Số lần đọc/download: 1196 / 20
Cập nhật: 2016-04-22 16:42:05 +0700
Chương 33
D
inh thự Luân Đôn của công tước Montague.
Ngày 14 tháng 09 năm 1784.
“Đức ngài”, nữ công tước Montague nói, trao một nụ cười vừa phải cho người đàn ông mà, trong hai ngày nữa, sẽ thành con rể của bà. “Tôi cho là ngài sẽ muốn gặp Eleanor. Con bé đang ở phòng khách và tôi sẽ để ngài tự mình tới đó.” Các vị khách của nữ công tước, bà Festle và phu nhân Quinkhardt, mỉm cười với công tước rồi thở dài trước ánh mắt của anh.
Anh gần như đã ra khỏi cửa thì nữ công tước gọi với sau lưng anh. “Con gái tôi bảo rằng ngài định mang thêm cho nó một món quà đính hôn nữa.” Công tước Villiers cúi mình nói với vẻ nghiêm trang. “Tôi đã hứa như vậy. Và tôi đang mang nó trên người sáng nay đây, thưa lệnh bà.” Nữ công tước phải được lượng thứ nếu nụ cười của bà có hơi hả hê.
Vì, như bà đã giải thích với những người bạn thân thiết của mình, công tước Villiers đang tán tỉnh con gái của bà với một phong thái không chê vào đâu được. “Ngài ấy không bao giờ tham gia vào một hành động khiếm nhã nào dù là nhỏ nhất”, bà bảo họ. “Người ta nói chẳng có gì đứng đắn hơn một tay phóng đãng đã cải tà quy chính, dù trước đây tôi không tin điều đó, giờ thì tôi tin! Ngài ấy thậm chí còn chẳng khiêu vũ với con gái tôi nhiều hơn hai hoặc nhiều nhất là ba lần.” Bà hạ giọng.
“Người ta có thể cảm giác được nếu một cặp đôi có những hành vi thiếu đứng đắn và tôi có thể cam đoan với các bà… chúng chẳng bao giờ như thế!” Theo lẽ tự nhiên, toàn bộ Luân Đôn đang thảo luận về chiếc nhẫn đính hôn và lồng ngực của nữ công tước nở ra vì tự hào khi bà xác nhận với và Festle rằng Eleanor – cô con gái yêu dấu của bà – thật sự đang đeo một cái nhẫn kim cương từng được nữ hoàng Elizabeth đeo.
“Tôi hết sức tò mò về món quà đính hôn”, bà bảo họ. “Tôi sẽ cho bọn trẻ mười phút… thế là quá đủ. Có lẽ có một cái vương miện để đi cùng với cái nhẫn!” Eleanor ngẩng lên, rời mắt khỏi bức thư mà cô đang viết cho Lisette, bày tỏ sự thương xót vì trại trẻ mồ côi bị chuyển tới Hampshire, thì Villiers đi vào phòng và đóng cửa lại sau lưng.
Từ sau khi họ đính hôn, anh đã chọn một phong cách nửa giống Leopold nửa giống Ormston. “Anh không cần làm thế đâu”, cô đã nói vậy, cười lớn, khi anh mới xuất hiện mà không có bộ tóc giả nhưng vẫn mặc một cái áo nhung không có đến một đường thêu và chắc chắn là không có cái khuy vàng nào cả.
“Anh không thay đổi vì em đâu”, anh nói, điềm tĩnh như thường. “Cho lũ trẻ đấy. Chúng bất kính khủng khiếp khi anh xuất hiện trong bộ triều phục đầy đủ, khiến anh phải chọn một con đường ít sự chống đối hơn.” Giờ anh đang đi tới với một nụ cười tủm tỉm bí ẩn.
“Leopold”, cô nhảy tót vào vòng tay anh và rồi, bởi vì anh đã cư xử cực kỳ tốt, kéo đầu anh xuống và đòi một nụ hôn. Một trong những nụ hôn của anh. Một trong những nụ hôn làm cả hai người họ lao vào một cơn lốc xoáy đầy hơi nóng, khoái lạc và khao khát. “Anh mang cho em một món quà đính hôn đây”, anh nói, thở nặng nề và bắt đầu cởi cái áo khoác cực kỳ đứng đắn của mình ra.
“Anh không phải! Em…”, giọng cô ngừng lại. Vì Leopold đã cởi áo ra và ở đó… ở đó… Eleanor vươn tay ra. “Đẹp làm sao!” Với một nụ cười mà cô chưa từng nhìn thấy trên mặt anh – chứ đừng nói là trong mắt anh – trước sự đính hôn của họ, anh lôi một con cún đang ngủ nhỏ xíu ra khỏi túi áo trong.
Nó là một con chó pug… chắc thế. Nó thậm chí còn không mở mắt, chỉ khẽ ngáy. Eleanor bế cún con vào trong tay, nói giọng thì thầm để không làm nó tỉnh giấc. “Em chưa từng nhìn thấy bất kỳ thứ gì tuyệt vời nhường này! Nhìn cái bụng tròn vo bé tẹo của nó này.” Cô đưa con chó nhỏ xíu lên, áp vào má.
“Lông nó như nhung đen vậy. Và nó có mùi cún con chưa dứt sữa… Ôi Leopold, anh không thể tặng một món quà nào mà em thích hơn được nữa.” “Tên con bé là Rau Diếp”, hôn phu của cô nói. “Vô số tên khác đã được bàn bạc nhưng lựa chọn của Lucinda đã thắng. Tất nhiên em có thể thích một cái tên thanh nhã hơn.” “Rau Diếp”, Eleanor thở ra.
“Cái tên hoàn hảo đối với nó.” “Em thấy đấy, Lucinda nói đôi tai bé bỏng của nó mềm mại như hai lá rau diếp vậy”, Leopold nói, kéo lên hai miếng vải nhung nhỏ nhất mà Eleanor từng thấy. “Người ta khó có thể gọi đấy là tai được”, cô nói, cười khúc khích. “Nó đáng yêu quá.” “Anh sợ rằng giấc ngủ của nó khiến em có ấn tượng sai lầm với con cún này”, Leo nói, áo tay quanh má Eleanor.
Rau Diếp ngáp, khoe những cái răng nhỏ xíu sắc như kim, và mở mắt. “Cái tên anh chọn là Cassandra.” “Cassandra?”, Eleanor giơ đống lông vừa đột ngột vùng vẫy lên trước mặt để có thể nhìn vào đôi mắt sáng rực của Rau Diếp. “Sao lại đặt một cái tên dài thế cho một con chó nhỏ xíu? Em không có tin xấu nào muốn nói với bọn ta đấy chứ, Rau Diếp?” “Ẳng!”, Rau Diếp nói, vùng vẫy để liếm cằm Eleanor, “Ẳng, ẳng, ẳng, ẳng, ẳng!” “Ôi Chúa ơi”, Eleanor nói.
“Em có nhiều chuyện để nói thật đấy.” “Ẳng!”, Rau Diếp lặp lại. Vô số lần. Eleanor đặt nó xuống và phát hiện ra rằng Rau Diếp đã thành thạo nghệ thuật vừa chạy vòng tròn vừa sủa, một việc mà Hàu không bao giờ làm nổi. “Nó thông minh quá”, cô nói, xoay người trong vòng tay Leo để có thể nhìn mặt anh.
“Chắc chắn là nó rất biểu cảm”, Leo lầm bầm, nhìn xuống cô. Cô biết rõ ánh mắt đang bùng cháy đó. Và nếu không biết ý nghĩa thì cô cũng có thể cảm nhận nó đang đập rộn ràng khắp cơ thể mình. “Anh không thể chờ thêm hai ngày nữa đâu”, anh nói chuyện. “Những tuần qua là những tuần dài nhất đời anh.” Eleanor đặt một nụ hôn lên cằm và một nụ hôn khác ngay sát khóe miệng anh.
“Anh muốn làm tình trong phòng khách của mẹ em đấy à?” Anh rên lên. Anh thật sự đã cực kỳ, cực kỳ ngoan. “Giờ khi em đã có một con cún mới, em sẽ phải đưa nó đi dạo ở vườn sau, thậm chí là vào giữa đêm”, cô thông báo với anh. “Tạ ơn Chúa, buổi đêm ấm áp một cách khác thường.” Leopold bất động.
“Em sẽ dẫn nó đi dạo lúc hai giờ sáng. Hết cả quãng đường ra ngôi nhà hóng mát ở cuối vườn… Và quay lại.” “À”, anh nói và chỉ trong một giây đã kéo cô áp vào cơ thể mình thật mạnh. Rồi anh lùi lại và cúi gập người. Khi mẹ cô đi vào, anh đang hôn các đầu ngón tay của cô.
“Công tước”, nữ công tước gọi một cách vui vẻ. “Tôi có thể nhìn quà đính hôn của ngài không? Tôi thú nhận là mình cực kỳ nóng lòng muốn xem.” “Chắc chắn rồi, thưa nữ công tước”, anh nói, cũng cúi chào bà. “Nó đây”. Thật tình mà nói, hành vi của anh không chê vào đâu được, nữ công tước nghĩ một cách hạnh phúc cho tới khi bà đưa mắt theo hướng ngón tay của công tước.
Nhìn vào con chó nhỏ đang ngồi chồm hỗm trên tấm thảng Aubusson. May cho trái tim của nữ công tước vì bà không vô tình liếc ra cửa sổ phòng ngủ vào giữa đêm. Thêm vào sự kinh hoàng khi phải nhìn thấy tấm thảm yêu quý của bà, một lần nữa, được dùng làm bô khẩn cấp, sự thống khổ khi thấy con gái lớn trần truồng chạy ra khỏi nhà hóng mát, vị hôn phu ôi-chao-đến-là-đứng-đắn của cô đuổi theo sau (trong tình trạng tương tự),à thì… Nó có thể quá sức chịu đựng của bà.
Nhưng thực tế, cả căn nhà chìm trong giấc ngủ yên bình trong khi hai con người hạnh phúc nhất ở đó khiêu vũ dưới mưa cho tới khi Leo tìm được cách tóm được người-sắp-thành-vợ-anh và ôm cô đủ lâu để hôn cô, hôn cô… Và lại hôn cô. Đoạn kết Bảy năm sau. Hôm nay là sinh nhật của nữ công tước Villiers.
Suốt quá trình trưởng thành của Eleanor, mẹ cô không hề có sinh nhật, dưới bất kỳ hình thức nào. Khi người ta ra quyết định không muốn già đi, sinh nhật là một hy sinh cần thiết. Suốt quá trình trưởng thành của Leopold, theo tất cả những gì đã biết thì mẹ anh có thể đã tổ chức sinh nhật xuyên đêm, nhưng chắc chắn là bà không bao giờ mời con cái tới dự.
Sinh nhật thứ ba mươi của Eleanor diễn ra theo một kiểu khác. Phòng khách phía Bắc trong điền trang của công tước Villiers ở Essex – khác với các ngôi nhà của anh ở Norfolk, Wiltshire và Devon, chưa kể đến lâu đài Cary mà hình như đã đổ sụp thành một đống hoa lệ - đang bùng nổ vì phấn khích.
Tobias đang ngồi trong một góc phòng, chuẩn bị những phần cuối cùng trong trò chơi đố chữ của họ, một truyền thống thường niên bắt đầu từ năm 1785. Một bầy chó đang nô đùa trong một góc nhà khác. Một con cún nghịch ngợm có tên Muffin đang bị mẹ nó trông chừng. “Ẳng!”, mẹ cún con cảnh cáo khi cậu gặm rèm.
“Ẳng, ẳng!”, Muffin giật đầu tới lui, giả vờ không nghe thấy gì. “Gâu”, cha cậu sủa thêm, thức giấc và Muffin thả hẳn cái rèm ra. Cha cậu lại chìm vào giấc ngủ trong khi mẹ cậu xổ ra một tràng chỉ trích âu yếm chói tai bao gồm tất cả từ việc cắn rèm cửa tới việc tắm rửa.
Dù rằng Muffin cũng chẳng mấy để tâm. Ở góc thứ ba, nữ công tước đang ngồi trên một cái ghế sô-pha ấm cúng, chăm sóc một em bé. Trong bảy năm hôn nhân hạnh phúc, hỗn loạn và yêu thương trọn vẹn, không có đứa trẻ nào gia nhập gia đình cho tới khi Theodore chào đời. Điều đó lý giải vì sao Phoebe (người từng được gọi là Phyllinda) và Lucinda (người thấy tên mình cũng được) đang ngồi sát hai bên mẹ họ.
Dù thường thì hai cô gái cũng chẳng xa mẹ họ mấy trong năm vừa qua. Ở tuổi mười hai, họ có thể cảm nhận luồng gió lạnh giá khẽ thổi báo hiệu tuổi thơ kết thúc. Đặc biệt tháng này họ chẳng mấy khi rời khỏi Eleanor, quá mê đắm nụ cười không răng và những ngón chân mũm mĩm đến mức mà hai cô bé sinh đôi đó, ai mà biết được cơ chứ, cãi nhau ầm ĩ về đặc quyền được ôm em trai.
“Con có thể ôm Theodore không?”, Lucinda hỏi. “Xin mẹ mà? Trông có vẻ cuối cùng thì em cũng ăn xong rồi. Con chưa bao giờ nghĩ là lại có người có thể uống sữa lâu đến thế! Con còn chẳng thích sữa ý chứ.” “Trẻ con khác chúng ta mà”, Eleanor nói, nhấc Theo bụ bẫm qua vai. Cậu phát ra một tiếng ợ thỏa mãn.
“Nhưng đến lượt em mà”, Phoebe nói, xen vào bằng kiểu cách lặng lẽ của riêng cô bé. “Không, đến lượt cha”, cha cô bé nói, bế bổng cậu bé khỏi vai vợ mình và đánh đu cậu bé trong không trung. Theodore phá ra cười khúc khích. Cậu đáng yêu theo một cách mà những đứa bé được yêu thương sâu sắc vẫn có: đầu trọc, bụ bẫm và trông ngon mắt.
“Hai đứa cần bắt đầu lên kế hoạch cho trò đố chứ đi”, công tước nói, nhìn xuống hai cô con gái. “Tobias đã viết xong tất cả các phần và bắt đầu phân phát chúng rồi đấy.” “Năm ngoái anh ấy đã bắt con đóng Lucifer, trong Thiên Đường Thất Lạc”, Lucinda nói một cách bực bội.
“Do chị cả”, Phoebe nói, cười lớn. “Chị đáng ra không nên bẫy Tobias khi anh ý từ Oxford về nhà nghỉ hè. Chị biết anh ấy coi trọng quần áo của mình thế nào mà.” “Chị chỉ ước gì một lúc nào đó anh ấy để chị chọn vai”, Lucinda nói. “Chị sẽ bắt anh ấy đóng vai một bà già ăn xin.
Hoặc mèo Đi Hia! Anh ấy sẽ phải đeo tai và đuôi bằng giấy nếu không thì sẽ không bao giờ thắng được. Em có tưởng tượng được không? Tobias thà chết còn hơn phải xuất hiện xấu hổ như thế!” “Thôi nào”, Phoebe nói, nắm tay cô. “Đi thôi, bởi vì nếu đạt được một điều ước từ mẹ khi chiến thắng thì chúng ta có thể ước là muốn có Theo cả chiều mai.” Mắt Lucinda sáng lên và chúng lao đi.
Công tước lách vào chỗ ngồi cạnh vợ, nắm tay Theo để cậu bé chân cong có thể tập ngồi thẳng trong lòng anh. “Con là món quà sinh nhật tuyệt vời nhất anh từng tặng em”, Eleanor nói, ngả đầu vào vai anh. “Đúng là nó đã ba tháng tuổi”, Leopold nói, cười toét miệng với Theodore.
“Nhưng anh nghĩ nó giống quà em tặng hơn.” “Ồ không”, Eleanor nói. “Em có những ký ức cực kỳ rõ ràng về sinh nhật năm ngoái của mình. Và theo lẽ tự nhiên, em mong anh có kế hoạch vượt qua màn biểu diễn của mình lúc đấy. Luyện tập…”, cô nói một cách kín đáo, “càng nhiều thì càng giỏi mà”.
Chồng cô nhìn Eleanor với một ánh mắt ranh mãnh, tràn đầy vẻ tươi cười và khao khát. “Sau trò chơi đố chữ hay trước?” “Trước”, cô thì thầm, tựa người và đặt một nụ hôn lên quai hàm của anh. “Tobias!”, Leo hét lên, nhảy bật dậy. Con trai cả của anh, một phiên bản chói sáng và lấp lánh của chính anh, đi đến.
“Trông thằng bé này đi”, Leo nói, thả Theo vào vòng tay Tobias một cách không câu nệ. “Bất kể con làm gì thì cũng đừng để Phoebe và Lucinda bắt đầu tranh giành em nữa đấy.” Theodore vươn tay ra và túm lấy cằm anh trai, trao cho anh trai nụ cười không răng đáng yêu nhất của mình. “Nó có ợ không?”, Tobias hỏi một cách nghiêm nghị.
Cậy đã nhanh chóng học được rằng những tiêu chuẩn quần áo có thể bị đe dọa một cách ghê gớm bởi những đứa bé hay chảy dãi. “Có”, Eleanor nói, nắm tay chồng. “Cám ơn, con yêu.” “Trò đố chữ sẽ bắt đầu sau một tiếng nữa”, Tobias nói, không để lộ dù chỉ là một nụ cười nhỏ nhất thể hiện rằng cậu biết những việc mà người mẹ kế xinh đẹp và người cha đáng mến của mình định làm trong quãng thời gian chờ đợi.
“Chúng ta sẽ ổn thôi”, Leo nói, cười toét miệng với Eleanor. Không giống con trai mình, anh mất khả năng tỏ vẻ vô cảm. Nhưng anh vẫn chờ tới lúc ra khỏi phòng khách mới bế bổng nữ công tước lên và đưa cô lên cầu thang. Chú giải lịch sử Những vay mượn văn học của tôi trong cuốn sách này là một con số khổng lồ.
Shakepeare có xuất hiện vài lần, cụ thể là bài Sonnet 116. Nhưng vị anh hùng không tên của Công tước của riêng em là ngài Byron, người đã cho Roland mượn bản tiếng Anh của vở kịch tiếng Pháp của mình, vở Salomé. Tôi cảm thấy khá chắc chắn rằng ngài ấy sẽ rất ghét việc tôi tặng những dòng thơ quyến rũ của ngài ấy cho một anh chàng trẻ tuổi ngu ngốc như vậy.
Để biện hộ cho bản thân tôi, chính Byron cũng chưa đầy bốn mươi khi Salomé được viết. Thứ truyền cảm hứng cho – và vài lời công kích trong cảnh liên quan tới bà Busy Zeal-của-xứ-Land nảy sinh từ một vở kịch được viết bởi Shakepeare hiện đại, Ben Jonson. Vở kịch Hội chợ Bartholomew đã xử tử Zeal-của-xứ-Land Busy.
Tôi cho ông ấy cả một đám tang và một người vợ, và trong trường hợp này tôi liều mình nói rằng Ben Jonson sẽ không phê bình đâu. Và cuối cùng, Lisette hát một bài hát ru cổ, Im lặng nào em bé. Có nhiều nguồn gốc pha trộn. Khi con trai tôi Luca được sinh ra, mười bốn năm trước, nó thích được hát ru.
Một đêm khi đang hát bài hát ru đó thì mẹ kế của tôi ngó vào. Tôi thừa nhận với bà rằng mình không thích bài hát đó lắm bởi vì nó kết thúc bằng cảnh đứa bé rơi xuống từ ngọn cây. Bà hát hai dòng của một phiên bản khác cho tôi nhưng không nhớ gì hơn. Vậy nên trong những tối dài dằng dặc hát ru cho một đứa bé hay cáu kỉnh, tôi đã viết thêm hai dòng nữa.
Tôi đưa toàn bộ bài hát ru vào bên dưới với hy vọng rằng có lẽ vài người trong các bạn vẫn đủ may mắn để hát ru cho những đứa bé nhỏ xíu, ngọt ngào đi vào giấc ngủ. Im nào bé con, trên ngọn cây, Khi gió thổi, nôi sẽ đung đưa. Khi cành cây gẫy, nôi sẽ rơi, Em bé rơi xuống, cả nôi và cả bé.