Let your bookcases and your shelves be your gardens and your pleasure-grounds. Pluck the fruit that grows therein, gather the roses, the spices, and the myrrh.

Judah Ibn Tibbon

 
 
 
 
 
Tác giả:  M. L. Stedman
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Light Between Oceans
Dịch giả: Hồ Thị Như Mai
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 38
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Iii.9
ừ lúc còn rất nhỏ, đứa trẻ sống ở đảo Janus Rock đã trải nghiệm thứ hoàn cảnh sinh tồn vô cùng khắc nghiệt. Ai mà biết liệu những ký ức về chuyến đi đầu tiên ra đảo còn vương lại trong máu thịt nó? Ngay cả khi ký ức đó đã hoàn toàn bị xóa mờ, cuộc sống của nó ở trên đảo hải đăng, trong cái thế giới chỉ có mỗi ba người đã thấm vào máu nó. Sự gắn kết giữa con bé và hai người nuôi dưỡng nó vô cùng mạnh mẽ, không thể nghi ngờ. Con bé không biết gọi tên cảm giác mất đi hai người đó, không biết đó là nỗi đau. Nó vẫn chưa biết những từ như khao khát hay tuyệt vọng.
Nhưng nó them ba, thèm má đến nhức nhối, chỉ muốn gặp lại hai người. Cả ngày nó chỉ nghĩ đến ba má, mặc dù đã vào đất liền nhiều tuần. Hẳn nó đã làm điều gì rất quấy nên má mới khóc nhiều như vậy. Còn cái người đàn bà tóc đen, mắt đen vẫn tự nhận là mẹ nó… nói dối là rất xấu. Vậy thì tại sao bà ta cứ nói dối mãi, với tất cả mọi người? Tại sao người lớn để bà ta nói dối?
Con bé biết má ở ngay Partageuse. Nó biết mấy người xấu đã mang ba đi, nhưng không biết là đi đâu. Nó đã nghe từ “cảnh sát” rất nhiều lần nhưng chỉ mơ hồ hiểu. Người ta ở ngoài đường vẫn thì thầm “Thật là chuyện động trời. Kinh khủng quá.” Hannah nói nó sẽ không bao giờ được gặp lại má nữa.
Janus thật rộng lớn, vậy mà nó biết từng ngóc ngách: Bãi Đắm Tàu, Vũng Phản Trắc, Đỉnh Gió Lộng. Muốn về nhà nó chỉ cần tìm ra ngọn hải đăng, ba hay nói vậy. Nó cũng biết là Partageuse rất nhỏ, đã nghe người ta nói vậy nhiều lần rồi.
Khi Hannah còn ở trong bếp và Gwen đã đi ra ngoài, con bé trở về phòng. Nó nhìn mình. Nó cẩn thận cài khuy giày sandal. Nó lấy một cái túi nhỏ, bỏ vào đó bức tranh vẽ hải đăng có má, có ba, có Lulu. Thêm vào một quả táo mà hồi sáng cô đó cho nữa, thêm cả mấy cái kẹp phơi áo nó vẫn dùng làm búp bê chơi.
Nó cẩn thận đóng cửa sau rồi tìm quanh hàng giậu sau vườn, tới khi tìm ra một lỗ hẹp chỉ vừa rộng để chui qua. Nó thấy má nó ở ngoài công viên. Nó sẽ tới đó. Nó sẽ gặp má. Rồi hai người sẽ đi tìm ba. Rồi họ sẽ đi về nhà.
Con bé bắt đầu đi khi trời đã về chiều. Mặt trời đang lặn dần nơi góc trời và bóng cây đổ như kéo dài ra mãi.
Con bé chui sục sạo qua hàng giậu, kéo lê cái túi xách trên mặt đất khi nó đi qua những bụi cây thấp đằng sau nhà. Âm thanh ở đây thật khác so với ở trên Janus. Nhiều chim quá, chúng gọi nhau ríu rít. Nó cứ đi thơ thẩn, những bụi cây dày hơn và xanh hơn. Nó không sợ mấy con thằn lằn bóng da đen, đầy vẩy thoắt ẩn thoắt hiện dưới mấy bụi cây. Thằn lằn bóng không cắn, nó biết mà. Nhưng nó không hề biết rằng, khác với Janus, nơi đây thằn lằn bóng không phải là loài duy nhất có màu đen da trơn. Nó chưa bao giờ phải học phép phân biệt vô cùng quan trọng giữa thằn lằn có chân và không có chân. Con bé chưa bao giờ nhìn thấy rắn.
***
Khi con bé đến công viên, ánh nắng đang dần tắt. Nó chạy đến băng ghế nhưng không thấy má nó đâu. Nó kéo lê theo chiếc túi, ngồi đó, nhìn không gian trống trải xung quanh. Nó bỏ tay vào túi, lấy ra trái táo đã bị dập sau chuyến đi, rồi cắn một miếng.
Giờ này những căn bếp ở Partageuse lại bận rộn với các bà mẹ cáu kỉnh và những đữa con đang đói. Chúng sẽ lao nhao rửa tay, rửa mặt sau một ngày đánh trận trên cây hay ở bãi biển về. Trong khi đó, cha chúng sẽ tự thưởng cho mình một chai bia lấy từ chiếc tủ mát Coolgardie, các bà mẹ thì lu bu trông chừng mấy nồi khoai luộc và món thịt hầm trong lò nướng. Nhà nhà sum họp, an vui, đầy đủ. Lại một ngày qua đi. Bóng tối tràn đến trên bầu trời, từng giây, cho tới khi không còn rơi từ trên cao xuống mặt đất nữa mà bay tỏa từ dưới mặt đất lên, chiếm trọn không gian. Con người rút về tổ ấm, nhường đêm cho những loài sở hữu nó: dế, cú vọ, rắn rết. Một thế giới chưa đổi thay qua hàng trăm năm giờ đây thức dậy, tiếp diễn như thể ánh sáng ban ngày, con người và những thay đổi cảnh quan chỉ là ảo ảnh. Giờ đó trên đường không có ai.
***
Khi hạ sĩ Knuckey đến công viên, trên ghế chỉ còn chiếc túi xách và lõi quả táo với những dấu răng nhỏ, đầy kiến bu.
Khi đêm xuống những ánh đèn bắt đầu lấp ló: những chấm sáng trên nền đen, khi những chiếc đèn dầu bên cửa sổ; khi lại là bóng đèn điện từ những căn nhà mới hơn. Con đường chính Partageuse đã có đèn đường điện chạy dọc theo hai bên. Những vì sao lấp ló trong màn đêm trong veo. Dải Ngân Hà quét một lớp nhòe sáng qua bóng tối.
Những đốm sáng giữa rừng cây đong đưa như một thứ quả cây. Người ta đã mang đèn đi tìm trong bụi cây. Không chỉ có cảnh sát mà còn có cả thợ gỗ từ các xưởng cưa của nhà Potts, cả người bên Cảng và Hải đăng. Hannah nóng ruột chờ ở nhà, như đã được căn dặn. Ba người nhà Graysmark đi dọc theo lối mòn trong rừng thấp, gọi tên đứa trẻ. Trong đêm vang lên cả “Lucy” lẫn “Grace”, mặc dù chỉ có một đứa trẻ bị mất tích.
***
Con bé giữ chặt trong tay bức tranh nó vẽ ba má và hải đăng, nhớ lại câu chuyện ba vua đi theo ngôi sao sáng để tìm Chúa Hài đồng. Nó đã nhìn thấy hải đăng Janus ở ngoài biển: cũng không xa mấy – hải đăng có bao giờ xa nó đâu. Nhưng mà hình như có gì đó không đúng lắm. Ánh đèn đỏ sáng lên giữa những lần đèn trắng. Nhưng nó vẫn đi theo.
Con bé đi về phía biển, nơi sóng đêm bắt đầu gầm gào và chiếm lấy bờ. Ở hải đăng nó sẽ tìm thấy ba má. Nó đi xuống doi đất dài – “Mũi” của xứ “Mũi”, nơi nhiều năm trước Isabel chỉ cho Tom cách nằm xuống khi ngắm khe nước phun để khỏi bị cuốn đi. Mỗi bước dẫn con bé lại gần với ngọn hải đăng, tận ngoài đại dương.
Nhưng ngọn hải đăng đó không phải là Janus. Mỗi hải đăng có đặc tính chớp khác nhau, ánh đèn đỏ cắt ngang đèn trắng của hải đăng này báo cho tàu thuyền biết rằng họ đang tới gần các bãi cạn ở cửa Cảng Partageuse, cách xa Janus Pock gần cả trăm dặm.
Gió nổi lên. Nước biển khuấy tung. Đứa bé vẫn đi. Bóng tối ngụ lại.
***
Từ nhà giam, Tom nghe tiếng nói bên ngoài vọng vào. “Lucy? Lucy, con có đó không?” Rồi “Grace? Con ở đâu rồi Grace?”
Một mình trong khám, Tom gọi với về phía trước đồn, “Hạ sĩ Knuckey? Hạ sĩ?”
Có tiếng chìa khóa leng keng rồi cảnh sát Lynch xuất hiện. “Anh muốn gì hả?”
“Có chuyện gì vậy? Mấy người bên ngoài họ cứ gọi Lucy.”
Bob Lynch nghĩ một lúc rồi mới trả lời. Anh ta đáng được biết. Anh ta cũng chẳng làm gì được. “Con bé đi mất rồi.”
“Khi nào? Đi mất sao?”
“Vài tiếng trước. Hình như là bỏ trốn.”
“Lạy Chúa tôi! Làm sao lại có chuyện như thế?”
“Không biết.”
“Giờ họ làm gì?”
“Đi kiếm nó.”
“Để tôi giúp. Tôi không thể cứ ngồi đây được.”
Vẻ mặt Lunch đã thay cho câu trả lời.
“Trời đất!” Tom nói. “Anh nghĩ tôi trốn đi đâu được nữa?”
“Nếu có tin gì tôi sẽ báo cho anh biết. Tôi chỉ làm được vậy thôi.” Rồi leng keng, viên cảnh sát lại đi mất.
Trong bóng tối, Tom nghĩ đến Lucy, con bé luôn tò mò muốn khám phá xung quanh. Không bao giờ sợ bóng tối. Có lẽ anh đã nên dạy con bé biết sợ. Anh đã không thể giúp nó chuẩn bị cho cuộc sống bên ngoài Janus. Rồi anh chợt nghĩ. Isabel đang ở đâu? Trong lúc này cô ấy có thể làm được chuyện gì? Anh cầu nguyện rằng Isabel đã không làm việc gì liều lĩnh.
***
Ơn Chúa trời vẫn chưa sang đông. Gần nửa đêm Vernon Knuckey cảm nhận rõ hơi lạnh đang xuống. Đứa bé mặc một chiếc áo đầm vải bông và mang giày sandal. Ít ra vào tháng Giêng nó vẫn có cơ hội sống sót qua đêm. Nếu là tháng Tám thì đến giờ hẳn nó đã tím tái.
Lúc này mà tìm kiếm cũng chẳng có ích gì nữa. Sau năm giờ mặt trời sẽ mọc. Tốt hơn là giữ cho mọi người tỉnh táo để còn tìm khi trời đã sáng. “Dặn họ như vậy,” ông nói với Garstone khi gặp anh ta ở cuối đường. “Giờ nghỉ đã. Mọi người trở lại đồn ngay khi trời sáng, rồi sẽ bắt đầu lại.”
Đã một giờ sáng nhưng Knuckey cần đi ra ngoài cho thoáng. Ông đi theo con đường quen thuộc mà mình hay dạo mỗi tối, vẫn mang theo cây đèn, đong đưa trong bóng tối theo mỗi bước ông đi.
***
Trong căn nhà nhỏ Hannah cầu nguyện. “Xin Chúa giữ con bé bình an. Xin người chở che và cứu lấy nó. Người đã từng cứu nó…” Hannah lo lắng – biết đâu Grace đã dùng hết phép may mắn của mình? Rồi cô tự an ủi. Sống sót qua một đêm ở đây cũng chưa cần đến phép màu. Chỉ cần tránh rủi ro. Hai chuyện đó khác nhau. Nhưng suy nghĩ đó ngay lập tức bị át đi bởi nỗi sợ hãi hoang mang, cấp bách hơn. Mệt rã rời, Hannah chợt nghĩ, một ý nghĩ oái oăm mà rành rọt. Có lẽ Chúa không muốn Grace ở cùng cô. Có lẽ cô có lỗi. Cô chờ đợi và cầu nguyện. Rồi cô hứa với Chúa một điều.
***
Có tiếng chân đá vào cửa. Đèn đã tắt hết nhưng Hannah vẫn còn tỉnh táo, cô bật dậy mở cửa. Trước mặt cô là Hạ sĩ Knuckey, ôm Grace trong cánh tay, chân tay con bé thõng xuống.
“Ôi Chúa ơi!” Hannah lao tới ôm con bé. Mắt cô dán vào nó, không nhìn người đàn ông đứng đó, cô không nhận ra ông đang mỉm cười.
“Suýt nữa thì vấp phải nó ngoài Mũi. Con bé ngủ say quá,” ông nói. “Phải có tới chín mạng chứ không vừa.” Mặc dù Knuckey đang cười, mắt ông rớm ướt khi nhớ lại sức nặng của đứa con trai mà mình không thể cứu, hàng chục năm trước.
Hannah không nghe thấy ông cảnh sát nói gì. Cô ôm con bé, vẫn còn ngủ say trên tay cô.
Đêm đó, Hannah đặt Grace nằm cạnh mình, lắng nghe mỗi nhịp thở, nhìn mỗi lần nó trở đầu hay đá chân. Con bé nằm đây, hơi ấm của nó làm cô thấy an tâm, nhưng cô cũng kịp nhận ra điều gì vừa xảy đến.
Những tiếng mưa rơi đầu tiên, nghe như tiếng sỏi lăn trên mái tôn khiến Hannah nghĩ đến ngày cưới của mình: thời đó khắp nhà dột nát và đầy những chiếc chậu hứng. Thời của tình yêu và hy vọng. Trên tất cả là hy vọng. Frank lúc nào cũng mỉm cười, lúc nào cũng vui vẻ mặc cho ngày hôm đó có ra sao đi nữa. Cô muốn Grace cũng như thế. Cô muốn con gái mình là một cô bé hạnh phúc. Rồi cô cầu Chúa ban can đảm và sức mạnh để làm những việc phải làm.
Khi tiếng sấm đánh thức đứa trẻ, nó mơ màng nhìn Hannah rồi dụi người vào gần cô, trước khi trở lại với giấc mơ, để mặc người mẹ lặng lẽ khóc, nhớ lại lời hứa ban nãy.
***
Con nhện đen đã quay trở lại chỗ mạng nhện trong góc phòng giam. Nó cứ chạy đi chạy lại trên mớ tơ rối rắm, chuẩn bị giăng một kiểu lưới mới mà chỉ nó mới biết – vị trí sợi tơ, sức căng, tạo góc ra sao. Mỗi đêm con nhện lại bò ra để sửa lại tấm mạng đó, một mớ tơ bám bụi, tạo thành những cái bẫy nguy hiểm. Con nhện cứ dệt mãi cái thế giới ngẫu nhiên của nó, lúc nào cũng chắp vá, không bao giờ rời xa lưới trừ khi bị bắt đi.
Lucy an toàn. Tom thấy nhẹ cả người nhưng vẫn không có tin tức gì của Isabel. Không có gì cho thấy cô đã tha thứ cho anh, hoặc có thể tha thứ. Nỗi bất lực khi không thể làm gì cho Lucy giờ đây lại củng cố quyết tâm làm việc mà anh có thể làm được cho người vợ. Anh chỉ còn chút tự do đó thôi.
Nếu anh phải sống phần đời còn lại mà không có cô, anh thấy muốn buông xuôi, để mọi thứ tự diễn ra. Tâm trí anh lại miên man kỷ niệm. Tiếng phực của hơi dầu cháy sáng khi anh châm que diêm. Ánh cầu vồng qua lắng kính. Hai đại dương trải quanh Janus trước mặt anh như một món quà bí mật. Nếu phải từ bỏ thế gian này, anh muốn nhớ những gì đẹp đẽ, chứ không chỉ là khổ đau. Hơi thở của Lucy, đứa bé từng tin tưởng hai người xa lạ, gắn bó với họ như huyết cầu trong tim. Rồi Isabel, Isabel ngày đó, người đã soi đường đưa anh về với cuộc đời, sau những năm dài chết chóc.
Một cơn mưa nhẹ chợt khiến hơi nước đẫm hương rừng tràn vào phòng giam: hơi đất, mùi gỗ ướt, mùi cây mạ sưa nồng nặc với những bông hoa tựa quả sồi khổng lồ phủ lông mượt. Anh chợt nhận ra rằng sẽ phải từ giã nhiều con người trong anh – đứa trẻ lên tám bơ vơ, người lính mộng mị giữa chốn địa ngục vô chừng; người gác đèn đã liều lĩnh mở cửa trái tim mình. Những phần đời đó lồng chứa trong anh như một hộp búp bê gỗ.
Khu rừng hát cho anh nghe: mưa rơi trên lá, nhỏ giọt xuống những vũng nước đọng, những con chim bói cá cười như người dại – mãi là thứ chuyện đùa con người không thể hiểu được. Anh cảm thấy mình hòa vào cả thế giới vẹn nguyên nối kết, thấy đã đủ. Một ngày nữa, mười năm nữa cũng không khác đi. Tạo hóa ôm lấy anh, chờ đợi anh cuối cùng sẽ trở về, để sắp đặt từng nguyên tử thành một hình hài khác.
Mưa càng lúc càng nặng hạt, ở phía xa, sấm giận gầm gừ vì bị ánh chớp bỏ lại sau lưng.
Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương -  M. L. Stedman Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương