Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 35: Waltzing Matilda
H
arry chạy. Tiếng sủa giật cục của con Gregor giống như cái máy gõ nhịp đầy giận dữ ở chậu cảnh, còn mọi thứ xung quanh đều yên lặng. Hai bàn chân trần của anh giẫm lên cỏ ướt. Anh đưa thẳng hai cánh tay ra phía trước trong lúc lao qua một hàng rào nữa, hầu như không cảm thấy những cái gai nhọn đang cào rách hai lòng bàn tay anh và bộ đồ nhãn hiệu Bjørn Borg. Anh không tìm thấy quần áo và giày của mình đâu; anh đoán là cô ta đã mang xuống nhà, chỗ cô ta ngồi đợi. Trong lúc tìm một đôi giày khác, anh nghe thấy Gregor ư ử và anh đã chạy thục mạng trong tình trạng đó, mặc quần vải và áo sơ mi. Mưa quất vào mắt anh, và những ngôi nhà, những cây táo và bụi cây thấp đang nhòa đi trước mắt anh. Một khu vườn nữa hiện ra từ trong bóng tối. Anh đánh liều nhảy qua cái hàng rào thấp. Nhưng lại mất thăng bằng. Chạy sau khi vừa uống rượu. Một bãi cỏ xén tỉa hiện ra và ập vào mặt anh. Anh nằm đó, lắng nghe.
Anh nghĩ lúc này anh sẽ nghe thấy tiếng chó sủa nhặng lên khắp nơi. Victor có ở đó không nhỉ? Nhanh thế ư? Waaler hẳn đã yêu cầu họ trực chiến. Harry đứng dậy và nhìn quanh. Anh đang ở trên đỉnh của ngọn đồi lúc nãy anh chạy lên. Cẩn thận tránh xa những con đường thắp đèn sáng trưng chẳng mấy chốc nữa sẽ đầy xe cảnh sát đi lùng và là nơi anh dễ bị phát hiện. Anh nhìn thấy nhà Albu dưới phố Bjørnetrakket. Có bốn chiếc xe bên ngoài cửa trước, hai chiếc gắn đèn xoay màu xanh. Anh nhìn xuống phía bên kia ngọn đồi. Có phải tên khu đó là Holmen hay Gressbanen không nhỉ? Tên gì đại loại vậy. Một chiếc xe dân sự đỗ trên vỉa hè gần ngã tư, đèn bật sáng. Harry đã nhanh, nhưng Waaler còn nhanh hơn. Chỉ có cảnh sát mới đỗ kiểu đó.
Anh xoa mặt thật mạnh. Cố gắng gạt bỏ cảm giác mụ mị mà mới đây anh còn thèm muốn. Một ánh sáng xanh lóe lên giữa rặng cây trên phố Stasjonsveien. Anh đã như cá nằm trong lưới, và cái lưới đang từ từ siết lại. Anh khó mà trốn thoát. Waaler quá khôn. Nhưng anh không hiểu lắm. Chuyện này mình anh ta không thể làm được. Hẳn phải có ai đó đã cho phép sử dụng nhiều nguồn lực đến thế để đi bắt một người. Chuyện gì đã xảy ra vậy? Beate chưa nhận được email mà anh gửi sao?
Anh lắng nghe. Không nghi ngờ gì nữa, có thêm chó. Anh đưa mắt nhìn quanh. Nhìn những ngôi nhà sáng đèn, nằm biệt lập và rải rác khắp quả đồi tối đen như mực. Anh nghĩ tới những căn phòng ấm áp, thoải mái phía sau những ô cửa sổ. Người Na Uy thích ánh sáng. Và họ có điện. Họ chỉ tắt đèn khi nào xuôi Nam đi nghỉ hai tuần. Ánh mắt anh chuyển từ nhà này sang nhà khác.
○○○
Tom Waaler ngước lên nhìn những ngôi nhà biệt lập trang hoàng cho khung cảnh như những ngọn đèn trong lễ Giáng sinh. Những khu vườn rộng, tối om. Ăn trộm quả. Anh ta gác chân lên bảng đồng hồ trong cái xe tải đã được chế đặc biệt của Victor. Họ có những thiết bị truyền thông tốt nhất có thể kiếm được, vì vậy anh ta đã chuyển việc điều khiển chiến dịch đến đó. Anh ta có thể liên lạc qua sóng vô tuyến với tất cả các đơn vị vây quanh khu vực này. Anh ta nhìn đồng hồ đeo tay. Lũ chó đã ngừng sủa; đã sắp được mười phút kể từ lúc chúng biến vào bóng tối cùng với những người huấn luyện chó nghiệp vụ, lùng sục trong các khu vườn.
Tiếng bộ đàm vang lên rèn rẹt: “Stasjonsveien gọi Victor 01. Chúng tôi đang giữ một chiếc xe với người tên là Stig Antonsen đang đi về phía đường Revehiven 17. Anh ta nói là đang đi làm về. Chúng tôi có…?”
“Kiểm tra thẻ căn cước, địa chỉ rồi cho anh ta qua,” Waaler nói. “Cả những người khác ngoài đó cũng làm thế, OK? Nghĩ đi chứ.”
Waaler lôi một cái đĩa CD từ trong túi áo ra và nhét vào đầu đĩa trên xe. Vài bài hát giọng nam cao. Prince với bài Thunder. Người đàn ông ngồi ghế lái bên cạnh anh ta nhướng mày, nhưng Waaler vờ như không hay và bật to tiếng. Lời bài hát. Điệp khúc. Lời bài hát. Lại điệp khúc. Bài tiếp theo: Pop Daddy. Waaler lại nhìn đồng hồ. Khỉ thật, lũ chó đi tuần lâu thế? Anh ta đập mạnh tay lên bảng đồng hồ. Người lái xe lại liếc nhìn.
“Bọn nó có cả một vệt máu mới tinh để lần theo cơ mà,” Waaler nói. “Khó đến thế sao?”
“Chúng là chó chứ có phải rô bốt đâu,” người lái xe nói. “Thư giãn đi, rồi chúng sẽ tóm được anh ta thôi.”
Gã ca sĩ mãi mãi được biết đến với cái nghệ danh Prince đang hát dở bài Diamonds and Pearls thì có báo cáo về. “Victor 03 gọi Victor 01. Chắc là chúng tôi đã tóm được anh ta. Chúng tôi đang đứng bên ngoài một ngôi nhà trắng ở… ờ… Erik đang cố tìm xem tên của con đường này là gì, nhưng có một con số 16 trên tường.”
Waaler vặn nhỏ tiếng nhạc. “Được rồi. Tìm xem rồi đợi chúng tôi tới. Tiếng gì đang kêu rinh lên thế?”
“Nó phát ra từ trong nhà.”
Bộ đàm lại kêu rèn rét: “Stasjonsveien gọi Victor 01. Xin lỗi đã chen ngang nhưng ở đây có một xe an ninh. Họ bảo rằng họ đang tới số nhà 16 đường Harelabben. Tổng đài trung tâm của họ vừa nhận được báo động có trộm ở nhà đó. Tôi có…?”
“Victor 01 gọi tất cả các đơn vị!” Waaler gào lên. “Tiến vào. Nhà số 16 phố Harelabben.”
○○○
Bjarne Møller đang giận điên người. Giữa lúc đang xem chương trình ti vi yêu thích nhất của ông! Ông tìm thấy ngôi nhà màu trắng, số 16, xe đỗ bề ngoài, đi qua cổng rồi lên chỗ cửa để mở nơi một sĩ quan cảnh sát đang đứng cạnh một con chó béc giê Đức đã bị xích.
“Waaler có đây không?” Møller hỏi. Viên cảnh sát ra hiệu về phía cánh cửa. Møller nhận thấy kính cửa sổ tiền sảnh đã bị đập vỡ. Waaler đang đứng bên trong sảnh, bàn bạc gì đó với một cảnh sát khác, vẻ bực tức.
“Chuyện quái gì đang diễn ra ở đây thế?” Møller hỏi thẳng, không mào đầu.
Waaler quay ra. “Phải rồi. Ai gọi ông tới đây thế, Møller?”
“Beate Lønn gọi. Ai đã cho phép tiến hành cái việc ngu ngốc này thế hả?”
“Cố vấn luật pháp cảnh sát của chúng ta.”
“Tôi không nói về vụ bắt giữ. Tôi đang hỏi ai đã cho phép tổ chức Thế Chiến thứ Ba chỉ vì một trong số chính các đồng nghiệp của chúng ta có lẽ - có lẽ! - phải giải thích một số chuyện.”
Waaler nhún gót chân trong lúc nhìn Møller chòng chọc. “Ivarsson, chúng tôi tìm thấy một vài bằng chứng tại nơi ở của Harry cho thấy anh ta không chỉ là người mà chúng ta muốn nói chuyện. Anh ta bị tình nghi giết người. Ông còn thắc mắc gì nữa không, Møller?”
Møller nhướn mày kinh ngạc và kết luận rằng chắc Waaler đang rất tức giận. Đây là lần đầu tiên anh ta ăn nói với cấp trên với thái độ khiêu khích như thế. “Còn Harry đâu?”
Waaler chỉ vào những vết chân màu đỏ trên sàn nhà lát gỗ. “Anh ta đã ở đây. Đột nhập, như ông thấy đấy. Bắt đầu có khá nhiều thứ phải giải thích rồi phải không?”
“Tôi hỏi giờ anh ta đang ở đâu.”
Waaler và tay cảnh sát kia nhìn nhau. “Rõ ràng là Harrry không thiết tha giải thích cho lắm. Khi chúng tôi tới thì anh ta đã chạy mất rồi.”
“Vậy sao? Tôi có cảm tưởng là anh đã bao vây toàn bộ khu vực này.”
“Đúng thế.” Waaler nói.
“Vậy thì làm thế nào anh ta chạy thoát được?”
“Dùng cái này.” Waaler chỉ vào cái điện thoại trên bàn. Ống nghe dính thứ gì đó trông giống như máu.
“Anh ta chạy trốn bằng điện thoại để bàn ư?” Møller chợt có cái cảm giác phi lý - bởi nỗi bực dọc và sự nghiêm trọng của tình thế cùng lúc tác động tới ông - là muốn mỉm cười.
“Có lý do để tin rằng,” Waaler nói trong lúc Møller nhìn bắp cơ mạnh mẽ trên cái quai hàm David Hasselhoff đanh lại, “Anh ta đã gọi một chiếc taxi.”
○○○
Øystein cho xe chạy chầm chậm xuôi con hẻm rồi rẽ vào cung đường bán nguyệt rải sỏi phía trước nhà từ Oslo. Anh ta lùi xe vào giữa hai chiếc xe khác, đuôi xe chĩa về phía cái công viên vắng hoe và đường Grønlandsleiret. Anh ta xoay khóa từ để tắt máy, nhưng cái cần gạt nước vẫn cứ gạt soàn soạt qua lại. Rồi đợi. Chẳng thấy ai quanh đó, cả trên quảng trường lẫn trong công viên. Anh ta liếc lên nhìn Sở Cảnh sát rồi rút cái đòn bẩy dưới bánh xe lên. Một tiếng cạch vang lên và nắp cốp xe bật ra.
“Ra đi!” Anh ta gọi, mắt nhìn gương.
Chiếc xe rung lên, nắp cốp được mở hẳn ra rồi đóng sầm lại. Rồi cửa sau xe mở ra và một người đàn ông nhảy vào trong.
Øystein nhìn vị khách ướt như chuột lột, run rẩy qua gương. “Trông cậu tuyệt lắm, Harry.”
“Cảm ơn.”
“Bộ đồ đẹp đấy.”
“Không phải cỡ của tôi, nhưng mà là hàng hiệu Bjørn Borg. Cho tôi mượn giày cậu được không?”
“Sao cơ?”
“Tôi chỉ tìm được đôi dép nỉ đi trong nhà ở cái sảnh đó thôi. Không thể xỏ cái đó mà đi vào nhà giam thăm tù được. Cả áo khoác của cậu nữa.”
Øystein đảo mắt rồi loay hoay cởi cái áo khoác da ngắn ra.
“Cậu có gặp rắc rối nào khi đi qua chỗ họ dựng hàng rào bao vây không?” Harry hỏi.
“Chỉ lúc vào thôi. Họ phải kiểm tra xem tôi có tên và địa chỉ của người mà tôi đem gói đồ đến không.”
“Tôi thấy cái tên đó ở trên cửa.”
“Lúc ra, họ chỉ nhìn vào trong xe rồi xua tay bảo tôi đi. Ba mươi giây sau thì có tiếng om sòm trên điện đàm. Gọi tất cả các đơn vị, gì gì đó nữa. Hê hê.”
“Tôi cũng nghĩ là tôi nghe thấy gì đó sau xe. Cậu biết bắt sóng vô tuyến của cảnh sát là phạm pháp, phải không Øystein?”
“Ừm, bắt sóng thì không phạm pháp. Sử dụng mới là phạm pháp. Mà tôi hầu như chưa bao giờ sử dụng.”
Harry thắt dây giày và quẳng đôi dép qua ghế sang chỗ Øystein. “Khi nào lên thiên đường cậu sẽ được tưởng thưởng. Nếu họ lục lại biển số xe taxi của cậu và cảnh sát viếng thăm thì cậu phải khai ra với họ những gì đã xảy ra. Rằng cậu được khách gọi qua điện thoại di động và vị khách đó cứ đòi nằm trong cốp.”
“Đương nhiên. Đó là sự thật mà.”
“Điều chân thật nhất lâu lắm rồi tôi mới được nghe.”
○○○
Harry hít một hơi sâu và nhấn chuông. Bước đầu thì cũng chưa mạo hiểm lắm, nhưng khó mà biết được cái tin anh bị truy nã đã lan nhanh tới mức nào. Dù sao thì cảnh sát cũng ra vào nhà tù này suốt.
“Vâng,” một giọng nói vẳng ra từ điện thoại nội bộ.
“Thanh tra Harry Hole đây,” Harry nói hơi rành rọt quá, nhìn vào máy quay phía trên cửa ra vào với vẻ mặt mà anh hy vọng là điềm tĩnh. “Tới gặp Raskol Baxhet.”
“Tôi không thấy tên anh trong danh sách.”
“Vậy ư?” Harry hỏi. “Tôi đã nhờ Beate Lønn gọi cho anh để đặt lịch cho tôi rồi cơ mà. Tối qua, lúc chín giờ. Cứ hỏi Raskol xem.”
“Nếu là thăm viếng ngoài giờ quy định thì anh phải nằm trong danh sách, thưa thanh tra. Mai gọi lại vào giờ làm việc nhé.”
Harry đổi chân trụ. “Anh tên là gì?”
“Beygset. Tôi e là tôi không thể…”
“Nghe này, Beygset. Chuyến viếng thăm này liên quan đến việc tìm kiếm thông tin cho một vụ án quan trọng của cảnh sát mà không thể đợi đến mai được. Tôi đoán là tối nay anh đã nghe thấy tiếng còi hụ khắp xung quanh Sở Cảnh sát rồi, phải không?”
“Vâng, nhưng…”
“Được rồi, nếu ngày mai anh không muốn trả lời các câu hỏi của báo chí rằng anh đã phá bĩnh kế hoạch này như thế nào thì tôi đề nghị là chúng ta hãy bỏ qua quy tắc cứng nhắc và nhấn cái nút của lẽ phải thông thường đi. Chính là cái nút ở ngay trước mặt anh đấy, Beygset.”
Harry nhìn chằm chằm vào ống kính vô tri của máy quay. Một ngàn lẻ một, một ngàn lẻ hai. Khóa cửa kêu ro ro.
Raskol đang ngồi trên một cái ghế trong buồng giam thì Harry được dẫn vào.
“Cảm ơn ông đã xác nhận chuyến viếng thăm,” Harry nói, nhìn quanh cái buồng giam một chiều bốn, một chiều hai mét. Một cái giường, một cái bàn viết, hai tủ đựng bát đĩa, vài cuốn sách. Không đài, tạp chí hay tài sản cá nhân, tường trống trơn.
“Tôi thích thế này hơn,” Raskol nói để trả lời cho những suy nghĩ của Harry. “Để đầu óc tập trung.”
“Thế thì hãy cảm nhận xem chuyện này giúp đầu óc ông tập trung thế nào,” Harry nói, ngồi xuống mép giường. “Arne Albu rốt cuộc không giết Anna. Ông giết nhầm người rồi. Bàn tay ông đã vấy máu người vô tội, Raskol.”
Harry không chắc chắn, nhưng hình như anh nhận thấy cái mặt nạ kẻ tử đạo hòa nhã nhưng lạnh lùng của gã Di gan khẽ giật giật một chút xíu. Raskol cúi xuống và áp hai lòng bàn tay lên hai bên thái dương.
“Tôi đã nhận được một cái email từ kẻ giết người,” Harry nói. “Hóa ra hắn đã thao túng tôi ngay từ phút đầu.” Anh lướt một bàn tay qua lại trên họa tiết ca rô của chiếc chăn lông vũ trong lúc tóm tắt lại nội dung của bức thư. Và tiếp theo là bản tóm tắt các sự kiện trong ngày.
Raskol ngồi bất động, lắng nghe cho tới lúc Harry nói hết. Sau đó, hắn ngẩng đầu lên. “Thế có nghĩa là tay anh cũng vấy máu người vô tội, Spiuni ạ.”
Harry gật đầu.
“Giờ anh tới đây để bảo với tôi rằng tôi là kẻ đã khiến tay anh vấy máu. Vì thế tôi nợ anh.”
Harry không đáp.
“Tôi đồng ý,” Raskol nói. “Nói cho tôi xem tôi nợ anh cái gì nào.”
Harry ngừng vuốt ve cái chăn lông. “Ba thứ. Trước hết, tôi cần một nơi ẩn náu đến khi tìm hiểu ra ngọn ngành chuyện này.”
Raskol gật đầu.
“Thứ hai, tôi cần chìa khóa căn hộ của Anna để xem xét vài thứ.”
“Tôi đã trả lại nó rồi còn gì.”
“Không phải chiếc chìa có chữ A.A., cái chìa đó đang nằm trong ngăn kéo ở nhà tôi, mà bây giờ tôi không thể về đó. Và thứ ba…”
Harry ngừng lại và Raskol chăm chú nhìn mặt anh với vẻ tò mò.
“Nếu tôi nghe Rakel nói có bất cứ kẻ nào chỉ cần nhìn hai mẹ con họ với vẻ khả nghi, thì tôi sẽ ra đầu thú, ngửa bài và khai ra ông là người giật dây vụ giết hại Arne Albu.”
Raskol mỉm cười với anh vẻ khoan dung và thân thiện. Như thể, thay mặt cho Harry, hắn ân hận một điều mà cả hai đều biết quá rõ - sẽ không bao giờ có ai tìm ra được chút liên hệ nào giữa Raskol và vụ giết người đó. “Anh không cần phải lo lắng về Rakel và Oleg, Spiuni. Đầu mối liên lạc của tôi đã được chỉ thị ngừng ngay việc đó khi bọn tôi đã xử Albu xong. Anh nên lo lắng về kết quả của phiên tòa hơn. Đầu mối của tôi nói rằng triển vọng không lạc quan lắm đâu. Theo tôi hiểu là gia đình của cha thằng bé có một số mối quen biết nào đó, đúng không?”
Harry so vai.
Raskol mở ngăn kéo bàn viết, lấy một cái chìa khóa hệ thống nhãn hiệu Trioving sáng loáng đưa cho Harry. “Hãy tới ga tàu điện ở Grønland. Đi xuống nhịp cầu thang thứ nhất, anh sẽ thấy một người phụ nữ ngồi sau một ô cửa sổ cạnh phòng vệ sinh. Anh phải trả năm krone mới được vào. Hãy bảo với bà ta rằng Harry đã tới, đi vào một ngăn trong phòng vệ sinh nam và chốt cửa lại. Khi nghe có người và huýt sáo bài Waltzing Matilda thì có nghĩa là phương tiện của anh đã sẵn sàng. Chúc may mắn, Spiuni.”
○○○
Mưa quất xuống dữ dội đến mức nước bắn lên từ mặt đường nhựa cũng đủ tạo thành một cơn mưa khác, và nếu như người ta chịu bỏ ra chút thời gian thì họ sẽ thấy những cầu vồng nhỏ xíu quanh những ngọn đèn đường phía cuối phần đường hẹp một chiều trên phố Sofies. Tuy nhiên, Bjarne Møller không có thời gian ông ra khỏi xe, đưa áo khoác lên che đầu rồi băng qua con phố tới chỗ cửa trước tòa nhà nơi Ivarsson, Weber và một người đàn ông, hình như là gốc Pakistan, đang đứng đợi.
Møller bắt tay và người đàn ông ngăm đen giới thiệu mình tên là Ali Niazi, hàng xóm của Harry.
“Waaler sẽ tới đây ngay sau khi giải quyết xong ở Slemdal,” Møller nói. “Các anh đã tìm được gì?”
“Những thứ khá là giật gân, tôi e là vậy,” Ivarsson nói. “Điều quan trọng nhất bây giờ là nghĩ xem sẽ phải nói thế nào với báo chí rằng một trong số những cảnh sát của chúng ta lại…”
“Khoan đã,” Møller làu bàu. “Đừng có nhanh nhảu quá. Nói qua tôi nghe nào?”
Ivarsson nhếch miệng cười. “Đi với tôi.”
Trưởng Đơn vị Chống Cướp dẫn ba người đi qua một ô cửa thấp và bước xuống một cầu thang ngoan ngoèo tới tầng hầm. Møller hết cúi lại nghiêng cái thân hình cao, gầy của ông để không va vào trần hay tường hầm. Ông không thích các hầm nhà.
Giọng Ivarsson vang vọng đều đều giữa những bức tường gạch. “Như ông đã biết, Beate Lønn nhận được một số email chuyển tiếp từ Hole. Anh ta khẳng định rằng đó là những email mà kẻ đã thú nhận giết Anna Bethsen gửi cho anh ta. Một giờ trước tôi đã tới Sở Cảnh sát và đọc mấy email đó. Nói thẳng ra thì chúng chủ yếu là những chuyện vớ vẩn viết lộn xộn và khó hiểu. Nhưng chúng lại chứa những thông tin mà người viết hẳn là sẽ không thể có được nếu như không biết nội tình chuyện đã xảy ra vào cái đêm Anna Bethsen chết. Mặc dù những thông tin đó cho thấy Hole có tới căn hộ của Anna vào tối hôm ấy, nhưng có vẻ như nó cũng đồng thời cung cấp cho anh ta bằng chứng ngoại phạm.”
“Có vẻ như ư?” Møller cúi đầu chui qua một khung cửa nữa. Bên trong, ngăn hầm thậm chí còn thấp hơn nữa khiến ông phải cúi gập người xuống bước đi trong lúc cố không nghĩ rằng bên trên ông là bốn tầng vật liệu xây dựng được kết dính với nhau bằng cái thứ phên trát đất tuổi đời mấy thế kỷ. “Ý ông là sao, Ivarsson? Chẳng phải ông vừa nói rằng những email đó chứa đựng lời thú tội sao?”
“Đầu tiên, chúng tôi khám nhà Hole,” Ivarsson nói.
“Chúng tôi bật máy tính của anh ta lên, mở hòm thư ra và tìm thấy tất cả các email mà anh ta đã nhận được. Giống y như anh ta đã giải thích với Beate Lønn. Nói cách khác là một bằng chứng ngoại phạm rành rành.”
“Tôi nghe ông nói rồi,” Møller nói, cáu kỉnh ra mặt. “Ông nói nhanh vào vấn đề đi có được không?”
“Đương nhiên, vấn đề là cái người đã gửi những email đó tới máy tính của Harry.”
Møller nghe thấy mấy giọng nói khác.
“Vòng qua cái góc này,” người đàn ông tự giới thiệu là hàng xóm của Harry nói.
Họ dừng lại trước một cái kho. Hai người đàn ông ngồi xổm phía sau tấm lưới kim loại. Một người chiếu đèn pin vào phần sau một chiếc máy tính xách tay trong lúc đọc to một con số lên, còn người kia thì ghi lại. Møller nhìn thấy hai sợi dây điện chạy ra từ ổ cắm điện trên tường, một dây nối với máy tính xách tay, dây kia nối với chiếc điện thoại di động Nokia trầy trụa, rồi điện thoại lại được kết nối với máy tính.
Møller đứng thẳng lên hết mức có thể. “Và điều đó thì chứng tỏ cái gì?”
Ivarsson đặt một bàn tay lên vai anh chàng hàng xóm của Harry. “Ali bảo rằng anh ta đã vào hầm vài ngày sau khi Anna Bethsen bị giết, và đó là lần đầu tiên anh ta nhìn thấy cái máy tính xách tay này cùng với cái điện thoại di động được gắn với nó trong phòng kho của Hary. Chúng tôi đã kiểm tra cái điện thoại.”
“Và?”
“Nó của Hole. Bây giờ chúng tôi đang cố gắng tìm hiểu xem ai đã mua cái máy tính. Chúng tôi đã kiểm tra cá những thư gửi đi nữa.”
Møller nhắm mắt lại. Lưng ông đã đau ê ẩm.
“Và chúng kia.” Ivarsson lắc đầu xác minh. “Tất cả các email mà Harry đang cố gắng làm cho chúng ta tin là có một kẻ giết người bí mật nào đó đã gửi cho anh ta.”
“Ừm,” Møller nói. “Nghe có vẻ không ổn nhỉ.”
“Weber đã tìm thấy bằng chứng thật sự trong căn hộ.”
Møller nhìn Weber chờ nghe thông tin, ông này bèn giơ lên một cái túi bóng nhỏ trong suốt, vẻ mặt lầm lầm.
“Một chiếc chìa khóa ư?” Møller hỏi. “Với chữ viết tắt A.A.?”
“Tìm thấy trong ngăn kéo bàn điện thoại,” Weber nói. “Nó khớp với chìa khóa căn hộ của Anna Bethsen.”
Møller ngây người nhìn Weber. Ánh sáng gay gắt từ cái đèn trần khiến mặt họ có một màu nhợt nhạt chết chóc y như những bức tường quét vôi trắng và Møller có cảm tưởng như ông đang ở trong hầm mộ. “Tôi phải ra ngoài đây,” ông lẩm bẩm.