Nguyên tác: Nils Holgerssons Underbara Resa Genom Sverige
Số lần đọc/download: 174 / 13
Cập nhật: 2020-07-08 19:35:51 +0700
Chương 35 - Đây Miền Bắc[109]
N
gười đàn bà cho cái bánh[110]
Thứ bảy, 18 tháng sáu
Sáng hôm sau, bay được một đoạn trên tỉnh Ångermanland thì đại bàng nói rằng hôm đó chính nó thấy đói và phải đi kiếm cái gì ăn. Nó đặt Nils xuống một cây tùng đồ sộ mọc trên sống một trái núi và ra đi.
Nils ngồi thoải mái trên một chạc ba và từ đó ngắm xem đất Ångermanland.
Phong cảnh thật đẹp. Mặt trời chiếu vàng các ngọn cây. Một ngọn gió nhẹ, khẽ lay cành lá. Rừng tỏa mùi hương dịu dàng, và trước mắt Nils là một cảnh quang đãng và cao nhã.
Lòng chú tràn ngập niềm vô tư và hoan lạc. Chú nghĩ: “Chẳng một ai có thể sung sướng hơn mình”.
Mắt chú tha hồ nhìn tự do khắp mọi phía. Bên phía tây chỉ toàn là sống núi và ngọn núi, càng ra xa càng cao. Bên đông cũng còn thấy có núi, nhưng cứ thấp dần thấp dần, và chẳng mấy chốc nhường chỗ cho đồng bằng trải ra đến tận biển. Khắp nơi, nào sông nào suối, long lanh ánh sáng. Khi còn chảy giữa các vách núi thì dòng nước cuồn cuộn, thác cao thác thấp chắn ngang, nhưng đến gần biển thì lan rộng ra.
Nils cũng trông thấy cả vịnh Bothnia. Gần bờ, rải rác những đảo đủ mọi cỡ và những bán đảo, nhưng ngoài khơi thì sóng nước màu xanh rực rỡ, khác nào nền thái thanh của bầu trời mùa hạ.
“Vùng này có thể sánh với bờ của một con sông sau một cơn mưa vừa tạnh, Nils nghĩ vậy. Vô số những dòng nước bé tí đào ra ở đấy những rãnh di động, rồi họp lại với nhau. Nhìn đẹp quá chừng! Mình nhớ là ông lão Lapps ở vườn Skansen có nói là trong một giờ hung gở nước Thụy Điển đã bị đảo lộn lung tung. Người ta cười khi nghe ông lão nói rằng giá mà người ta biết vẻ đẹp của các miền ở phía Bắc, thì người ta sẽ hiểu là không thể nào đặt ra vấn đề, ngay từ đầu, là làm cho một miền như thế này mà lại không có cách gì tới được như vậy. Mình rất muốn tin rằng ông lão đã nói có lí”.
Sau khi đã ngắm thỏa thích phong cảnh chung quanh, Nils mở cái túi đi núi của mình ra lấy một miếng bánh làm bằng bột trắng ngon lành và bắt đầu ăn.
“Chưa bao giờ mình được ăn bánh ngon thế này! Mà còn đủ để khỏi phải đói trong nhiều ngày nữa. Thật ra hôm qua mình có ngờ đâu là có được của cải thế này!”
Vừa ăn, chú vừa nhớ lại cái cách kiếm được bánh.
- Chính vì được ăn bánh ở một chốn đẹp như thế này, mình càng cho là bánh ngon, chắc chắn như vậy!”
Chiều hôm qua, đại bàng chúa từ giã tỉnh Medelpad, và vừa bay sang Ångermanland, thì Nils trông thấy một thung lũng và một con sông mà vẻ uy nghi vượt xa tất cả những gì chú đã cảm phục từ trước đến lúc ấy.
Thung lũng mở ra giữa núi non, rộng đến nỗi chú tự hỏi có phải là trong đêm trường của thời quá khứ có một con sông khác rộng lớn hơn và chảy mạnh hơn nhiều, đã đào ra lòng nó giữa các vách núi? Thung lũng đào xong rồi, được bồi đầy cát và sỏi, và trong lớp tơi xốp đó, con sông hiện tại, cũng rộng và sâu, lại vạch ra cái dòng của nó. Bờ sông thật là lắm vẻ: khi thì thoai thoải nghiêng xuống mặt nước, hoa nở đẹp tuyệt vời, màu đỏ màu vàng lộng lẫy; khi thì đá rắn đến mức sóng nước không gặm nổi, không cuốn đi được, đã dựng lên những bức thành thẳng đứng, những tháp, những lũy sừng sững trên dòng sông.
Bay trên vùng này, thoạt trông Nils có cảm giác là nhìn sâu xuống ba thế giới khác nhau.
Thế giới thứ nhất ở tận đáy thung lũng, cạnh lòng sông, nước sông cuốn các bè gỗ thả trôi, đưa các tàu đi từ cầu tàu này đến cầu tàu khác. Tiếng ầm ầm vang lên từ các nhà máy thép ở các bờ. Người ta chuyển hàng xuống các tàu vận tải, người ta đánh cá hồi, người ta chèo đò, người ta đi thuyền buồm; những đám chim én bay tứ tung.
Nhưng một thế giới khác xuất hiện trên cao nguyên lan rộng đến tận các sườn núi. Ở đấy là xóm làng ấp trại, nhà thờ. Ở đấy gia súc đi ăn, và đồng cỏ xanh rờn. Ở đấy nông dân gieo hạt, đàn bà trồng những vườn rau nhỏ. Những đường bộ lớn chạy ngoằn ngoèo, và những đường xe lửa đặt ray, hết đoạn này đến đoạn khác.
Xa hơn hai thế giới ấy, trên các sườn núi phủ rừng cây, Nils Holgersson nhìn thấy thế giới thứ ba: những con gà rừng ấp trứng, những con nai xứ lạnh nấp mình trong những khu rừng rậm; ở đấy những con linh miêu[111] đang rình mồi; những con sóc nhấm nháp những trái hồ đào;[112] những cây bách tỏa mùi thơm; những con sáo cất tiếng hót.
Trông thấy thung lũng sung túc kia, Nils bỗng kêu đói. “Mình chẳng ăn chút gì từ hai hôm nay rồi, và sắp chết vì kiệt sức đây!”
Đại bàng không chịu để cho người ta nói là Tí Hon sống với nó mà lại khổ hơn với đàn ngỗng trời, nên nó bay chậm lại.
“Sao cậu không nói sớm? Cậu sẽ được ăn thỏa thích. Không cần phải nhịn đói, khi người ta có một con đại bàng làm bạn đường”.
Lát sau, đại bàng trông thấy một bác nông dân đang gieo hạt trên một cánh đồng, ngay cạnh bờ sông. Bác ta đựng hạt giống trong cái giỏ đeo ở cổ. Mỗi lần hết hạt, lại đến lấy trong một cái bao để ở bờ ruộng. Đại bàng tính là sẽ kiếm được trong bao đó nhiều thứ ăn rất ngon, và Nils sẽ được phục vụ rất tốt.
Thế là con chim sà xuống phía bờ ruộng; nhưng chưa đến đất thì tiếng huyên náo khủng khiếp bỗng nổi lên quanh nó: đó là những con quạ, con chim sẻ, chim én, tất cả đều kêu ầm lên cùng một lúc, vì tưởng rằng đại bàng đến săn mồi: “Cút đi! Cút đi! Đồ kẻ cướp! Cút đi! Đồ giết hại chim chóc!”
Tiếng kêu ầm ĩ đến nỗi người gieo hạt phải để ý, và bác ta vội chạy đến xem có việc gì. Thế là đại bàng bắt buộc phải bay đi, chẳng thể biếu người khách của mình chút gì hết.
Những con chim nhỏ đó kì cục làm sao! Bắt đại bàng phải bỏ trốn, chúng vẫn chưa vừa lòng, lại còn đuổi theo một đoạn nữa, và trong suốt cả thung lũng mọi người đều nghe tiếng kêu của chúng. Đàn bà chạy ra vỗ tay đuổi. Có thể nói là những tràng súng trường. Đàn ông thì vớ lấy súng.
Sự việc cứ diễn ra đúng như thế mỗi lần mà đại bàng cố sà xuống, và chú bé chẳng còn mong bạn đường có thể cho mình chút gì để nuôi thân. Không bao giờ chú lại ngờ rằng đại bàng mà đáng ghét đến thế, và làm cho người ta khiếp sợ đến thế. Thiếu chút nữa chú đã thương hại Gorgo.
Lát sau, họ bay qua một cái trại lớn. Hình như hôm đó người ta đang nướng bánh trong lò. Bà chủ trại vừa mang ra đặt ngoài sân một liễn đầy bánh bơ[113] để cho chóng nguội. Bà ta đứng luôn bên cạnh để ngăn chó mèo ăn vụng. Đại bàng hạ xuống cái trại, nhưng không dám đến gần bà chủ. Nó bay qua bay lại, chẳng biết nên làm gì. Một lúc nó ghé xuống, chân chạm vào ống khói lò sưởi, rồi lại bay lên. Bỗng bà chủ trại trông thấy.
Bà ta ngẩng đầu lên và nhìn theo.
“Cái con đại bàng này làm gì thế nhỉ? Hình như nó ngấp nghé bánh của mình hay sao ấy?”
Cái bà chủ trại đó thật đẹp: cao lớn, tóc vàng, khuôn mặt bóng mịn và trung thực. Bà ta liền cười rất vui, rồi lấy một cái bánh trong liễn, dang thẳng cánh tay giơ cao trên đầu, và nói to lên:
“Này, có thích thì lấy đi!”
Đại bàng không hiểu những lời ấy, nhưng nó đoán biết tức khắc dụng ý của người đàn bà. Nhanh như chớp, nó sà xuống chiếc bánh, quắp lấy, rồi vụt bay lên không. Thấy đại bàng nắm lấy chiếc bánh, chú bé ứa nước mắt. Chú không khóc vì mừng rằng thế là khỏi phải nhịn đói nhiều ngày nữa, mà bởi vì bà chủ trại đã nhịn cái bánh, để dành cho con chim ăn thịt hoang dã.
Ngồi trên cây tùng cao, chú nhớ lại hình ảnh người đàn bà đẹp như lúc đang đứng thẳng giữa sân cái trại, cánh tay dang lên đưa cao cái bánh.
Bà ta biết rõ con chim to tướng kia là một con đại bàng chúa, một tên côn đồ, mà người ta thường đón tiếp bằng những phát súng, và có thể là bà ta cũng trông thấy cả con người bé nhỏ kì quái mà nó cõng trên lưng. Nhưng, không nghĩ đến việc hai kẻ kia là cái gì, bà ta đã chia bánh với chúng, ngay cái lúc biết rằng chúng đang đói. “Nếu một ngày nào đó mình được trở lại làm người, mình sẽ đi tìm người đàn bà đẹp đó, bên bờ con sông lớn, để cảm ơn bà ta đã có lòng tốt với chúng mình”.
Cháy rừng Nils ăn chưa xong bữa thì ngửi thấy một mùi thoang thoảng từ phía bắc lại. Chú liền quay sang phía ấy và thấy một cột khói mảnh, trắng như một đám mây, đang bốc lên phía trên một trái núi hình yên ngựa. Ngọn khói đó ở giữa những rừng thâm u, thật là một việc lạ. Có thể là ở chỗ đó có một chiếc nhà gỗ miền núi, và những cô gái chăn bò đang đun cà phê buổi sáng.
Trong lúc đó khói tăng thêm và lan ra thật lạ lùng. Không thể cho là nó tỏa ra từ một ngọn lửa nhỏ của một chiếc nhà gỗ được. Vậy thì ở đó có những người đốt than chăng? Nils đã trông thấy ở Skansen, khu bảo tàng ngoài trời ở Stockholm, một cái túp lều và một lò than, và nghe nói là ở miền này có nhiều thứ như thế. Nhưng có lẽ là những người đốt than chỉ làm việc vào mùa thu và mùa đông thôi chứ?
Khói mỗi lúc một tăng thêm. Khói tỏa trên tất cả triền núi. Không thể nào mà khói như thế lại có thể tỏa ra từ một lò than được. Phải từ một đám cháy nào; vì một đám chim đông như đám mây đang bay về phía sống núi gần đấy. Có những chim cắt, những gà rừng, và nhiều chim nhỏ khác, nhỏ đến nỗi từ xa Nils chẳng thể nhận ra loài gì.
Cột khói trắng mỏng mảnh đã biến thành một đám mây dày trắng đục, từ sống núi lan ra khắp cả thung lũng. Tia lửa và những đám muội khói tóe ra, và thỉnh thoảng một ngọn lửa đỏ lóe ra giữa những làn khói cuồn cuộn. Cái đám cháy đang hoành hành điên cuồng đằng kia là một đám cháy dữ dội. Nhưng mà cái gì cháy vậy? Không thể là một cái trại to, náu ở giữa rừng được. Vả lại chỉ một cái trại đơn độc không thể làm phát ra một đám cháy như thế. Giờ thì khói không chỉ từ núi đến nữa. Khói bốc từ thung lũng ở phía sau sống núi thứ hai lên. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính rừng đang cháy vậy. Nils không tài nào tưởng tượng ra là tất cả vùng rừng xanh tươi này lại cháy được, nhưng sự thật đã rành rành; mà lửa đã thiêu rừng rồi không lan đến tận chỗ chú hay sao? Việc đó không chắc, tuy vậy Nils vẫn thấy mong đại bàng trở về quá. Nên ở xa cái tai họa này là hơn.
Chỉ cái mùi khói đã làm cho chú tức thở rồi.
Và đây bỗng nhiên chú nghe thấy tiếng lốp bốp và những tiếng răng rắc khủng khiếp, từ phía cái núi yên ngựa gần nhất truyền đến. Chót vót trên đỉnh là một cây tùng đại thụ, về mọi mặt giống hệt cái cây mà Nils đang ngồi đây. Cái cây cao quá vượt lên trên tất cả mọi cây khác.
Một lát trước đấy, Nils thấy nó hồng lên tuyệt đẹp dưới ánh trời mai, và giờ thì cành lá đều rực lên tất cả cùng một lúc: cây tùng đã bén lửa. Chưa bao giờ nó đẹp như thế, nhưng đây đúng là lần cuối cùng mà nó được phô ra cái vẻ huy hoàng.
Cây tùng đại thụ là cây đầu tiên ở trên sống núi bị lửa lan đến, và không thể nào mà hiểu được đám cháy đã lan đến tận nó như thế nào. Đám cháy đã lao tới nó với những đôi cánh rực đỏ hay là đã bò đến nó như một con rắn? Cũng khó mà nói được, nhưng dù sao thì lửa đang thiêu cái cây, và cây cháy như một đống rơm. Lại còn khói nữa, phụt lên từ nhiều chỗ trên núi. Đám cháy vừa là chim vừa là rắn: nó đến trên không và đồng thời nó bò dưới đất. Chim chóc bay trốn hoảng loạn: chúng vọt lên trên các làn khói cuồn cuộn, trông như những túm mồ hóng to. Chúng bay qua thung lũng và đến trên sống núi, nơi mà chú bé đang vắt vẻo trên cái cây cao. Một con cú to đến đậu cạnh chú, và trên cành cao hơn sà xuống một con cắt. Mọi ngày nào khác thì các láng giềng đó đã rất nguy hiểm đối với Nils, nhưng hôm nay thì chúng chẳng thèm nhìn đến chú bé nữa và chỉ phóng mắt ra phía này, phía kia, chẳng hiểu cái gì đang xảy ra cho khu rừng.
Một con chồn hôi cũng đến đứng ở đầu mút một cành cây, đôi mắt long lanh nhìn triền núi rực lửa. Ngay cạnh con chồn là một con sóc, nhưng hình như chúng không biết rằng chúng đang cùng nhau có mặt ở đấy nữa.
Giờ thì lửa lao dọc theo sườn núi, đổ xuống thung lũng. Lửa rít và gầm chẳng kém gì một cơn bão dữ. Qua làn khói, thấy các ngọn lửa lan từ cây này tới cây khác. Trước khi bắt lửa, cây tùng nào cũng bị phủ một làn khói trắng mỏng, rồi bỗng đỏ rực lên, và tất cả cành nhánh vừa kêu lên răng rắc vừa cháy một lúc.
Trong thung lũng, ở phía dưới Nils, một con suối nhỏ chảy giữa những cây trăn và bạch dương lùn.[114] Hình như lửa phải dừng lại đấy. Những loài cây lá rộng không bắt lửa nhanh như những cây lá kim. Đám cháy rừng như đứng trước một bức thành không vượt qua được. Nó phóng những tia lửa và nổ điên cuồng cố lan tới những cây tùng ở sườn núi bên kia, nhưng không ăn thua.
Đám cháy dừng lại một lúc, bỗng một ngọn lửa dài lao tới trước, về phía cây tùng khô héo ở chỗ khá thấp bên sườn kia, và tức thì cái cây cháy rực như bó đuốc. Bằng cách ấy lửa vượt qua con suối. Cái nóng gay gắt quá, nên tất cả mọi cây đều sẵn sàng bốc lửa. Và đám cháy leo lên sườn núi. Tưởng như là tiếng hú của bão, hay hơn nữa tiếng ầm ầm của một cái thác đổ. Thế là con cắt dang cánh ra bay, con cú to và con chồn hôi tụt xuống gốc cây. Chốc nữa thôi, ngọn cây tùng sẽ bốc lửa. Cả Nils cũng sẵn sàng bỏ chạy.
Thân cây thẳng và cao, tụt xuống thật chẳng dễ chút nào, chú bèn cố hết sức bám, và để mình tụt xuống giữa các chỗ lồi ra của các cành cây, mãi rất lâu và sau cùng cũng rơi bịch xuống đất. Nhưng chẳng có thì giờ đâu để tự hỏi mình có bị thương không, phải ba chân bốn cẳng chạy tháo thân đã.
Lửa cháy như điên trong rừng thông. Dưới chân Nils, mặt đất bị hun nóng, đã tỏa khói lên. Một bên mình, chú thấy một con linh miêu cũng chạy và bên kia thì một con rắn độc dài và ngay cạnh nó có một con gà mái rừng kêu tục tục cũng cố chạy nhanh cùng với đàn gà con lông tơ mịn màng.
Chạy ra khỏi khu vực lửa cháy, đến được đáy thung lũng thì cả bọn gặp những người đến cố dập tắt đám cháy. Họ đã đến đấy từ lâu rồi, nhưng Nils mải nhìn về phía lửa lan đến, nên không trông thấy họ.
Trong hẻm núi còn có một con suối và một hàng rào cây lá rộng. Đằng sau hàng rào cây đó, người ta đang làm việc, họ đẵn những cây tùng bách mọc gần các cây trăn nhất. Họ múc nước suối lên tưới xuống đất, họ chặn hết các chòm thạch thảo và mê diệt[115] rậm rạp để ngăn lửa lan đến các bụi cây nhỏ. Chính họ cũng chỉ nghĩ đến đám cháy. Các thú vật chạy trốn luồn qua chân họ, mà họ cũng chẳng trông thấy nữa. Họ chẳng hề nện cho con rắn độc một gậy nào. Họ chẳng tìm cách bắt con gà rừng đang lang thang quanh suối cùng đàn con chiêm chiếp luôn mồm: họ không quan tâm đến cả chú Tí Hon. Họ nhúng những cành tùng to xuống suối và khoa lên, nghĩ rằng như thế là chống lại đám cháy.
Những người đó không đông. Thật là một cảnh tượng lạ lùng, vì họ đều sẵn sàng chiến đấu, trong khi mọi sinh linh khác thì chạy trốn cả.
Lửa cháy đến phía chân sườn núi thì nổ lốp bốp, gầm réo, tỏa ra một sức nóng không thể chịu được và một đám khói ngột ngạt. Lửa hình như sắp sửa lan qua suối và bức tường cây lá, để sang bờ bên kia, không thèm ngừng lại một giây. Thoạt tiên những người chữa cháy lùi lại, như thể không chịu nổi nữa, nhưng họ không lùi lâu và liền quay trở lại.
Đám cháy tấn công vào họ dữ dội, khủng khiếp. Tia lửa rơi lả tả như mưa xuống các tán cây lá rộng. Những ngọn lửa dài phụt ra khỏi đám khói, rít lên như thể khu rừng ở sườn núi bên kia hút sang vậy.
Nhưng mà tán lá chặn lửa lại, và người ta làm việc phía sau hàng cây. Nơi nào mà mặt đất bốc khói là người ta múc nước tưới xuống. Khói mà bao vây một gốc cây là những tay rìu nhanh nhẹn đẵn đổ xuống và dập tắt lửa ngay. Các ngọn lửa mà bò lan ra trong truông thạch thảo, thì họ lấy những cành cây nhúng nước đập và làm tắt tức khắc.
Khói dày đến mức che khuất hết các mạn chung quanh. Chẳng làm sao nhìn thấy cuộc chiến đấu diễn ra như thế nào, nhưng cũng dễ hiểu là cuộc chiến đấu đó gian khổ, và rất nhiều lần, lửa hình như sắp lấn tới. Dần dần, tiếng ầm ĩ của đám cháy yếu đi, và khói bớt dày đi. Cây rừng đã mất hết tất cả lá, mặt đất dưới các gốc cây thì bị lửa nung đen. Người nào cũng đen sì những khói và mồ hóng, và đổ mồ hôi như tắm, nhưng họ đã thắng đám cháy. Những ngọn lửa không phụt ra nữa. Khói thì trắng và nhẹ, kéo lê ra trên các cánh đồng. Rất nhiều những thân cây cháy đen nhô lên trên làn khói. Đó là tất cả những gì còn lại của cái phần tốt đẹp trong vùng rừng này?
Đứng cao, trên một tảng đá, Nils đã chứng kiến việc dập tắt đám cháy. Nhưng mà giờ đây rừng đã được cứu thoát thì nỗi nguy hiểm lại bắt đầu đến với chú. Con cú to và con chim cắt bỗng quay nhìn lại phía chú. Nhưng đúng lúc đó, chú nghe một tiếng quen thuộc, Gorgo, đại bàng chúa, vỗ rộng cánh bay nhanh về phía chú, và lát sau Nils đã đung đưa giữa các tầng mây, được giải thoát khỏi mọi nỗi nguy hiểm.
Đất nước đang đi
Thứ bảy, 18 tháng sáu
Cuộc lữ hành trên lưng đại bàng nhanh đến nỗi nhiều khi người ta có cảm giác là vẫn đứng yên, nhất là từ buổi sáng khi gió bắc đã đổi hướng. Mặt đất thì trái lại, hình như cứ lùi về phía nam. Nào rừng, nào nhà, nào bãi cỏ, nào hàng rào, nào hải đảo, nào những nhà máy cưa rất nhiều trên bờ biển, tất cả đều đang đi. Có thể nói là đã chán ở quá xa trên phía bắc, tất cả đều đang thu dọn đi xuống phía nam.
Ý nghĩ đó làm Nils rất thích. Này nghĩ xem, giá cái đồng lúa mì hình như vừa mới gieo kia mà xuống đến tỉnh Skåne vào cữ này, khi lúa mạch ở đấy đang trổ đòng! Và cái vườn mà chú đang trông thấy lúc này đây!
Có nhiều cây tốt tươi nhưng chẳng có cây ăn quả nào, chẳng hề có cây bồ đề trang nhã nào, cây hạt dẻ nào; chỉ có những cây thanh lương trà[116] và những cây bạch dương! Có ở đấy những bụi cây đẹp, nhưng chẳng hề có cây hương mộc, cũng như cây kim tước nào, chỉ những cây anh đào hoang, những cây đinh hương.[117] Ở đấy có một vườn rau, nhưng chưa cuốc, chưa trồng gì hết. Giá một chéo vườn như thế mà đến đứng cạnh một trang viên rộng lớn của tỉnh Sưrmland thì nó sẽ cảm thấy mình khác nào một cái sa mạc.
Niềm vinh quang của xứ này là những con sông hùng tráng, âm u, giữa những thung lũng trù mật, đầy những bè gỗ, cùng với những nhà máy cưa, những thành phố, những cửa sông chật ních tàu thuyền. Giá một trong những con sông ấy mà hiện ra ở phía nam sông Daläl[118] thì các sông lớn và sông nhỏ ở đây sẽ chui hết xuống đất vì xấu hổ.
Và hãy nghĩ xem, giá một đồng bằng tương tự, mênh mông như thế này, dễ trông trọt như thế này và có vị trí thuận lợi như thế này, mà đi qua trước mắt những nông dân tỉnh Småland, thì họ sẽ vội vàng bỏ ngay những miếng đất bần bạc và những cánh đồng đá sỏi của họ để cày xới nó tức thời!
Một cái mà miền này rất phong phú là ánh sáng. Trong những bãi lầy, chim hạc đang ngủ đứng. Đêm đã phải đến rồi, mà ánh sáng vẫn còn.
Riêng cái mặt trời là không đi xuống phía nam. Trái lại, nó càng lên rất cao trên phía bắc và giờ đây những tia sáng của nó đập vào mắt Nils. Nó chưa hề tỏ ý muốn đi ngủ. Nghĩ xem, giá cái ánh sáng kia, cái mặt trời kia mà soi sáng cho Vemmenhưg, thì tốt cho Holger Nilsson và vợ[119] biết bao: một ngày sẽ làm lụng được những hai mươi bốn giờ cơ đấy.[120]
Giấc mơ
Chúa nhật, 19 tháng sáu
Nils ngẩng đầu lên và nhìn ra chung quanh, chưa tỉnh ngủ hẳn. Chú đang nằm ở một nơi mà chẳng nhận ra là đâu. Chưa bao giờ chú thấy thung lũng này, cũng như núi non bao bọc tứ phía này. Chú chưa hề thấy cái hồ tròn nằm chính giữa thung lũng, chưa bao giờ thấy những cây bạch dương khốn khổ, cằn cỗi bằng những cây mà chú đang nằm dưới bóng đây.
Và đại bàng đâu rồi? Chú tuyệt chẳng thấy đâu cả.
Phiêu lưu quá sức.
Nils lại nằm xuống và nhắm mắt, rồi cố nhớ lại những gì đã xảy ra lúc mà chú ngủ thiếp đi.
Chú nhớ là Gorgo đã đổi hướng bay, và gió thổi chênh chếch rất mạnh. Chú hiểu là đại bàng mang chú đi, theo một nước bay hùng dũng.
“Bây giờ ta vào xứ Lapland!” Gorgo bỗng nói thế, và Nils cảm thấy rất thất vọng khi chỉ thấy có những bãi lầy vô biên và những khu rừng liên tục. Rồi vẻ đơn điệu của phong cảnh làm cho chú thiếp đi. Thế là chú bảo Gorgo rằng chú không chịu nổi nữa, rằng chú buồn ngủ lắm. Gorgo đã hạ xuống đất, và Nils lao xuống lớp rêu, nhưng đại bàng quắp chú vào các móng chân và lại bay lên. Nó nói:
“Ngủ đi, Tí Hon ạ! Mặt trời làm cho mình không ngủ được và mình muốn đi tiếp”.
Và dù ở tư thế khó chịu ấy, chú vẫn ngủ được, và đã nằm mê.
Chú đang đi trên một con đường rộng ở miền nam nước Thụy Điển, đi nhanh hết sức mà đôi chân bé nhỏ có thể đưa chú đi. Chú không đi một mình: cạnh chú cùng đi những cọng lúa mạch nặng đòng đòng, những hoa màu xanh và những hoa cúc vàng; những cây táo tây cũng đi, càng trĩu những quả đẹp; đi theo có những cây đậu leo, đầy những quả và những lùm cây phúc bồn thực sự. Những cây thật đẹp: sồi, dẻ gai,[121] bồ đề đi chầm chậm, đi chính giữa đường chẳng tránh một ai cả, và rung cho cành lá xạc xào vẻ đắc chí.
Giữa hai chân Nils có những cây hoa và cây thuốc cùng chạy: dâu tây, bạch đầu ông, cỏ chẽ ba, cỏ tương tư. Nhìn kỹ Nils nhận thấy những người và vật cũng có mặt trong đoàn đi. Những côn trùng bay lượn giữa các loài cây, cá lội dưới những con hào dọc đường, chim hót trên những cây đang đi, những gia súc và dã thú thi nhau rảo bước, và giữa đám thú vật và cây cỏ lúc nhúc có những người đi, người mang xẻng và liềm phát cỏ, kẻ mang rìu, kẻ mang súng săn; và những người khác nữa mang lưới đánh cá.
Cả đoàn tiến lên nhanh nhẹn, và Nils chẳng ngạc nhiên chút nào từ khi trông thấy ai đang dẫn đầu. Chẳng ai khác chính thị mặt trời, không hơn, không kém. Mặt trời lăn trên đường như một cái đầu to lớn tỏa ra niềm vui và lòng nhân hậu, đầu tóc do những tia sáng muôn màu họp thành. Mặt trời chốc chốc lại hô: “Tiến lên! Ta mà có đây thì không một ai phải lo ngại gì cả. Tiến lên! Tiến lên!”
Nils thì thầm: “Không biết mặt trời muốn đưa chúng ta đi đâu”. Một cọng lúa mạch đi bên cạnh chú nghe tiếng và trả lời:
“Mặt trời muốn đưa chúng ta lên Lapland để đánh nhau với đại vương rét cóng”.
Đi một lúc, Nils thấy rằng nhiều kẻ cùng đi trở nên do dự, như chậm bước lại, sau cùng thì dừng hẳn. Như vậy, chú thấy tụt lại sau cây dẻ gai hùng vĩ; con mang và cây tiểu mạch[122] cùng dừng lại, và những bụi dâu rừng, những cây hạt dẻ và những chim đa đa cũng vậy.
Ngạc nhiên, Nils nhìn quanh. Thế là chú thấy rằng người ta không còn ở miền nam Thụy Điển nữa. Cuộc đi đã nhanh đến nỗi người ta đã ở Svealand[123] rồi.
Lúc ấy cây sồi bắt đầu có vẻ lo lắng. Nó dừng lại, đi vài bước, rồi lại dừng hẳn.
- Tại sao cây sồi không đi với chúng ta xa hơn? Nils hỏi.
- Sồi sợ đại vương tê cóng, một cây bạch dương non và tươi đang đi tới, quả quyết và vui vẻ, trả lời như thế.
Dù người ta đã bỏ lại đằng sau bao nhiêu kẻ rồi, cuộc đi vẫn không vì thế mà không tiếp tục rất dũng cảm. Mặt trời vẫn cứ lăn ở hàng đầu, và nhắc đi nhắc lại với một nụ cười nở rộng:
“Tiến lên! Tiến lên! Ta mà có đây thì chẳng một ai phải lo ngại gì cả”.
Chẳng mấy chốc mà người ta đã đến xứ Norrland[124] và mặt trời có kêu gọi và cười tươi đi nữa thì cũng vô hiệu: cây táo dừng lại, cây sơri dừng lại, cây kiều mạch[125] dừng lại. Chú bé quay lại hỏi:
- Tại sao các anh không đi? Tại sao các anh bỏ rơi mặt trời?
- Chúng tôi không dám. Chúng tôi sợ đại vương tê cóng ở trên kia, trên Lapland, họ trả lời như vậy. Ngay sau đó hình như Nils, nhận ra là người ta đã đi vào xứ Lapland[126] rồi. Hàng ngũ đã thưa đi một cách lạ lùng. Lõa mạch, đại mạch[127] cây dâu, các loại quất, các loại đậu Hòa Lan, cây phúc bồn vẫn còn trung thành cho đến đây thôi. Con nai xứ lạnh và con bò cái đi cạnh nhau, bây giờ dừng lại cả hai. Người thì còn đi theo một đoạn đường nữa, rồi số đông dừng lại. Không có những bạn đường khác nhập đoàn thì mặt trời đã gần như bị bỏ rơi rồi: những bụi miên liễu và vô số những cây nhỏ miền núi, rồi những người Lapps và những con hươu phương Bắc,[128] những chim cú trắng, những con gà tuyết núi cao và những con cáo xanh.
Bỗng chú bé nghe cái gì ầm ầm đang chạy phía trước. Đó là những sông và suối đang thoát đi thành những thác lũ. Chú hỏi:
- Có gì mà họ chạy trốn hoảng hốt lên vậy?
- Họ chạy trốn đại pháp sư tê cóng trấn ngự trên các cao nguyên băng tích đấy, một con gà tuyết cho biết như thế.
Đột nhiên Nils thấy sừng sững trước mặt một bức vách cao, âm u, phía trên như có những ụ súng. Trước thành lũy ấy, tất cả lùi lại hoảng hốt. Nhưng mặt trời liền quay khuôn mặt rực rỡ vào bức thành. Thì ra không phải một thành lũy đang chặn đường họ chút nào, mà là một khối núi tuyệt đẹp, các đỉnh nhọn mọc lên, cái trước cái sau, đỏ rực dưới ánh mặt trời, còn các sườn dốc thì màu xanh phơn phớt lẫn những ánh vàng. Mặt trời lăn lên phía chóp núi, cổ vũ:
“Tiến lên! Tiến lên! Ta mà có đây thì chẳng có gì nguy hiểm”.
Nhưng trên đường leo lên, mặt trời bị cây bạch dương non trẻ và táo bạo, cây tùng tráng kiện và cây bách[129] bướng bỉnh bỏ không theo nữa. Rồi đến lượt con hươu phương Bắc, người Lapps và cây miên liễu cũng bỏ nốt. Sau cùng, khi đến tận đỉnh núi thì chỉ còn có một mình chú bé Nils Holgersson là đã đi theo mặt trời đến đây. Mặt trời lăn xuống một khe vực mà vách đá phủ đầy sương đặc.[130] Nils rất muốn đi theo nữa, nhưng một cảnh tượng khủng khiếp làm cho chú đứng sững tại chỗ. Dưới đáy khe có một quỷ lùn già[131] đang ngồi. Thân hình là băng, tóc là những miếng nước đá, áo khoác là tuyết. Dưới chân quỷ, ba con chó sói đen đang nằm, chúng liền đứng dậy mở to mõm khi mặt trời hiện ra. Từ mõm một con thoát ra một luồng khí lạnh thấm thía; từ mõm con thứ hai một ngọn gió bắc như cắn vào người ta; và từ mõm con thứ ba nôn ra những bóng đêm hắc ám.
“Kia chắc là đại vương tê cóng và đám tùy tùøng”. Nils nghĩ vậy. Tò mò muốn xem cuộc gặp nhau giữa quỷ lùn với mặt trời sẽ diễn ra như thế nào, Nils đứng lại ở cửa hang.
Quỷ lùn chẳng hề cựa quậy. Cái mặt băng hung gở nhìn thẳng vào mặt trời. Chỉ mỉm cười và chiếu sáng, mặt trời cũng bất động. Cứ thế một lúc khá lâu. Rồi Nils tưởng như trông thấy quỷ lùn bắt đầu cựa quậy và thở dài, bỏ tuột chiếc áo khoác bằng tuyết xuống và ba con chó sói ghê gớm cũng tru tréo bớt dữ dội đi một chút. Nhưng bỗng nhiên mặt trời kêu lên: “Thời gian của ta qua hết rồi”, và lăn về phía sau, ra khỏi hang. Quỷ lùn liền thả chó sói ra; gió rét, khí lạnh và bóng tối lao ra đuổi theo mặt trời. Quỷ lùn hét lên:
“Đuổi nó đi! Đẩy nó ra! Đuổi theo nó để cho nó không bao giờ trở lại đây nữa! Bảo cho nó biết rằng xứ Lapland là của ta!”
Nghĩ đến việc mặt trời bị đuổi ra khỏi xứ Lapland, Nils Holgersson kinh hãi đến nỗi hét lên và tỉnh dậy.[132]
Khi đã hoàn hồn chú thấy là mình đang nằm ở đáy một thung lũng giữa bốn bề núi cao. Nhưng mà Gorgo đâu rồi?
Chú lại nhổm dậy và nhìn ra chung quanh. Mắt chú bỗng gặp phải một công trình lạ lùng dựng bằng cành cây tùng ở trên một bậc núi đá.
“Chắc chắn là một tổ chim ăn thịt, như những cái mà Gorgo đã tả cho mình nghe”.
Chú không nghĩ tiếp cho hết ý nữa. Chú giật cái mũ trên đầu ra và vui mừng vẫy vẫy trong không. Chú vừa hiểu ra là Gorgo đã mang chú đến đâu rồi: đây chính là cái vùng mà đám đại bàng ở trên núi cao, và các ngỗng trời ở dưới đáy thung lũng. Chú đã đến đích! Chỉ lát nữa là chú sẽ gặp lại con ngỗng đực trắng, và Akka, và tất cả các bạn đồng hành của mình.
Đến nơi Nils nhẹ nhàng đi tìm các bạn. Toàn thể thung lũng đang ngủ. Mặt trời chưa hiện ra, và Nils hiểu là còn sớm lắm, chưa đến giờ đàn ngỗng thức dậy. Mới đi vài bước, chú tìm thấy một vật rất xinh: một con ngỗng trời ngủ trong một chiếc tổ đặt dưới đất, cạnh nó là một con ngỗng đực. Nó cũng ngủ, nhưng đã nằm ở chỗ mà nếu có một sự nguy hiểm nào xảy đến là nó có mặt ngay.
Nils không làm kinh động, và tiếp tục tìm trong các bụi miên liễu nhỏ phủ khắp mặt đất. Lát sau thấy một đôi nữa. Cũng không thuộc về đàn mình, nhưng Nils vẫn không kém vui lòng khi trông thấy chúng. Đó là những ngỗng trời. Chú bắt đầu hát khe khẽ vì thích chí.
Chú nhìn ra nơi khác, và dưới một bụi miên liễu khác, chú nhận ra Neljä đang ấp trứng; ngỗng đực bên cạnh chỉ có thể là Kolmi thôi. Chẳng thể nào lầm được. Nils muốn đánh thức họ dậy quá, nhưng lại thôi.
Ở một chỗ khác chú thấy Viisi và Kuusi, và không xa đó là Yksi và Kaksi. Cả bốn đang ngủ.
Nhưng có cái gì đằng kia mà trắng thế? Nils thấy trống ngực đánh vì mừng, chú chạy đến. Giữa bụi miên liễu lùn, Lông Tơ Mịn nhỏ nhắn, xinh xắn, đang ấp trứng và bên cạnh là ngỗng đực trắng. Dù đang ngủ, và ngay trong giấc ngủ, hình như ngỗng đực vẫn tự hào được canh giữ vợ mình giữa các cao nguyên băng tích xứ Lapland.
Nils cưỡng lại được ý muốn đánh thức dậy, dù chỉ con ngỗng đực thôi, và tiếp tục đi.
Chú phải tìm khá lâu mới thấy các ngỗng khác. Nhưng bỗng, chú để ý thấy trên một cái đống thấp một vật gì như thể một nấm đất nhỏ màu xám. Khi đến chân cái đống, chú nhận ra Akka núi Kebnekaise, đã dậy rồi, nhưng đang ngắm cái thung lũng, như là được giao cho công việc trông nom tất cả vùng này. Nils nói to:
“Chào mẹ Akka! Thấy mẹ đã dậy rồi, mừng quá đi thôi. Đừng đánh thức họ dậy. Có thể nói chuyện như thế này với mình mẹ một lát đã”.
Ngỗng già đầu đàn chạy lại với Nils. Thoạt tiên ngỗng túm lấy chú và lắc, rồi lấy mỏ vuốt ve chú từ đầu xuống chân, rồi lại lắc chú lần nữa. Nhưng ngỗng chẳng nói gì hết, vì Nils đã bảo để cho những kẻ khác ngủ yên.
Tí Hon hôn mẹ già Akka hai bên má. Rồi bắt đầu kể cho mẹ nghe những nỗi phiêu lưu của mình ở vườn Skansen.
“Mẹ có biết tôi gặp ai bị nhốt ở đấy không? Smirre, con cáo sứt tai ấy. Dù nó đã rất xấu đối với chúng ta, tôi cũng không thể không thương hại nó được. Nó chết dần chết mòn vì không được tự do. Ở đấy, tôi có nhiều bạn bè và một hôm tôi được con chó Lapps cho biết là có người đến Skansen hỏi mua cáo. Anh ta ở một hòn đảo xa trong quần đảo Stockholm. Trên đảo, người ta đã tiêu diệt hết cả cáo, và thế là chuột đồng sinh sôi nẩy nở đến mức làm cho người ta lại tiếc bọn cáo. Biết được tin đó, tôi liền chạy đến chỗ Smirre và bảo nó:
- Smirre này, ngày mai sẽ có những người đến mua một đôi cáo. Bấy giờ cậu đừng có lánh đi, mà cứ để cho người ta bắt. Như thế cậu sẽ lại được tự do.
Nó đã nghe lời tôi khuyên, và lúc này nó phải được tự do lại, và tha hồ mà chạy ở ngoài đảo. Mẹ cho việc này thế nào, mẹ Akka? Tôi làm thế có phải không?
- Chính ta, ta cũng muốn làm thế, ngỗng tán thành ngay.
- Tôi vui lòng vì mẹ tán thành, Nils nói tiếp. Còn một việc nữa tôi muốn hỏi mẹ. Một hôm tôi thấy người ta đem đến Skansen, con đại bàng Gorgo. Nom nó thiểu não lắm, và tôi đã nghĩ đến việc giũa cho đứt vài sợi dây thép ở lồng nhốt nó, để cho nó chui ra. Rồi tôi lại nghĩ rằng nó là một tên côn đồ nguy hiểm, một tên ăn thịt các loài chim. Tôi không biết là tôi có quyền thả nó ra không, và tôi lại nghĩ có thể tốt hơn là cứ để yên nó đấy. Mẹ Akka, mẹ nghĩ thế nào? Tôi suy tính như vậy không sai chứ, phải không mẹ?
- Cậu sai rồi, Akka trả lời không do dự. Dù người ta nói gì về bọn đại bàng đi nữa, chúng nó vẫn là những con chim tự hào và yêu tự do hơn tất cả các loài vật khác, và người ta không nên giam cầm chúng nó. Cậu có biết ta định đề nghị cậu cái gì không? Cậu nghỉ ngơi xong thì hai chúng ta đi ngay đến tận cái nhà tù to lớn nhốt các loài chim đó để cậu giải thoát cho Gorgo.
- Tôi cứ chờ mẹ nói câu đó, mẹ Akka ạ, chú bé nói. Người ta nói mẹ chẳng còn chút lòng thương nào đối với cái kẻ mà mẹ đã nuôi nấng với bao nhiêu công khó, vì nó sống như cách các con đại bàng bắt buộc phải sống. Giờ tôi thấy rõ là người ta đã lầm. Thôi tôi đi xem ngỗng đực trắng đã dậy chưa; còn trong lúc ấy mà mẹ có muốn cám ơn một tiếng cái kẻ đã đem tôi về với đàn, thì mẹ đi tìm gặp kẻ đó trên kia kìa, ở cái bậc đá mà có lần mẹ đã tìm thấy một chú đại bàng con vô thừa nhận ấy.