Số lần đọc/download: 4219 / 54
Cập nhật: 2016-06-09 04:42:14 +0700
Phần III: Kết Luận – Chương 1: Chính Nghĩa Quốc Gia!
T
ừ khi Quốc Trưởng Bảo Đại trở về lãnh đạo nước nhà mọi xu hướng chính trị thuần túy quốc gia đã được tập hợp dưới lá cờ chính nghĩa.
Chính phủ Quốc Gia Việt Nam thoát thai trong khói lửa và đã lớn trong khói lửa.
Dựa vào uy tín Quốc Trưởng, vì hậu duệ của triều Nguyễn, tất cả các chính phủ Quốc Gia, từ Nguyễn Văn Xuân đến Nguyễn Văn Tâm, đã dễ dàng thành công trên sự nghiệ
Lý tưởng Quốc Gia tự ngày xưa, thế kỷ qua thế kỷ, vẫn dồi dào đầy ắp trong tiềm thức của dân chúng Việt Nam và đã là yếu tố chính, yếu tố căn bản, nòng cốt trong mọi hành động cứu tổ quốc giang sơn của giòng giống Lạc Hồng.
Từ 1950, thế giới đã công nhận Việt Nam là một quốc gia Độc Lập. Tất cả mọi người Việt Nam, hoặc ở trong nước hoặc sống rải rác ở khắp nơi trên trái đất, ít nhất cũng đã được hưởng nền Độc Lập đó trên phạm vi tinh thần.
Muốn mở rộng nền Độc Lập, muốn được thỏa mãn hoàn toàn, muốn hưởng thụ quyền lợi như công dân Hồng Mao của Anh-cát-lợi, tất nhiên dân tộc Việt Nam phải tự mình cố gắng, tự mình đấu tranh, phát triển nền Độc Lập hiện hữu.
Đó là một nguyên tắc nhất định. Nền Độc Lập của quốc gia không thể do ai ‘’bán cho’’ mà phải chính tự mình nỗ lực tranh thủ lấy.
Đối với những người Việt Nam theo cộng sản, để đấu tranh với họ, ta chẳng nên chỉ nặng lời đả kích, nguyền rủa họ là ‘’phi quốc gia’’, là ‘’vong bản’’.
Vì sao?
Vì những người cộng sản chỉ đã quan niệm hai chữ ‘’quốc gia’’ theo một chiều khác.
Người cộng sản suy luận theo Duy Vật, họ chắc chắn cá nhân chỉ tồn tại khi nào đoàn thể cường mạnh. Muốn đoàn thể cường mạnh, cá nhân không thể chỉ nghĩ đến lợi ích riêng tư nếu lợi ích riêng tư đó không hòa hợp với lợi ích đoàn thể. Hy sinh lợi ích nhỏ của cá nhân đi để lợi ích cho đoàn thể. Đoàn thể tiến bộ thì mặc nhiên cá nhân nằm trong đoàn thể cũng sẽ tiến bộ. Bởi vì đoàn thể là gì nếu không phải là tất cả cá nhân tập hợp lại.
Trên trái đất, mỗi quốc gia đối với tất cả các quốc gia khác cũng như một cá nhân sống giữa tập thể, mỗi dân tộc đối với tất cả các dân tộc khác cũng như một cá nhân sống giữa tập thể.
Nếu tập thể vô tổ chức, mọi cá nhân sẽ sống riêng biệt với quyền lợi riêng biệt và đó là nguyên do chính đưa đến xung đột, đưa đến chiến tranh, một thứ chiến tranh muôn thuở vì quyền lợi.
Chiến tranh ngàn xưa đã từng làm mất hẳn sức sống của một vài dân tộc và gần tiêu diệt một vài dân tộc trên trái đất.
Chiến tranh ngày nay làm suy nhược dân tộc kìm sức sống của quốc gia trên toàn diện trong một thời gian. Những tiến bộ về khoa học do chiến tranh phát xuất không thể bù đắp được những tiêu biến khả năng, sinh lực do chiến tranh gây nên.
Muốn khởi rơi vào tình trạng nói trên, tập thể xã hội phải được tổ chức và do đó đoàn thể có mặt, hiện hình.
Người cộng sản quan niệm đoàn thể là một hệ thống thông suốt, đồng tình, đồng chất, đủ khả năng thu góp các hy sinh của cá nhân để thực hiện được nhiệm vụ xuôi chiều, phân phát quyền lợi cho cá nhân trong vòng trật tự.
Làm được như vậy, cộng sản chắc chắn sẽ không còn xung đột, không còn chiến tranh, và do đó mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi cá nhân sẽ vươn được sức sống trong phạm vi trật tự, không xâm phạm nhau, không tiêu diệt nhau nữa.
Thực hiện được công cuộc ấy người cộng sản sẽ mãn nguyện rằng mình đã là một người quốc gia chân chính.
Trong tiềm thức những cán bộ kỳ cựu của cộng sản đã khắc sâu quan niệm yêu quốc gia dân tộc theo suy luận của họ, suy luận mà họ cho là đúng, quan niệm mà họ cho là độc nhất chân chính.
Tự điểm căn bản ấy, những lãnh tụ cộng sản giải thích và huấn luyện truyền thụ cho đảng viên để rồi các đảng viên lại đi hấp dẫn và lãnh đạo quần chúng theo đúng đường lối đã suy luận vạch ra.
Quần chúng (nói theo giọng cộng sản) một khi giác ngộ, lòng yêu nước chân chính (lòng yêu nước bao giờ cũng tiềm tàng thường trực, đột nhiên được khiêu gợi và hướng dẫn) sẽ trở nên nhiệt thành.
Sự nhiệt thành của quần chúng được nuôi dưỡng, gìn giữ liên tục qua thời gian sẽ trở nên cuồng tín, gần như rồ dại trước mọi vi phạm bất cứ tự đâu đến.
Vì đã quan niệm cố định như vậy, cộng sản không hề biết nhận và không bao giờ nhận rằng hành động của họ là ‘’phi quốc gia’’, là ‘’vong bản’’.
Không đả kích việt cộng là ‘’phi quốc gia’’ phải chăng vô hình chung đã thỏa thuận công nhận tư tưởng hành vi của họ?
Không phải!
Bởi vì thời gian qua chứng tỏ rằng nếu chỉ đả kích cộng sản theo đường lối quá giản dị và ngây thơ ấy sẽ ít thu lượm được kết quả mong muốn.
Những người Nga chẳng đã không tiếc lời nguyền rủa đảng cộng sản Bolchevik để rồi đảng đó vẫn thành công trên đất Nga với việc thành lập một Liên Bang rộng lớn từ bờ Hắc Hải đến cực Đông sa mạc tuyết miền Tây Bá Lợi Á?
Những chính khách tự do của các quốc gia trên thế giới chẳng đã từng nguyền rủa cộng sản là ngoại lai, vong bản, phản quốc? Nhưng chính trong lòng những nước đó, các đảng cộng sản địa phương đã chẳng vẫn len lõi hoạt động, công khai hoặc bí mật phát triển để chờ ngày nào đó, một sự kiện sẽ đem lại nỗi kinh ngạc, bàng hoàng?
Những người quốc gia tự do ở các tiểu quốc bên bờ sông Danube chẳng đã phỉ báng các đảng viên của những lãnh tụ Đỏ như: Zapotocky (Tiệp Khắc), Rakosi (Hung-gia-lợi) Gheoghiu De J (Lỗ), Bierut (Ba Lan), Tschervenkoft (Bảo), Pietro Nenni, P.Togliatti (Ý), Otto Grotewohl, W. Pieck, W. Ulbricht (Đông Đức), v.v…nhưng cũng không ngăn được họ thành lập các chính phủ Dân Chủ Nhân Dân theo ý họ.
Nghiên cứu những lý do thất bại trên, ta thấy rõ ràng: Ở nơi nào, chính quyền quốc gia hoặc thối nát không thu phục được nhân tâm, hoặc vụng về không tạo được một bản thân lực lượng vững chắc, đều đã vô tình giúp sức cộng sản bành trướng hoặc chiếm phần thắng lợi.
Những người quốc gia ở Việt Nam phải chú trọng tới những kinh nghiệm đau đớn đó để tránh khỏi vết xe đổ cũ.
Chúng ta hiện đang sống giữa thời kỳ mà tình hình quốc tế không lấy gì làm lạc quan cho lắm.
Nào chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng, nào chiến tranh trong bóng tối, nào chiến tranh tâm lý, chiến tranh cân não, tinh thần, rồi người ta đe nhau bằng bom nguyên tử, rồi người ta dọa nhau bằng bom khinh khí, vi trùng.
Sự thật ở trên trái đất đã không phải có một mà hiện nay đã chia thành hai: Độc Lập hai kiểu, Tự Do hai kiểu, Quốc Gia hai kiểu, Dân Chủ hai kiểu, Hòa Bình cũng hai kiểu v.v…một kiểu của thế giới cộng sản và một kiểu của thế giới tự do.
Trước tình thế nghiêm trọng như vậy, đã đứng về phe thế giới tự do, những chiến sĩ Quốc Gia Việt Nam đứng đắn, tin tưởng ở khả năng tạo tác của mình, phải tỏ rõ lòng nhiệt thành phục vụ dân chúng, phục vụ dân tộc bằng những hành động cụ thể mới mong dành được phần thắng lợi trong công cuộc đấu tranh với cộng sản.
Có khả năng tạo tác, dựa trên nền tảng ái quốc chân chính, nhiệt thành, người chiến sĩ quốc gia nhất định sẽ phục vụ được dân tộc và kết tộc và kết quả sẽ không thể kém phe việt cộng.
Nếu nghi vấn rằng: Thế mấy năm qua, những người quốc gia vẫn thiếu khả năng tạo tác hoặc đã thiếu lòng nhiệt thành hay sao?
Không phải thế!
Từ trước đến nay, nếu vẫn còn một số người chưa chịu tham gia hoạt động thì số người ấy cũng không phải là tài năng độc nhất của dân tộc Việt. Trong chính quyền, từ Nội Các này đến Nội Các khác, ngoài chính quyền, từ năm này sang năm khác, vẫn có thừa các chiến sĩ đủ khả năng thường trực.
Lòng nhiệt thành cao quý của những chiến sĩ ấy đã làm tan biến mọi nghi ngờ.
Nhưng thành thực mà nhận xét, lòng nhiệt thành từ trước đến nay, chưa được sử dụng đúng nhịp của thời gian và khả năng tạo tác chưa hoàn toàn đúng hướng.
Sự sai khớp ấy đã khiến thế giới chưa thẳng thắn mạnh dạn giúp đỡ Việt Nam và cũng do đó, các chiến sĩ quốc gia chưa nắm được đủ phương tiện, tinh thần cũng như vật chất, để mạnh tiến trên đường phụng sự.
Công việc nắn lại khớp sai dĩ nhiên thuộc về phần chính phủ nhưng cũng là công việc của tất cả mọi người quốc gia tự nhận là thành thật với tiền đồ tổ quốc.
Có nhiều dư luận mới, dân chủ hóa chính quyền, cải tổ nền hành chính, tiếp tục cải cách điền địa, thành lập Quốc Hội v.v…tất cả đều là những ý kiến rất hợp thời trong khung cảnh tổ chức quốc gia.
Nhìn vào thành phần chính phủ Bửu Lộc, dân chúng Việt Nam rất tin tưởng:
– Tin tưởng ở tài năng học thức của các vị lãnh đạo. Những cấp bằng Thạc Sĩ, Tiến Sĩ, Bác Sĩ…bảo đảm một hiểu biết chắc chắn về chuyên môn.
Tất cả những nhân viên trong chính phủ Bửu Lộc sẽ là những vị Bác Sĩ đủ tài nắn lại các khúc xương sai khớp của bộ máy chính quyền.
– Tin tưởng vào đức tính vô tư của những con người trung lập trong chính phủ Bửu Lộc.
Với tổ chức thuần nhất trí thức người ta hy vọng chính phủ Bửu Lộc sẽ dễ dàng kết hợp được các đảng phái làm hậu thuẫn trong mọi hoạt động, hoặc đàm phán đối ngoại, hoặc kiến thiết, đấu tranh đối nội.
Nhưng phải chăng tất cả mọi người đứng ngoài chính phủ sẽ chỉ ỷ lại vào những vị Bác Sĩ đó mà thờ ơ với vận mệnh nước nhà?
Nhất định không!
Toàn thể chúng ta, kẻ ít người nhiều đều phải nhiệt thành gom góp phần hiểu biết, xây dựng v.v…
Giờ đây những người quốc gia muốn đề nghị gì với chính phủ để có thể duy trì thắng lợi chính nghĩa?
Kế hoạch tổ chức chăng?
Kế hoạch cải tổ toàn thể hệ thống công tác chăng?
Đề nghị giai cấp hóa chính phủ? Dân chủ hóa chính phủ? Quân đội hóa chính phủ?
Những việc phải đến, sẽ đến, chúng ta không thể nhảy qua thời gian và rồi đây, những nhà lãnh đạo với tài năng chuyên môn chắc cũng không cam chịu thất sách, chậm chân trong bước tiến.
Chúng ta chỉ muốn đề nghị cùng chính phủ quốc gia một chính sách hoạt động gồm hai phương châm chủ yếu.
Chính sách: Phải Dứt Khoát.
Căn cứ vào tinh thần và tư tưởng của nhân dân đang sống trong vùng quốc gia chúng ta nêu lên phương châm thứ nhất: Thanh Toán Trà Trộn.
Công cuộc Thanh Toán Trà Trộn nhằm 4 mục tiêu:
– Quốc Gia
– Cơ Quan
– Cá Nhân
– Tư Tưởng
Mục Tiêu Thứ Nhất: Trên địa hạt tâm lý, dân chúng Việt Nam hiện nay hằng nhận thấy rằng mối liên hệ của Quốc Gia Việt Nam với Quốc Gia Pháp chưa được rõ ràng dứt khoát.
Đã từng có những bài diễn văn nghiên cứu tỷ mỉ rành rọt trong lời văn, long trọng trong buổi đọc, thú vị cho người nghe, hào hứng cho kẻ diễn, nhưng…nhưng sự thực hiện (giá trị chính của diễn văn) lại như ẩn, như hiện, quanh co lắt léo…
Lý do vì sao?
Có dư luận nói vì tình hình chính trị của nước Pháp.
Có dư luận nói vì tình hình thế giới ảnh hưởng đến Việt Nam cho nên mọi việc không thể tiếp nhận nhanh được.
Có dư luận nói sở dĩ chưa dứt khoát là vì chiến thuật tác chiến của Việt Minh lên bổng xuống trầm như đợt sóng.
Lại có dư luận nói vì Quân Đội Quốc Gia Việt Nam chưa đủ mạnh để tham gia toàn diện chiến trường, những nhà kỹ thuật Việt Nam chưa đủ tài năng già dặn để chỉ huy chính trị, chỉ huy kinh tế v.v…
Tất cả đều đúng, không nhiều thì ít.
Từ dăm ba năm nay, nền Độc Lập của Việt Nam vẫn còn trong tình trạng trà trộn, từ thượng từng kiến thiết đến hạ từng cơ sở, từ thái độ đến hành động, dân chúng đã nhận rõ được hình thái dưới con mắt vô cùng tế nhị.
Nói như vậy có phải là để trách oán chính phủ Pháp còn có ẩn ý gì đối với nền Độc Lập của Việt Nam không? Những người nóng nảy, kiêu ngạo, cố chấp có thể bảo rằng chúng ta quả đã trách oán nước Pháp, một nước có ân tình thâm thủy với Việt Nam, nhưng chúng ta nói đây, hướng về những người Pháp đầy thiện chí xây dựng, đứng đắn và hiểu thời.
Thật vậy, nền Độc Lập của Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng trà trộn, chưa dứt khoát trên thực tế.
Chúng ta mong rằng, sở dĩ có tình trạng đó, không phải vì chính phủ Pháp áp dụng ẩn ý của mình nhưng vì những thủ tục lễ nghi phiền toái, những giấy tờ nhiêu khê, phức tạp, những quan hệ vẩn vơ vô trách nhiệm, những kỹ thuật sai lầm trong khi áp dụng nguyên tắc đã vạch ra.
Nhiệm vụ của chính phủ trước tiên là phải chấm dứt tình trạng cũ.
Quốc dân mong chờ và tin tưởng ở những vị trí lãnh đạo đủ thiện chí, đủ nhiệt thành và nhất là đủ tài năng.
Mục Tiêu Thứ Hai: Thanh toán trà trộn giữa cơ quan với cơ quan.
Sự trà trộn của cơ quan Pháp với cơ quan Việt Nam, phải được giải quyết nhanh chóng, nhất là về phương diện hình thức để thức động tâm lý dân chúng.
Việc nầy liên hệ đến mục tiêu thứ nhất vừa kể trên và có thể chính phủ sẽ thực hiện được dễ dàng.
Thanh toán sự trà trộn giữa những cơ quan có ích và cơ quan vô ích.
Cơ quan vô ích là những cơ quan thành lập với mục đích tượng trưng, che đậy một tác dụng hay một thủ đoạn chính trị riêng để phục vụ cho một cá nhân hay một nhóm người.
Sự tồn tại hoặc phát hiện của những cơ quan vô dụng như trên sẽ làm thương tổn đến chính phủ về hai phương diện: Phương diện uy tín và phương diện tài chính.
Mục Tiêu Thứ Ba: Hạn chế sự trà trộn giữa cá nhân với cá nhân.
Phân loại rõ ràng và cố gắng áp dụng ‘’Công bình linh động’’ trong các ngành hoạt động.
Từ bỏ chính sách để những kẻ làm nhiều hưởng ít, làm ít hưởng nhiều đến nỗi xảy ra khích bác nhau, mâu thuẫn nhau, do đó địch sẽ lợi dụng được.
Từ bỏ chính sách để người kém chỉ huy người tài. Lối làm việc ngược chiều này đem lại tinh thần bất mãn và tiêu cực.
Từ bỏ cố tật hình thức và luật lệ ‘’Sống lâu lên lão làng’’ để sử dụng được khả năng của những người trẻ tuổi hợp thời hơn. Như vậy, tức là chính phủ chú ý đến lợi ích quốc gia dân tộc hơn lợi ích của lớp người lỗi thời theo luật đào thải thiên nhiên (Tất nhiên chính phủ phải có biện pháp thanh toán cho hợp lý và nhân đạo).
Từ bỏ mọi nguyên tắc cố định khiến cho kẻ kém dựa vào đấy để lẫn lộn với những người có thiện chí làm việc.
Công Bình Linh Động có phải áp dụng theo một phương châm cách mạng (‘’Làm việc theo sức khỏe. Hưởng thụ theo tài năng’’)?
Không hẳn thế!
Công Bình Linh Động chỉ dung hòa quyền lợi mà không cách mạng quyền lợi. Công việc tế nhị này sẽ làm phấn khởi những tài năng non trẻ đầy thiện chí, tránh được vàng thau lẫn lộn, tăng thêm uy tín cho chính phủ.
Mục Tiêu Thứ Tư: Dứt khoát trong tư tưởng.
Hiện nay dân chúng Việt Nam có những người đã quyết tâm phục vụ chính nghĩa quốc gia. Chính phủ cần chú ý khai thác cho được khả năng họ.
Những người lừng chừng hiện nay chiếm đa số ở Việt Nam:
– Lừng chừng không tham gia chính phủ.
– Lừng chừng trong khi hoạt động cho chính quyền quốc gia.
– Lừng chừng trong quân ngũ.
– Lừng chừng, thờ ơ trước thời cuộc, lãnh đạm trước mọi biến chuyển, mặc thời gian trôi v.v…
Chính phủ đã không khai thác được sáng kiến và khả năng của họ. Họ lãnh đạm, tắc trách cho qua ngày, hoàn toàn gạt trách nhiệm chiến tranh cho một nhóm người mặc dầu họ đã cảm thấy rằng chính nghĩa không những đang nuôi sống họ mà có lẽ còn đang xếp đặt cho họ một đời sống tự do, phong phú. Tư tưởng giao động lừng chừng của họ do hai yếu tố khách quan: Một tương quan lực lượng quốc gia-cộng sản còn chênh lệch, hai liên hệ Pháp-Việt chưa dứt khoát hẳn hoi.
Chính phủ nên chú ý thanh toán vấn đề tư tưởng để họ được ngã ngũ phụng sự chính nghĩa.
Thanh toán không phải là loại trừ ra khỏi hàng ngũ mà là tiêu diệt tư tưởng ngược chiều còn dư lại trong đầu óc, làm phát triển tư tưởng đúng đắn để mọi cá nhân sẽ trở nên quả quyết và mạnh dạn phục vụ chính nghĩa.
Có phải chăng chúng ta bắt chước cộng sản mà muốn nên lên một công tác ‘’Chỉnh Huấn’’ không?
Không phải. Bởi vì phong trào chỉnh huấn phải do một kết quả qua chuỗi thời gian và hoạt động có liên hệ dính líu đến kỳ chín mõm trong tâm lý con người, nó tự nhiên bộc lộ, chỉ cần khe khẽ thúc đẩy thôi.
Chính phủ phải có phương pháp tuyên truyền thích hợp và ráo riết. Chính phủ phải thi hành gương mẫu ở mọi phương diện.
Địa hạt tuyên truyền rất rộng rãi, không phải chỉ thu hẹp trong vài việc thông tin, giải thích, sách báo, chiếu bóng v.v…là đủ.
Tuyên truyền kết quả nhất là thực hiện được những ước nguyện của dân là nâng cao dược mức sống của dân, là tạo được bầu không khí tự do thực sự cho dân dễ dàng sinh tồn, nảy nở…
Nói tóm lại, chính phủ phải thức tỉnh lòng tín nhiệm của nhân dân để nhân dân ủng hộ chính nghĩa một cách cụ thể hơn, phải làm cho người dân hiểu rằng họ hoạt động cho chính nghĩa tức là họ hoạt động cho chính đời sống riêng của họ.
Với những người còn rụt rè, e ngại, lẽ dĩ nhiên chính phủ khó mà thúc đẩy sự hăng hái đến mức độ mong muốn nhưng không phải vì vậy mà không thể tiến tới đả phá tư tưởng rụt rè của họ. Kinh nghiệm chiến tranh từ 1946 đã cho biết trước mọi nguy cơ đến tính mạng, những người nhút nhát nhất có thể trở nên vô cùng can đảm, trước mọi nguy cơ sinh kế những người e lệ nhất có thể trở nên liều lĩnh, ranh mãnh, quả quyết. Với tài năng tháo vát của chính phủ, chúng ta ước mong sẽ thừa dư kế hoạch để kiến tạo và nhào nặn một tâm lý thuần nhất trong dân chúng.
Từng nhóm hoặc từng người nhiệt thành phụng sự riêng lẻ chưa đủ, cần phải phát huy được sáng kiến của quảng đại nhân dân, nếu không làm được như vậy, sự thất bại sẽ đều chẳng chóng thì chầy.
Phương Châm Thứ Hai: Phát Triển Chủ Lực Quân Quốc Gia:
Những Lenin, Stalin đã phân loại và phát triển chủ lực quân cách mạng. Chủ lực quân cách mạng của Lenin, Stalin là đội công nhân tiền phong, loại người đông đảo trong một quốc gia kỹ nghệ hóa. Những Mao Trạch Đông, Hồ chí Minh cũng đã phát triển được chủ lực quân cách mạng. Chủ lực quân của Mao Trạch Đông, Hồ chí Minh là nông dân, lớp lao công đồng ruộng đông đảo trong các quốc gia chuyên sống về nông nghiệp lạc hậu.
Về phía chúng ta, phát triển Chủ Lực Quân Quốc Gia phải có nghĩa là đoàn kết, thống nhất qua giai cấp, tập hợp tất cả những lớp người, vì lý do khác, không bằng lòng sống dưới chế độ độc tài vô sản.
Trên nguyên tắc, chúng ta có thể thực hiện được việc đó không?
Rất có thể được vì những điểm sau đây:
– Hiện tượng hoạt động của một lực lượng thứ ba trên thế giới.
– Hiện tượng phóng khoáng của chủ nghĩa dân chủ Hoa Kỳ.
– Hiện tượng tồn tại của nền Vương chế Anh-cát-lợi.
– Hiện tượng tồn tại của chủ nghĩa tự do Pháp.
Nếu trong phe cộng sản họ lý luận rằng những hiện tượng ấy sẽ không thể tồn tại thì họ cũng không thể nào chối rằng hiện nay không có những hiện tượng đó. Hơn nữa, người ta biết rằng những hiện tượng đó vẫn nảy nở ngay giữa lúc chủ nghĩa xã hội đang thắng lợi ở Nga Sô.
Malenkov cũng như Stalin đã chẳng từng tuyên bố rằng chủ nghĩa xã hội (cộng sản) có thể chung sống với chủ nghĩa tư bản?
Nhiều người đã cho câu nói đó chỉ là một chiến thuật trong chiến lược đấu tranh chính trị, nhưng người ta phải nhận thấy rằng Nga Sô đã cảm thấy sức sống của những người tự do trong thế giới, một sức sống vẫn vươn lên mà chưa hề tàn héo.
Những hiện tượng trên đã khiến cho người Quốc Gia Việt Nam tin tưởng rằng tư tưởng nhân loại luôn luôn khoáng đạt, đã tự nó phát sinh một cách thăng bằng. Chúng ta quan niệm tư tưởng đây là con đẻ của mọi sự kiện khách quan đã từng đem đến cho nhân loại tất cả nỗi niềm cay đắng hay vui thú, đã từng du nhân loại đến hoàn cảnh nguy kịch, bạo động an toàn…
Người cộng sản vẫn thường nói một cách tự cao rằng hành động của họ cốt đạt đến mục đích hòa bình nhân loại nhưng thực ra, trên thực tế, những hành động cũ đã đưa đến chiến tranh. Bởi vì chính cộng sản đã lãnh đạo và thúc đẩy đấu tranh giai cấp, đề cao một giai cấp để quyết tiêu diệt các giai tầng khác tính chất. Muốn dành quyền sống tự do, những người không cộng sản bắt buộc phải chống lại. Do đó, chiến tranh.
Có lẽ phe cộng đã thấy rõ như vậy, nên ngày nay đã thay đổi đường lối?
Người Quốc Gia Việt Nam cần phải lợi dụng ngay sự hòa hoãn tư tưởng hiện nay trên thế giới để đặt vấn đề tại địa phương nhà.
Vấn đề đó là: Gây lực lượng bản thân.
Nước Việt Nam cần phải có một Chủ Lực Quân Quốc Gia vững trãi.
Chủ Lực Quân Quốc Gia là gì?
– Là sự thống nhất các đảng phái thuần túy Quốc Gia.
– Là sự tập hợp tất cả những người đã tỏ thái độ dứt khoát trước thời cuộc.
– Là tuyên truyền giác ngộ chính nghĩa cho quần chúng.
Chủ Lực Quân Quốc Gia không phải là một giai cấp riêng biệt mà là sự tập hợp qua các giai cấp của tất cả những người đã quyết tâm phục vụ chủ nghĩa quốc gia.
Mọi tầng lớp xã hội sẽ góp phần nhiều của mình để phụng sự chính nghĩa.
Cấu tạo Chủ Lực Quân có phải là chúng ta đã quyết chiến với việt cộng không?
Đúng!
Nhưng, quyết chiến không nhất thiết là phải tổ chức đạo quân ra trận tiền. Chiến tranh mấy năm nay đã đem đến cho gia đình Việt Nam bao đau thương tang tóc.
Chóng, chày, cuộc chiến tranh sẽ phải ngừng và máu người Việt Nam sẽ thôi không phải chảy.
Như vậy Chủ Lực Quân Quốc Gia có nghĩa là một cơ cấu võ trang bằng chính nghĩa, bằng lý tưởng Quốc Gia…Một ngày gần đây, khi chiến tranh hoặc hoãn hay không hoãn trên đất Việt, đạo quân ấy sẽ gồm những người lính tiên phong hướng dẫn làm nòng cốt cho trận đấu tranh Chính Trị và Kinh Tế. Nếu việt cộng quả quyết rằng đường lối của họ đúng, nếu họ quả quyết rằng họ sẽ mang lại cơm áo, sung sướng cho nhân dân, Chủ Lực Quân Quốc Gia sẽ đi tiên phong trong công cuộc thi đua với họ.
Nếu chúng ta phát triển được đức hạnh, nếu chúng ta duy trì được Tự Do và Dân Chủ đúng mức, dung hòa được quyền lợi nhân dân, nếu chúng ta kiến tạo và phát huy được nền kinh tế quốc gia, văn minh hóa được đời sống vật chất và tinh thần dân chúng, chắc chắn chúng ta sẽ được dân chúng mến phục và ủng hộ. Nắm được dân chúng tức là xua đuổi được chủ nghĩa cộng sản.
Muốn thực hiện được nhiệm vụ vĩ đại ấy và để khỏi là những người thua cuộc cuối cùng, chúng ta phải chuẩn bị ngay một thực lực chắc chắn.
Thực hiện được Chính Sách Dứt Khoát.
Theo sát được phương châm Thanh Toán Trà Trộn.
Cấu tạo được Chủ Lực Quân Quốc Gia vững mạnh, tức là chính phủ quốc gia đã ném được trái cân ngang bằng với trái cân cộng sản ở Việt Nam và đó là kết quả căn bản đầu tiên quyết định thắng lợi cuối cùng.