Việt Nam Cộng hòa được lệnh ngăn chặn.
Chiếc tàu vận tải thứ nhất chạy vào vùng biển phía bắc Nha Trang thì ngoặt hướng đi lên. Năm tàu tuần tiễu của Hoa Kỳ kiểu Xuyp-bốt ( Swift-boat ) là Pef.42, Pef.43, Pef.46,Pef.47, Pef.48 cùng hải thuyền Ya-bu-ta của hải quân Việt Nam Cộng hòa và hai chiến đỉnh USCG Cutter, Point Grey từ phía bắc xuống được lệnh theo sát. Tàu này hoảng sợ xả máy chạy ra khơi và gần sáng thì ra tới vùng biển quốc tế, đành bỏ dở hoài bão thâm nhập, quay trở về.
Chiếc thứ hai đi vào vùng biển Bình Định. Hải quân Hoa Kỳ và các lực lượng Việt Nam Cộng hòa được lệnh theo dõi. Nhưng theo báo cáo của đại úy Char Lesb Mosher, đến hai giờ sáng thì tàu này mất tích. Theo nhận định của đại úy Char Lesb Mosher, có thể chiếc tàu này và chiếc tàu đi vào vùng biển Nha Trang là một. Chắc rằng có sự nhầm lẫn nào đó của máy bay thám không.
Vào lúc 2 giờ 30 phút ngày 23, chiếc tàu thứ ba đang di chuyển ra khơi thì đụng độ với các lực lượng Việt - Mỹ ở gần đảo Lý Sơn. Phi cơ Hoa Kỳ, cùng hải quân Hoa Kỳ, hải quân Việt Nam Cộng hòa bắn hỏa châu soi sáng và sau đó được lệnh tác xạ. Tàu đối phương hoảng loạn bắn trả và cố chạy về phía đất liền.
Tham gia bao vây gồm các tàu tuần tiễu Hoa Kỳ kiểu Cốt-gác, cùng các tàu Point Welcome (Phăng Oen-cơm), Point Grey (Phăng go-ri), tàu quét lôi Pensistant (Pơ-xit-tơn) tàu PC.18, PCF.20, PCF.25, PCF.26... và phi đội máy bay 13, với hai trực thăng và sau đó là các đơn vị bộ binh thuộc sư đoàn "A-mê-ri-ca" của Hoa Kỳ.
Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ và quân lực Việt Nam Cộng hòa có phi cơ yểm trợ đánh phá ác liệt vào một tàu vận tải Bắc Việt gan góc và thiện chiến.
4 giờ sáng thì tàu này cách bờ chừng 200 mét đến 300 mét. Thủy thủ hạ xuồng cao su và phao chạy thoát vào bờ. Nhưng kỳ lạ thay, sau đó con tàu này xả máy thẳng hướng các tàu chiến Hoa Kỳ lao tới. Thật là liều lĩnh và can đảm. Kế đó, một tiếng nổ dậy trời, tàu Bắc Việt nát bấy, tan ra từng mảnh không để lại một vết tích gì trên biển... Chiến hạm Point Welcome bị hư hại nặng. Hai thủy thủ tiền vệ chết và hàng chục thủy thủ khác bị thương.
Chiếc tàu thứ tư đang trên đường tiến vào cửa sông Bồ Đề cách Sài Gòn 116 hải lý về phía tây nam thì bị tàu tuần tiễu Hoa Kỳ chặn hỏi. Tàu này từ chối trả lời và cứ nhằm hướng cửa sông lao tới. Tàu Hoa Kỳ Uynona nổ súng. Các tàu quét lôi Mos Confhet, tàu Point Hud-sen, tàu Point Grey, tàu Point Marone và hai tàu SWift-bot cùng sáu chiếc nữa tiếp cận đến. Các thuỷ thủ trên tàu Bắc Việt đã nổ súng bắn lại. Họ chiến đấu đến người cuối cùng, viên đạn cuối cùng và cùng hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng chục tấn bộc phá do bàn tay họ tự hủy sau một ngọn lửa bốc cao và hai tiếng nổ lớn...
... Bắc Việt có một lực lượng hải quân vô địch. Tàu thuyền của đoàn Bắc Việt có thể đi biển trong bất kỳ tình huống nào. Khi sóng to, bão lớn nó mới xuất phát. Thủy thủ của đoàn được rèn luyện dày dạn. Kinh nghiệm, thành thạo luồng lạch và địa hình. Những chỗ đó hải quân Sài Gòn chưa thành thạo bằng... 1
--------------------------------
Chú thích:
1. Trích tài liệu của phòng nhì hải quân ngụy Sài Gòn - TQ