When they asked me what I loved most about life, I smiled and said you.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Nghiêm Kế Tổ
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 36
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4219 / 52
Cập nhật: 2016-06-09 04:42:14 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 25: Phải Chiếm Lấy Quyền Chủ Động
‘’Ngày hôm nay tôi có thể cho các bạn biết rõ một ý kiến. Về phương diện quân số và dụng cụ, tôi đã được thêm những tăng viện để tôi thành lập nhiều toán lưu động mới nữa và tăng thêm các khả năng của tôi về việc chuyên chở bằng không vận và thủ vận. Rồi đây có thể sẽ có nhiều cuộc hành quân bộ quan trọng bằng đường sông và đường biển hoặc bằng đường hàng không. Về phương diện tài chính, tôi sẽ có các phương tiện để duy dưỡng đoàn quân viễn chinh và phát triển các quân đội liên kết một cách khả quan.
Chỉ mấy tháng nữa sẽ thấy rõ tương lai.
Từ nay đến ngày ấy, chúng ta sắp phải vượt qua một giai đoạn mà lúc này tôi nói với các bạn.
Chúng ta sắp bước vào thời kỳ của những cuộc hành binh lớn. Tôi nói cho các bạn biết rõ ý tôi muốn. Những cuộc hành binh đó phải được điều khiển như thế nào và ban cho các bạn ở tất cả mọi cấp bậc ‘’khẩu hiệu’’ của tôi.
Về chiến dịch mùa Thu năm 1950, Thống Chế De Lattre đã ban cho các bạn câu châm ngôn của Thống Chế để làm khẩu hiệu. Câu châm ngôn đó là ‘’Không cam chịu’’. Năm nay, 1953, trước khi một chiến dịch mới bắt đầu, tôi cũng cảm hứng về khẩu hiệu của Thống Chế mà ban cho các bạn một khẩu hiệu, cũng như Thống Chế, tôi bảo với các bạn phải ra tay trước, phải hành động nhanh hơn đối phưng, phải điều khiển chiến trận.
Khẩu hiệu đó là: Quyền chủ động.
Cũng như mọi năm, chắc chắn là đối phương đợi hết mùa mưa để phóng ra những cuộc hành binh lớn. Họ trông mong vào ảnh hưởng của một đòn ồ ạt và đột ngột như thường lệ để nắm và giữ vững lấy quyền chủ động.
Ở cấp bực nào chúng ta cũng phải chống lại đòn đó. Ở cấp bực tôi, tôi sẽ nắm lấy quyền chủ động bằng cách phóng ra những cuộc hành binh lớn vào lúc và vào nơi mà tôi sẽ lựa chọn.
Ở cấp bực phụ trách một lãnh thổ, một khu, một tiểu khu, các bạn sẽ nắm lấy quyền chủ động bằng những cuộc hành binh điều động tất cả các lực lượng trừ bị địa phương, thi hành điều động tất cả các lực lượng trừ bị địa phương, thi hành theo cùng một nguyên tắc nhưng mau chóng và kịp thời hơn bởi vì những cuộc hành binh đó sẽ được phóng ra theo các tin tức, tài liệu mà ta có thể lợi dụng ngay được liền đó.
Ở cấp bực trung, khi nào hành động của các bạn được, liền liền không một lúc nào ngưng, hình thức hành động đó được luôn luôn thay đổi, toàn có tính cách tấn công cho đến khi Việt Minh cảm thấy thật sự là bị săn đuổi, khi mà trong lúc giáp chiến các bạn đã biết đả kích đối phương bằng chuyển dịch bằng hành binh của các bạn hơn là bằng hỏa lực các trọng pháo của các bạn, ấy là các bạn đã nắm quyền chủ động rồi đó.
Nắm lấy quyền chủ động, tương đối rất dễ. Nhưng muốn giữ được nó thì phải luôn luôn cố gắng vì đối phương sẽ huy động hết mọi phương tiện của họ, tìm hết mọi mưu kế để đạt lại nó khỏi tay chúng ta.
Tôi không cho rằng ở địa vị tôi, tôi sẽ không có lúc nào phải cam chịu quyền chủ động của đối phương. Tôi tin chắc rằng có lúc tôi sẽ phải chịu những miếng đòn của họ, sẽ phải chống đỡ những hành động của họ, phải bồi đắp nhiều chỗ khuyết. Nhưng lúc nào tôi cũng tìm cách và càng mau chóng càng hay, phóng ra những cuộc trả đòn khiến cho tôi lại điều khiển được chiến cuộc.
Ngay ở cấp bực các bạn, thường thường các bạn cũng sẽ phải ‘’chịu đựng’’ đối phương. Đối phương sẽ cướp mất của các bạn nhiều đồn, sẽ phục kích các bạn nhiều trận, sẽ tấn công các đoàn vận tải của các bạn, sẽ phá hủy các đường giao thông của các bạn. Chúng sẽ tìm cách phân tán sự hoạt động của các bạn cho đến khi nào trong đầu óc các bạn chỉ còn có một tư tưởng: Phải đỡ đòn. Các bạn sẽ phải lâm vào thế thủ. Nhưng dù có gặp những trường hợp đó, nhất là trong trường hợp đó, các bạn cũng vẫn phải giữ vững thế công, vì đó là phương sách duy nhất để nắm lấy quyền chủ động.
Những phương thức ấy thật giản dị, tôi muốn nói: Thật là đúng với nguyên tắc, nhưng nhắc lại những phương thức ấy không phải là vô ích.
Nếu trong khi chiến đấu, các bạn được lệnh phải giữ vững thì các bạn phải giũ vững nhưng chỉ giữ với một phần các phương tiện của các bạn mà thôi. Phần đó sẽ dùng hỏa lực kìm đối phương tại chỗ trong hệ thống bố trí, phần đó là khối bất động.
Bao nhiêu phương tiện của các bạn còn lại phải giữ tính cách lưu động và tập trung sẵn sàng đánh vào nhược điểm của đối phương, sẵn sàng phản công hoặc vào sườn chúng hoặc vào hậu vệ trực tiếp của chúng.
Lực lượng trừ bị lưu động đó, ở cấp bực nào, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn v.v…cũng đều phải có và xuất hiện bằng những hành động ác liệt, những cuộc di chuyển mau lẹ.
Như vậy các bạn sẽ phải vừa đánh, vừa lui để chịu đựng một cuộc va chạm cực mạnh mà không bị tan rã (lấy mềm trị cứng). Trong trường hợp đó, các bạn sẽ áp dụng những phương pháp như trên. Ngay cả trong lúc rút về, các bạn vẫn cứ giữ thế công. Một phần các phương tiện chiến đấu của các bạn vừa đánh vừa lui nhưng phần còn lại sẽ hoạt động, hành động trong sự chuyển dịch tiến thoái của mình, đánh những đòn thật lẹ và thật mạnh, nó sẽ chận đứng được đà tiến của đối phương và làm đảo lộn được sự bố trí tấn công đối phương. Họ sẽ mất nhuệ khí và mất cái thế lợi hại của họ. Lúc Đó là lúc có thể phản công được họ và đánh bại được họ.
Bất cứ lúc nào và bất cứ trong hoàn cảnh nào cũng cần phải hoạt động. Ở Đông Dương, người ta đánh giá một đơn vị theo tinh thần lưu động của nó. Tính cách ấy chứng tỏ rằng đơn vị ấy đã thiện chiến (theo ý nghĩa đầy đủ của danh từ này) nghĩa là đã rũ sạch những hành lý không cần thiết, chỉ giữ lại cái gì cần để có đủ sức mạnh thôi.
Điều kiện thứ nhì để giữ vững vai chủ động là phải hành động trong sự vững chắc. Một đơn vị trong bất cứ trường hợp nào cũng phải đề phòng.
Lúc đóng binh, ngoài những phương pháp tĩnh động thông dụng, một đơn vị còn cần phải tỏ ra có óc suy tính cho những toán tuần thám nhẹ và mai phục gần hay xa chỗ đóng binh tùy theo địa thế, phải tìm ra những mưu chước mới mẻ.
Khi đóng binh, đề phòng tức là lập lại cách bố trí tiền phong, trắc vệ và hậu tập, mà phải làm sao cho hợp với tính cách riêng biệt của trận chiến tranh này. Ở đây cũng vậy, cần phải biết suy tính.
Nói tóm lại, muốn chiếm và giữ vai chủ động cần phải có gan dạ, biết suy tính, có ý chí.
Có gan dạ để bỏ những thói quen cũ rích, những cách dàn binh quen thuộc (người ta cho là đã đem dùng có hiệu quả rồi) mà nếu đem ra dùng lâu thì sẽ bị tai hại.
Biết suy tính để thay thế những cách bố trí cũa bằng những phương thức mới giúp cho ta bắt trọn quân địch và sẽ được thắng lợi.
Và có ý chí để cố gắng mãi mãi.
Sau hết xin các bạn đừng quên rằng sáng kiến là một đức tính của người Pháp’’.
Đại Tướng Navarre, khi phác họa kế hoạch, đã không quên vạch rõ từ những nét lớn đến những nét nhỏ chi tiết trong nghệ thuật trong nghệ thuật dùng binh, từ chiến thuật cần phải áp dụng ở cấp Tướng đến chiến thuật cần phải theo ở cấp hạ sĩ trong các tiểu khu, lúc công lúc thủ…tất cả để đạt mục tiêu chiến lược giành lại quyền chủ động.
Ngày 3 tháng 10.1953, một trận nhảy dù đánh úp vô cùng táo bạo của 46 binh sĩ Mèo, Thái xuống Cóc Lếu-Lào Kay đã phá sập được chiếc cầu chiến lược của Việt Minh dùng trong việc chuyên chở quân nhu vũ khí do Trung Cộng tiếp viện.
Mặc dầu đơn vị nhảy dù Mèo, Thái chỉ chiếm đóng được ở Cốc Lếu có 3 tiếng đồng hồ, trận đánh úp đó cũng đã chứng tỏ rằng hậu tuyến của quân đội họ Võ còn mỏng manh, vẫn thường có mặt những ổ du kích quan trọng của dân tộc Mèo, Thái…
Với Đại Tướng Navarre, cựu chỉ huy du kích quân của nước Pháp, Việt Minh bắt đầu thấy mất độc quyền về phương diện chuyên môn sở trường của họ: Du kích chiến và tình báo chiến.
TỪ TRẬN MOUETTE ĐẾN PHÁO LŨY ĐIỆN BIÊN PHỦ
Cuộc tấn công mãnh liệt của Hải-Lục-Không Quân Pháp sau trận Hòa Bình: Hành binh Mouette đánh Thanh Hóa, đã là một hành động cụ thể và quyết liệt sau những lời tuyên bố giải thích đầy hứa hẹn của Đại Tướng Navarre về quyền chủ động chiến trường.
Thanh Hóa một vùng gạo trắng nước trong, một địa điểm vô cùng trọng yếu của bộ tư lệnh Việt Minh Liên Khu 4.
Trong một khoảng 255.000 mẫu tây đất rộng, dân chúng ở Thanh Hóa, với số lượng gần 1.000.000 người đã chia làm ba loại:
– Giáo dân miền Duyên Hải.
– Dân thiểu số miền rừng núi Thượng Thanh.
– Dân tiểu thương, nông gia (chừng nửa triệu) sống ở khu vực trung tâm tỉnh.
Mùa Đông năm 1948, những đơn vị Liên Hiệp Pháp đã một lần đổ bộ lên vùng Cầu Giát (cách Thanh Hóa 70 cây số về phía Nam). Trận Cầu Giát đã làm tỉnh đội bộ Việt Minh Thanh Hóa phải chịu đựng nhiều tổn thất.
Mùa Đông năm 1949, một đầu cầu của Liên Quân Pháp-Việt được thiết lập phía cực Nam Giáo Khu Phát Diệm. Phản ứng của bộ tư lệnh Liên Khu 4 là việc cấp tốc phái hai tiểu đoàn chủ lực khu ra chặn giữ danh giới Thanh Hóa đối diện với vùng Phát Diệm.
Để chuẩn bị đề phòng, bộ tư lệnh Liên Khu 4 đã phát triển tăng cường canh gác suốt dọc duyên hải và miền ruộng muối Quỳnh Lưu.
Muốn toàn thiện hệ thống phòng ngự miền Duyên Hải, Việt Minh tổ chức một cơ quan đặc vụ chuyên môn thu thập tin tức về các sự đi lại của những chiến hạm Pháp ngoài khơi và ngăn ngừa phản động lực của những làng theo Gia-Tô-Giáo.
Ngoài công an đặc vụ còn có dân quân, du kích quân và các đơn vị địa phương quân luôn luôn hoạt động kiểm soát chặt chẽ.
Việt Minh bỏ lỏng bờ biển (không có các tiểu đoàn thiện chiến và pháo binh đóng giữ), một là để tránh thiệt hại có thể gây nên do pháo lực của chiến hạm Pháp, hai là có ý muốn giữ Liên Quân Pháp-Việt vào sâu trong đất liền rồi mới nói chuyện sau.
Thanh Hóa của Liên Khu 4 với hàng vạn quân chính quy thuộc những sư đoàn tinh nhuệ 304, 320 với hàng vạn địa phương quân chủ lực tỉnh, chủ lực huyện v.v…đã chịu đựng trận tấn công vĩ đại của quân đội Pháp: Hành binh Mouette.
Nào Hải Quân của Đô Đốc Querville rập rình đổ bộ ngoài khơi Thanh Hóa (hành quân Pélican). Nào Lục Quân của Tướng Gilles xuất phát từ Đồng Bằng Bắc Việt tiến vào Bỉm Sơn, Yên Xá, vào dẫy núi đá vôi bên giòng sông Đáy…Nào Không Quân của Tướng Dechaux yểm hộ, tiếp tế dẫn đường…Tất cả đều dưới quyền điều khiển trực tiếp của Trung Tướng Cogny, một vị Tướng đã có nhiều thành tích oanh liệt.
Sau 23 ngày hành binh, từ 15 tháng 10 đến 8 tháng 11.1953, Liên Quân Pháp-Việt đã đạt được những kết quả gì?
Đây là bản nhận định của những nhà chỉ huy quân sự Pháp:
‘’Cuộc hành binh Mouette không hề nhằm mục đích chiếm đóng vĩnh viễn đất đai. Vùng Phủ Nho Quan không có lợi gì cho chúng ta cả. Việc chiếm đóng Thanh Hóa chưa được đề cập tuy rằng nó quan trọng hiển nhiên nhưng sau này việc chiếm đóng ấy vẫn có thể tính đến. Chúng ta đã dùng thủy quân đánh nghi binh vào miền Duyên Hải Thanh Hóa để đánh lừa Việt Minh, quả nhiên Việt Minh đã bị lừa và ta đã đạt được mục đích.
Mục tiêu chính của cuộc hành quân Mouette là làm ngăn trở mọi kế hoạch của đối phương bằng cách ta nắm quyền chủ động khởi tác chính lúc Việt Minh sắp sửa ra tay tấn công. Mục tiêu này đã thực hiện được.
Ngày 15 tháng 10 là ngày tấn công, sư đoàn 320 đã sẵn sàng ở điểm khởi cứ. Thế rồi họ phải bỏ cuộc tấn công mà lui về thế thủ. Điểm khởi cứ của họ bị rối loạn, sư đoàn 320 bị tổn thất lớn lao và lâu lắm họ mới có thể có sức tấn công được. Nên nhớ là tất cả kế hoạch của Việt Minh đều trông cậy ở cuộc tấn công của sư đoàn 320 là hàng ngũ tiên phong cho sức tấn công của họ.
Mục đích thứ hai của hành binh Mouette là ngăn chận Việt Minh không cho tiếp tế vào phía Nam, mục tiêu này cũng đã đạt được vì các đường giao thông bị cắt đứt ở Lai Các đã buộc đối phương phải sửa soạn một con đường khác để tiếp tế Thanh Hóa và Trung Việt. Con đường này phải tuần lễ nữa mới làm xong.
Mục tiêu thứ ba là gây thật nhiều tổn thất cho toán quân đối phương uy hiếp cả mặt Nam-Trung-Châu. Về phương diện này, ta chỉ đạt được một phần kết quả. Sư đoàn 304 không chịu ra mặt. Nhưng sư đoàn 320 sau khi không chịu ra mặt đã tấn công nhiều lần. Những trận đánh này rất kịch liệt, có khi giáp la-cà, nhưng đều có lợi cho chúng ta.
Việt Minh tổn thất cả thẩy 1141 người bị giết, 179 bị bắt tù binh, tịch thu 450 vũ khí tự động, bách kích pháo, đại bác 75, đại bác 57…Theo lời khai của tù binh và không quân Liên Hiệp Pháp, Việt Minh có thể tổn thất tổng số đến 1.500 người. Chúng ta không biết rõ số các binh sĩ Việt Minh bị thương nhưng theo mức xuất tỷ lệ thông thường thì cứ một tử sĩ là có ba thương binh, vậy số thương binh Việt Minh có thể ước ít nhất vào khoảng 4.000 người.
Số tổn thất về phía chúng ta tuy khá quan trọng song so với đối phương thì rất ít ỏi.
Trận Mouette mở đầu một chiến thuật phản công mới, đã hoàn toàn có kết quả. Tiếp diễn trong những hoàn cảnh đã định đoạt từ trước và đã mang lại những kết quả mà Bộ Tư Lệnh trù đợi. Trong số 2 sư đoàn Việt Minh mà chúng ta dòm ngó đó, thì một không chịu ra mặt, một đã bị thiệt hại nặng nề. Cả hai sư đoàn đã bị đứng ngoài vòng chiến trong một thời gian khá lâu còn một sư đoàn thì bị chúng ta cầm chân ở Thanh Hóa.
Về phía hậu tuyến của chúng ta, tình hình gần hoàn toàn yên tĩnh. Được thế là nhờ một phần lớn các trận tảo thanh trước đây.
Đối phương lại một lần nữa phải đổi lại hết kế hoạch, bây giờ ta đã gần đến trung tuần tháng 11 mà Việt Minh vẫn chưa khởi công. Năm ngoái mới cuối tháng 9 họ đã bắt đầu tấn công và độ khoảng 8 tháng 10 họ đã đạt được những kết quả hẳn hoi nhờ được cuộc chiếm đóng Nghĩa Lộ.
Do cuộc hành binh Mouette này, người ta nhận thấy những hậu tuyến, những đường giao thông cũng như những điểm khởi cứ của Việt Minh đều không phải là bất khả xâm phạm. Chiến thuật đột kích tấn công của chúng ta khởi từ những căn cứ vững chắc đã khiến đối phương phải xuất trận. Còn như trước kia trận Hòa Bình và Nà Sản cũng như trận tấn công thứ nhất của quân đội lưu động chúng ta trong giai đoạn đầu tiên của cuộc hành binh Mouette lại làm cho họ nhất định không chịu xuất trận.
Tuy vậy những kết quả vừa kể không có nghĩa là chúng ta từ nay sẽ bớt phần khó khăn. Đối phương sẽ huy động tất cả để báo thù. Trừ sư đoàn 320, các lực lượng khác của Việt Minh đều gần nguyên vẹn. Chiến sự Thu-Đông sắp gay go lắm nhưng chúng ta rất vững lòng tin tưởng. Chúng ta đã bắt đầu một các tốt đẹp và thời gian hiện đang có lợi cho chúng ta’’.
Sau hành binh Mouette lại tiếp đến trận Castor, ‘’ván bài thứ hai’’ của Đại Tướng Navarre tái chiếm Điện Biên Phủ, một thị trấn cách Tỉnh lỵ Lai Châu độ 100 cây số về phía Nam và cách Hà Nội 300 cây số về phía Tây.
Điện Biên Phủ, vùng lòng chảo đầy ngô và lúa lốc thuộc xứ Thái trước đây đã phải rút lui trước những cuộc tấn công đe dọa của Việt Minh (tháng 4.1953).
Ngày 20 tháng 11.1953, Tướng Cogny, Tư Lệnh Bắc Việt lại mở một cuộc hành binh to lớn, với hàng mấy ngàn binh sĩ nhảy dù chiếm lại Điện Biên Phủ.
Là một cuộc hành binh táo bạo, trận Castor đã được chia ta thành từng chặng:
– Chặng thứ nhất hành động bất thần của hàng ngàn quân nhảy dù để kiểm soát và làm chủ chiến trường trong khu vực lòng chảo của Thị Trấn.
– Chặng thứ hai, thiết lập một trung tâm hấp dẫn về phương diện chính trị và bình trị thay thế cho Thị Trấn Lai Châu bị đe dọa. (cuộc hành quân Pollux rút bộ đội từ Lai Châu về Điện Biên Phủ ngày 9.12.53).
Trận Castor được tiếp tục bằng nỗ lực chuyển Điện Biên Phủ thành một pháo lũy cố thủ mạnh mẽ, một thủ đô mới của xứ Thái.
Nhìn chung trên chiến trường toàn diện, những cuộc hành binh mới đã nhằm mục đích gì?
Trước hết ai cũng nhận thấy quân đội Liên Hiệp Pháp đang cố gắng theo đuổi mục đích chính: Giành quyền chủ động đã mất từ lâu.
Giành quyền chủ động! Kế hoạch nhằm mục đích đó tiến từ Hirondelle-Camargue-Nà Sản đến Mouette, Castor…Liên Quân Pháp-Việt đã nắm được quyền chủ động về chiến thuật.
Nhưng sự thật, trận Mouette và Castor ngoài ra còn ẩn mục đích gì khác?
Trước hết, về mặt chiến lược, Liên Quân Pháp-Việt muốn ngăn cản Việt Minh không cho họ tiếp tục mở chiến dịch Ai Lao. Mất Ai Lao, vùng Đông Nam Á sẽ bị lũng đoạt. Ý định thôn tính Ai Lao của Việt Minh đã được báo hiệu bằng trận đánh bỏ dở nửa chừng hồi tháng 4 năm 1953.
Muốn gìn giữ Ai Lao, Đại Tướng Navarre đã áp dụng một kế hoạch gồm hai trận lớn:
– Trận thứ nhất, Mouette, một hành động, hai mục đích: Một là để ngăn chặn những sư đoàn 304, 325 tái diễn cuộc tiến quân trên đường Hoàng Hậu Astrid tràn sang Lào. Như vậy trận Mouette đã có tính chất của cuộc hành binh Hautes Alpes hồi đầu mùa Hạ 1952 và có thể nói là Mouette giống hệt trận Hautes Alpes nhưng to lớn hơn. Hai là phá kế hoạch xâm nhập Đồng Bằng Bắc Việt của các sư đoàn 320, 316. Như vậy, trận Mouette đã có tính chất của những cuộc hành binh tảo thanh Amphibie, Mercure hồi tháng 3 và 4 năm 1952 tại vùng ven bể Thái Bình, Nam Định…
Trận thứ hai, Castor, cùng một hành động hai mục đích. Một là việc thiết lập một trung tâm hấp dẫn chính trị và quân sự mới trong xứ Thái (như đã nói ở trên). Như vậy trận Castor đã có tính chất một cuộc hành binh chiếm đất. Hai là tạo thành một bức bình phong cố thủ, hy vọng ngăn chặn đường tiến quân của Việt Minh sang phía Thượng Lào.
Cuộc hành binh Ardèche của Đại Tá Boucher de Crèva Coeur đã tảo thanh và đẩy lui việt cộng từ Luang Prabang lên phía Bắc, dồn họ đến chân tường ‘’Castor’’ ở biên giới Việt-Lào. Như vậy, trận Castor rõ ràng đã nằm trong khuôn khổ của chiến thuật tảo thanh lớn trong xứ Lào (Ardèche càn quét miền Bắc Lào và Jura, cùng một thời gian, càn quét miền Trung Lào).
Tóm lại, những cuộc hành binh lớn dù sao vẫn còn do thế chủ động chiến lược của Việt Minh mà phát khởi. Thế chủ dộng nói chung chưa được ngang bằng, hãy còn ngã về phía Việt Minh. Liên Quân Pháp-Việt còn phải cố gắng nhiều.
Trong khi chủ lực quân đội tham dự những trận đánh lớn thì những đơn vị địa phương Pháp-Việt cũng mở nhiều trận tảo thanh có kết quả như trận Auvergne, Querey ở Nam Việt, trận Văn Cốc (tháng 11) và trận Gerfaut (hạ tuần tháng 12) ở khu vực Thái Bình-Bắc Việt.
Chiến tranh Đông Dương đang ở trong một giai đoạn khốc liệt. Cả hai bên đã cùng sử dụng hàng vạn người đủ vũ khí tối tân trong những trận đánh dữ dội kinh hồn.
Lên tiếng trong cuộc tranh luận về vấn đề Đông Dương tại Hội Đồng Cộng Hòa ngày 13 tháng 11 năm 1953, Thủ Tướng Pháp J. Laniel đã nhấn mạnh:
‘’Bản Tuyên Ngôn 3 tháng 7, kế hoạch Navarre, những sự xáo động trong nền chính trị Việt Nam đánh dấu một giai đoạn trong cuộc chiến tranh Đông Dương.
Nước Pháp phải bước vào giai đoạn này mà không có gì lo ngại, trong tay nắm đủ tất cả các phương tiện của mình và với một sự tin tưởng chắc chắn về chính nghĩa của mình…
…Cuộc hành binh Mouette là một cuộc hành binh có kết quả.
Đó là một điều có thật và tại sao lại không nói rõ được sự thật ấy? Nếu cuộc hành binh này thất bại thì người ta đã phải nghe biết bao nhiêu lời bình luận. Nhưng trái lại phải chăng đấy là một cách tốt đẹp hơn hết để dưng kính ý đối với những người đã hy sinh, là không im lặng về giá trị của sự hy sinh của các người ấy?
Từ 15 tháng 10 cho đến những ngày đầu tháng 1, cuộc hành binh đã làm cho sư đoàn Việt Minh thiệt hại nặng nề về người và về võ khí.
Kế hoạch của đối phương đã bị đảo lộn. Sư đoàn 320 đã phải gọi những tiểu đoàn của họ về trong khi tiểu đoàn này đang len lõi. Các căn cứ, những kho dự trữ của đối phương đã bị phá hủy một phần. Đối phương đã phải tái lập trực tiếp tế khác bằng những đơn vị khác.
Chúng ta có thể biết điều ấy mà khỏi cần phải biết rõ về số người bị thương và những sự thiệt hại nặng nề mà chúng ta biết đã gây nên cho đối phương bằng pháo binh và không quân.
Chúng ta dễ hiểu tỷ lệ giữa số thiệt hại của Việt Minh và của chúng ta vì giá trị của các chiến sĩ chúng ta và giá trị những khí cụ của chúng ta. Đó là vì Nghị Viện chưa bao giờ từ chối, những ngân khoản cần thiết để tiếp tục nỗ lực quân sự của Pháp ở Đông Dương và ưu thế của chúng ta cũng đã được tăng gia nhờ phần đóng góp quan trọng của Mỹ khiến cho tinh thần của các chiến sĩ chúng ta đã được bảo vệ và nâng cao cho đến ngày hôm nay.
Tôi có bổn phận nhắc lại một cách hết sức rõ ràng và cương quyết rằng chính phủ Pháp không coi vấn đề Đông Dương như là tất nhiên phải có một giải pháp quân sự. Cũng như người Mỹ ở Cao Ly, lúc lâm sự chúng ta sẽ không buộc đối phương phải đầu hàng rồi mới thương thuyết với họ. Cũng như nước Mỹ, nước Pháp không theo đuổi chiến tranh chỉ vì mục đích chiến tranh, và nếu có thể có một giải pháp vinh dự trong khuôn khổ địa phương hoặc quốc tế thì tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng cũng như người Mỹ ở Cao Ly, Pháp sẽ hoan hỷ tiếp đón một giải pháp ngoại giao cho chiến cuộc này.
Từ khi tôi tuyến bố công khai những lời ấy trên diễn đàn Quốc Hội ngày 27 tháng 10 vừa qua, ông Hồ chí Minh cũng như chính phủ Trung Cộng đều không hề trả lời gì cả.
Tuy nhiên, tỷ dụ xứ Cao Ly mà tôi đã dẫn ra hai lần chứng tỏ rằng chính phủ Pháp không hề tuyên bố một cách khinh xuất, và cũng như ở Cao Ly, chỉ cần đối phương thay đổi tâm trạng để cho những ý định của chúng ta thực hiện được.
Chính vào dịp tổ chức việc thương thuyết ở Cao Ly mà ông John Foster Dulles đã chủ trương việc tìm cách giải quyết ôn hòa vấn đề Đông Dương.
Chúng tôi cũng hy vọng như vậy. Chúng tôi cũng mong ước theo thể thức ấy. Tôi yêu cầu tất cả những người nỗ lực khuyến khích thực hiện hòa bình lập tức đừng lầm nữa. Bây giờ chỉ còn phải thuyết phục ông Hồ chí Minh. Nhưng không nên giải thích sai ý muốn hòa bình của tôi vừa phát biểu.
Tại Ba Lê có vài người nói và viết như là họ sẽ được ông Hồ chí Minh nghe lời, như là họ không nhận định những điều hy vọng mà những lời ấy đem lại cho đối phương sự tự do chỉ có Pháp mà thôi.
Bởi vậy tôi ngỏ lời kêu gọi khẩn khoản những người thường dùng những lời nói ấy nhất là trên mặt báo hay tại các hội nghị chính trị, bởi vì các người ấy giúp cho đối phương của chúng ta được thấy rõ một gương mẫu về tâm trạng của chúng ta, việc ấy rút cục giúp cho cuộc tranh chấp kéo dài mãi.
Trong lúc này, chúng ta đừng lầm tưởng trong cuộc chiến tranh này, những lợi khí của cuộc chiến tranh và những cuộc thương thuyết chỉ là một. Chúng ta càng mạnh mẽ càng có thể đương đầu mà không nao núng và những hy vọng giải quyết cuộc chiến tranh bằng đường lối ngoại giao sẽ trở nên lớn lao hơn.
Vì đó chúng ta có thể tán thành triệt để phần đóng góp thêm của Hoa Kỳ cho Đông Dương. Số tiền 135 tỷ phụ thêm này gồm hai ý nghĩa tượng trưng: Sự đồng ý của Tây phương về ý nghĩa của một cuộc chiến tranh đã bị các giới Anh Mỹ hiểu lầm và sự duy trì một mặt trận phòng thủ chung cho những quyền lợi của thế giới tự do.
Nguyên do chính làm cho đối phương mất tinh thần chính là việc Đồng Minh cũng quyết tân không để cho cộng sản mặc sức làn chủ miền xung yếu về mặt chiến lược ở Đông Nam Á.
Tôi quả quyết rằng đối phương hoàn toàn mất tinh thần và điều này làm tôi hoan hỷ.
Những nước bạn Việt-Mên-Lào chẳng nên giải thích một cách sai lầm ý chí hòa bình của chúng ta.
Đối với những nước này, một cử chỉ bỏ rơi của Pháp sẽ gây những kết quả bi thảm mà hiện nay không ai nhận lãnh trách nhiệm.
Nếu chính phủ Pháp phải chấp thuận một sự hòa hoãn để nghiên cứu một giải pháp hòa bình thì thế nào cũng phải có sự tham gia của các quốc gia liên kết mà chúng ta đã khiến cho 33 nước tự do nhìn nhận nền Độc Lập của các Quốc Gia ấy.
Nếu Đông Dương lọt vào tay Trung Hoa cộng sản, việc ấy sẽ gây nên sự xụp đổ của Thái Lan, làm tăng gia những trận đánh du kích ở Mã Lai, Tân Gia Ba bị hăm dọa. Ấn Độ và các nước Á Rập sẽ tới lượt phải lung lay rồi cả thế giới tự do sẽ bị dồn vào những căn cứ sau chót ở Úc Đại Lợi và Suez.
Đó là ý nghĩa cuộc chiến tranh của Pháp ở Đông Dương vì thế giới tự do. Chính phủ đề nghị với các ông theo một chính sách duy nhất có thể dung hòa phẩm giá của nước Pháp, sự tôn trọng những điều đã cam kết và sự cần thiết phải bảo đảm những gánh nặng trên nền tài chính và quân đội của chúng ta.
Nhưng, chính sách này phải là một điều có tính cách liên tục. Chính sách ấy ràng buộc các nước liên kết với chúng ta cũng như ràng buộc chính chúng ta.
Mỗi một phần tử phải nhìn thấy với nỗ lực của xứ lân cận, phần thưởng cho nỗ lực của chính mình. Chúng ta phải làm sao cho những nước Liên Kết với chúng ta được bảo đảm về một quyết định khích thích không co thể sửa chữa lại được.
Chúng ta phải rộng rãi ban nền Độc Lập mà chúng ta đã hứa. Chúng ta phải tỏ ra tha thiết với nền Độc Lập này cũng như những nước liên kết với chúng ta, vì nền độc lập ấy cần thiết cho chúng ta cũng như cho những nước liên kết, nhưng chúng ta có lý mà mong chờ những nước này nỗ lực ít nhất cũng như chúng ta.
Nếu trong những tháng tới, Việt-Miên Lào không tận lực lao mình vào một cuộc chiến tranh, ngày nay là cuộc chiến tranh của chính nước đó không biết làm cho quân đội của mình có một giá trị chiến đấu, nếu những nước đó không muốn tự cung cấp tài chính cho quân đội của mình, nếu vì một sự lỗi lầm mà tôi không chịu tin là có, những âm mưu bí mật hoặc hành động mị dân công khai làm cho những nỗ lực chung không đưa đến kết quả gì, thì lúc đó nước Pháp sẽ tự xét là không phải ràng buộc với những nghĩa vụ của mình nữa. Chính phủ sẽ rút ra những kết luận thích đáng và sẽ duyệt lại hết thẩy chính sách của mình’’.
Hai chữ Hòa Bình đã thấy được nhắc tới sau 7 năm trời đầy máu, lửa và nước mắt, 7 năm trời đầy tang tóc và chia ly, 7 năm tượng trưng cho giải pháp quân sự của cả hai bên đối thủ.
Đến nay, chiến tranh bước sang một giai đoạn mới, ác liệt hơn, dữ dội hơn và gần như tổng lực, nhưng để…có thể tiến đến một giải pháp Hòa Bình!
Dù sao, người Pháp cũng như người Việt vẫn đang phải tiếp tục đổ máu và còn phải đổ máu nhiều hơn nữa trong năm tới.
Việt Nam Máu Lửa Việt Nam Máu Lửa - Nghiêm Kế Tổ Việt Nam Máu Lửa