There is no way to happiness - happiness is the way.

There is no way to happiness - happiness is the way.

Thich Nhat Hanh

 
 
 
 
 
Tác giả: Jo Nesbo
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 52
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 31: David Hasselhoff
nh sáng buổi sớm chiếu thẳng xuống như một cây cột màu trắng xuyên qua lỗ thủng trên bầu trời và trút thứ mà Tom Waaler gọi là “Ánh sáng của Chúa” xuống vịnh. Có rất nhiều bức ảnh tương tự treo trên những bức tường ở nhà. Anh ta bước tới chỗ dải băng căng ra để cách ly hiện trường vụ án. Những ai nghĩ mình hiểu anh ta hẳn sẽ nói rằng tính anh ta thích nhảy chứ không phải chui qua. Họ nói đúng vế sau, nhưng trật lất vế trước. Tom Waaler không tin là có ai hiểu được mình. Và anh ta chủ định để cho mọi việc cứ diễn ra như vậy.
Anh ta nâng cái máy ảnh kỹ thuật số lên trước đôi kính râm cảnh sát có mắt kính màu xanh ánh thép, mà ở nhà anh ta còn cả tá. Món quà của một khách hàng tỏ lòng cảm kích. Thật ra cái máy ảnh cũng vậy. Khung hình thu lấy cái lỗ trên mặt đất và cái xác bên cạnh. Cái xác mặc quần vải đen và sơ mi từng có màu trắng, nhưng lúc này thì nhuốm màu cháo lòng vì cát và đất sét.
“Thêm một tấm ảnh nữa cho bộ sưu tập riêng của cậu hả?” Weber lên tiếng.
“Vụ này mới.” Waaler nói, vẫn không nhìn lên. “Tôi thích những vụ giết người sáng tạo. Ông đã xác định được danh tính của nạn nhân chưa?”
“Arne Albu. Bốn mươi hai tuổi. Đã có vợ và ba con. Có vẻ khá giàu. Anh ta sở hữu một căn nhà gỗ ngay phía sau kia.”
“Có ai nhìn thấy hoặc nghe thấy gì không?”
“Cảnh sát đang tới từng nhà để hỏi. Nhưng anh cũng thấy là ở đây vắng vẻ đến thế nào mà.”
“Biết đâu có ai đó ở trong cái khách sạn đằng kia?” Waaler chỉ về phía tòa nhà lớn có cánh cống gỗ màu vàng cuối bãi tắm.
“Không chắc lắm,” Weber nói. “Vào thời điểm này trong năm thì làm gì có ai ở đó.”
“Lại tìm thấy xác chết?”
“Một cú điện thoại nặc danh gọi từ một buồng điện thoại ở Moss. Tới đồn cảnh sát Moss.”
“Là kẻ giết người à?”
“Tôi không nghĩ thế. Anh ta nói anh ta nhìn thấy một đôi chân chổng ngược lên trong khi dắt chó đi dạo.”
“Họ có cuộc nói chuyện trên băng ghi âm không?”
Weber lắc đầu. “Anh ta không gọi vào số điện thoại khẩn cấp.”
“Ông hiểu chuyện này như thế nào?” Waaler ra hiệu về phía cái xác.
“Còn chờ các bác sĩ gửi báo cáo, nhưng tôi thấy có vẻ như anh ta đã bị chôn sống. Nhìn bên ngoài không thấy có dấu hiệu bạo lực, nhưng máu trong mũi, miệng và những mạch máu bị vỡ trong mắt cho thấy sự tích tụ máu ở đầu. Ngoài ra, chúng tôi còn phát hiện thấy cát chui sâu vào trong họng anh ta, có nghĩa là anh ta vẫn hít thở khi bị chôn.”
“Tôi hiểu. Còn gì khác nữa không?”
“Con chó vẫn được xích vào hàng rào bên ngoài căn nhà gỗ của anh ta ở phía trên kia. Một con Rottweiler to vật vã xấu xí. Khỏe kinh người. Cửa không khóa. Trong nhà cũng không có dấu hiệu vật lộn.”
“Nói cách khác, chúng đã xông vào nhà, dùng súng đe dọa anh ta, xích con chó lại, đào một cái hố và hỏi xem anh ta có thấy phiền nếu phải nhảy xuống đó không.”
“Nếu như bọn chúng có vài người.”
“Một con Rottweiler lực lưỡng, một cái hố sâu mét rưỡi. Tôi nghĩ là đã rõ như ban ngày, Weber ạ.”
Weber không phản ứng, chưa từng có vấn đề gì khi làm việc với Waaler. Anh chàng là một trong số ít những cảnh sát điều tra có tài; kết quả công việc của anh ta đã tự mình nói lên điều đó. Nhưng như vậy không có nghĩa là Weber phải ưa anh ta. Mặc dù “không ưa” thì cũng không hẳn. Nó là cái gì đó khác cái khiến người ta nghĩ tới trò phát hiện những điểm khác biệt giữa hai bức tranh. Người ta không chỉ ra được nó là cái gì, nhưng vẫn thấy bất an. Bất an, đúng là từ đó.
Waaler ngồi thụp xuống bên xác chết. Anh ta biết Weber không ưa mình. Cũng chẳng sao. Weber là một cảnh sát lớn tuổi làm việc ở Phòng Pháp y, chẳng có khả năng thăng tiến thêm nữa, không thể có chút ảnh hưởng gì tới sự nghiệp hay cuộc sống của Waaler. Nói ngắn gọn là ông không phải là người mà anh ta cần phải lấy lòng.
“Ai đã nhận dạng anh ta?”
“Vài người dân địa phương ghé qua,” Weber đáp. “Chủ cửa hàng tạp hóa đã nhận ra anh ta. Chúng tôi đã liên lạc với vợ anh ta ở Oslo và đưa cô ta tới đây. Cô ta đã xác nhận đây chính là Arne Albu.”
“Thế bây giờ cô ta ở đâu?”
“Trong căn nhà gỗ.”
“Đã ai thẩm vấn cô ta chưa?” Weber nhún vai.
“Tôi rất thích được là người đầu tiên có mặt tại hiện trường,” Waaler nói, nhoài về phía trước để chụp cận cảnh khuôn mặt xác chết.
“Cảnh sát Moss thụ lý vụ này. Chúng ta chỉ đưa gọi tới để hỗ trợ thôi.”
“Chúng ta có kinh nghiệm,” Waaler nói. “Đã có ai lịch sự giải thích cho mấy gã quê mùa đó chưa?”
“Thật ra có vài người của chúng tôi đã từng điều tra những vụ án giết người rồi,” một giọng nói vang lên sau lưng họ.
Waaler ngước lên thì thấy một người đàn ông đang mỉm cười, khoác áo da cảnh sát màu đen. Cầu vai có một sao, mép viền vàng.
“Tôi không phật lòng đâu,” anh chàng thanh tra địa phương bật cười. “Tôi là Paul Sørensen. Anh chắc là thanh tra Waaler?”
Waaler ngắn gọn chào lại anh ta và phớt lờ cái chìa tay của Sørensen. Anh ta không thích đụng chạm thân thể với những người đàn ông không quen biết. Hay kể cả những người đàn ông mà anh ta quen biết cũng vậy. Với phụ nữ thì khác. Miễn là anh ta vẫn nắm quyền kiểm soát. Mà lúc nào chẳng vậy.
“Nhưng anh chưa từng điều tra vụ nào như thế này, Sørensen,” Waaler nói, vạch một mí mắt của người chết lên để lộ ra một tròng mắt vằn máu. “Đây không phải là một vụ đâm nhau trong quán rượu hay một cuộc phiêu lưu xui xẻo do say rượu. Vì thế nên các anh mới gọi chúng tôi tới, phải không nào?”
“Đúng là vụ này không có vẻ giống như do dân trong vùng gây ra,” Sørensen nói.
“Tôi đề nghị anh và các cậu kia hãy đứng đây trông coi trong lúc tôi đi hỏi bà vợ của cái xác này.”
Sørensen bật cười như thể Waaler vừa kể một chuyện rõ khôi hài, nhưng im tắp lự khi thấy cặp lông mày của Waaler nhướng lên phía trên cái kính râm cảnh sát. Tom Waaler đứng dậy và bắt đầu đi về phía hàng rào cách ly. Anh ta chậm rãi đếm đến ba, rồi quát lên mà không thèm quay lại. “Và đánh cái xe cảnh sát đó đi chỗ khác. Tôi thấy các anh đỗ đúng chỗ quay đầu xe, Sørensen. Bên Pháp y sẽ tìm kiếm dấu lốp xe từ chiếc xe của kẻ giết người đấy. Xin cảm ơn.”
Không cần quay lại anh ta cũng biết nụ cưới tắt lịm trên khuôn mặt đang hớn hở của Sørensen. Và rằng hiện trường tội ác vừa được cảnh sát Oslo tiếp quản.
○○○
“Bà Albu phải không?” Waaler hỏi trong lúc bước vào phòng khách. Anh ta quyết định sẽ giải quyết việc này càng nhanh càng tốt. Anh ta có hẹn ăn trưa với một cô gái trẻ đầy triển vọng, và anh ta không muốn lỡ hẹn.
Vigdis Albu ngước lên khỏi cuốn album ảnh mà cô ta đang lật xem. “Vâng?”
Waaler thích thú với những gì anh ta thấy. Thân hình được chăm chút kỹ càng, cái dáng ngồi tự tin, sự tự nhiên cố ý kiểu người dẫn chương trình ti vi và cúc áo thứ ba để mở. Anh ta cũng thích thứ anh ta nghe được. Giọng nói nhẹ nhàng chỉ dành cho những lời đặc biệt mà anh ta thích những người đàn bà của mình nói. Và anh ta cũng thích cái miệng mà anh ta hy vọng sẽ được nghe thấy những lời đó cất lên.
“Tôi là thanh tra Tom Waaler,” anh ta nói, ngồi xuống đối diện với Vigdis. “Tôi hiểu đây hẳn phải là một cú sốc đối với bà. Đương nhiên, câu đó nghe hơi sáo, và tôi không tin là nó có chút ý nghĩa nào đối với bà lúc này, nhưng tôi muốn bày tỏ với bà sự thông cảm của tôi. Tôi cũng từng mất một người rất thân thiết.”
Anh ta chờ đợi. Cho đến lúc cô ta buộc phải ngước lên và anh ta nhìn thấy cặp mắt cô ta. Chúng nhòa, và thoạt đầu, Waaler cứ tưởng nước mắt khiến nó nhòa như vậy. Mãi tới lúc cô ta trả lời anh ta mới nhận ra là do say: “Anh có thuốc lá không ngài cảnh sát?”
“Cứ gọi tôi là Tom. Tôi không hút thuốc. Xin lỗi bà.”
“Tôi phải ở đây bao lâu, Tom?”
“Tôi sẽ thu xếp để bà được về sớm nhất có thể. Tôi chỉ cần hỏi vài câu thôi, được chứ?”
“Vâng.”
“Tốt. Bà có biết ai có thể muốn lấy mạng chồng bà không?”
Vigdis Albu chống tay đỡ cằm và nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ. “Anh cảnh sát kia đâu rồi, Tom?”
“Xin lỗi, bà nói gì?”
“Chẳng phải anh ta nên ở đây sao?”
“Cảnh sát nào, bà Albu?”
“Harry ấy. Anh ta xử lý vụ này mà, phải không?”
Lý do chính khiến Tom Waaler thăng tiến nhanh hơn bất cứ đồng nghiệp nào khác là anh ta phát hiện ra rằng chẳng ai, ngay cả các luật sư bào chữa, sẽ vặn vẹo xem làm cách nào anh ta thu thập được chứng cứ về tội lỗi rành rành của bị cáo. Lý do tiếp theo là anh ta có những cần ăng ten nhạy bén. Đương nhiên, thỉnh thoảng chúng cũng trơ ra khi cần phải phản ứng. Nhưng chúng chưa bao giờ phản ứng khi không cần. Và lúc này thì chúng đang bắt sóng lia lịa.
“Bà đang nói tới Harry Hole phải không, bà Albu?”
○○○
“Anh có thể dừng ở đây.”
Tom Waaler vẫn thích cái giọng nói đó. Anh ta tấp vào lề đường, nhoài về phía trước và ngước lên nhìn ngôi nhà màu hồng cao vút trên ngọn đồi. Ánh nắng buổi sáng lóe lên trên một vật trông giống như một con thú trong vườn.
“Anh thật tử tế,” Vigdis Albu nói. “Khi thuyết phục Sørensen cho tôi về, lại còn lái xe đưa tôi về nữa.”
Waaler mỉm cười thân thiện. Anh ta biết là nụ cười của mình thân thiện. Nhiều người bảo trông anh ta giống David Hasselhoff, ngôi sao của bộ phim Baywatch ở cái cằm, thân hình và nụ cười. Anh ta đã xem bộ phim đó và hiểu ý họ là gì.
“Lẽ ra tôi phải cảm ơn bà mới đúng,” anh ta nói.
Đúng là vậy. Trong suốt chuyến xe từ Larkollen về đây, anh ta đã biết được vài điều thú vị. Ví dụ như, Harry Hole đã cố gắng tìm ra bằng chứng rằng chồng cô ta đã giết Anna Bethsen, người phụ nữ mà theo như anh ta nhớ là đã tự sát ở Sorgenfrigata cách đây ít lâu. Vụ án này đã được khép lại. Chính anh ta đã kết luận rằng đó là một vụ tự sát và viết báo cáo. Vậy thì cái gã Hole ngu ngốc kia đang theo đuổi chuyện gì? Có phải hắn đang cố tìm cách trả đũa những mối hiềm khích trước kia? Có phải Hole đang cố gắng chứng minh Anna Bethsen là nạn nhân của một vụ giết người hòng làm tổn hại thanh danh của anh ta - Tom Waaler hay không? Tên nát rượu rồ dại đó hoàn toàn có thể đào xới một chuyện như vậy, nhưng Waaler vẫn không hiểu nổi tại sao Hole lại dành nhiều tâm huyết cho một vụ mà tệ nhất cũng sẽ chỉ chứng tỏ được rằng Waaler đã kết luận hơi vội vàng mà thôi. Anh ta gạt phăng cái ý tưởng rằng động cơ của Harry có lẽ chỉ đơn giản là muốn làm sáng tỏ vụ án đó. Chỉ có trong phim thì cảnh sát mới dành thời gian rảnh để làm những chuyện như vậy.
Giờ đây, việc kẻ tình nghi của Harry đã chết đương nhiên sẽ có nghĩa là còn có nhiều giải pháp khác. Waaler chưa biết chắc giải pháp đó là gì, nhưng vì bản năng mách bảo anh ta rằng Harry Hole có liên quan, nên anh ta rất muốn tìm ra. Vì vậy, khi Vigdis Albu hỏi Waaler xem liệu anh ta có muốn vào nhà uống cà phê không thì ý nghĩ đầy kích thích về một bà góa mới mất chồng không phải là cái hấp dẫn anh ta nhất. Đây có thể là cơ hội để hất cẳng cái gã luôn rình mò sau lưng anh ta suốt - bao lâu rồi nhỉ? Hơn một năm nay đúng không?
Đúng đúng là hơn một năm. Hơn một năm kể từ khi Sĩ quan Ellen Gjelten nhờ một sai lầm của Sverre Olsen - phát hiện ra rằng Tom Waaler chính là nhân vật chủ chốt đứng sau những vụ buôn lậu vũ khí có tổ chức ở Oslo. Khi anh ta ra lệnh cho Olsen xử cô ta trước khi cô ta tiết lộ những điều mình biết, thì anh ta cũng biết quá rõ rằng Hole sẽ không chịu bỏ cuộc chừng nào chưa tìm ra kẻ giết cô. Vì vậy, anh ta đã sắp đặt để mũ của Olsen được tìm thấy ở hiện trường, để anh ta có thể bắn kẻ tình nghi “vì mục đích tự vệ” trong lúc vây bắt hắn. Không có gì để buộc tội anh ta cả, nhưng Waaler cứ có cảm giác bất an kỳ lạ rằng Hole đang tới gần. Và hắn có thể nguy hiểm.
“Căn nhà rất trống trải khi mọi người đi hết,” Vigdis Albu nói, mở khóa cửa.
“Bà sống… ờ… một mình bao lâu rồi?” Waaler hỏi, trong lúc đi theo cô ta lên cầu thang dẫn tới phòng khách. Anh ta vẫn thích cái mà anh ta nhìn thấy.
“Các con tôi đang ở cùng bố mẹ tôi ở Nordby. Ý định là sẽ để chúng ở đó cho đến khi mọi chuyện trở lại bình thường.” Cô ta thở dài và ngồi thụp xuống một cái ghế bành sâu lòng. “Tôi phải uống chút gì đã. Rồi tốt hơn là đi gọi điện cho chúng.”
Tom Waaler đứng đó quan sát cô ta. Cô ta vừa phá hỏng mọi thứ bằng câu đó. Cái cảm giác phấn khích râm ran mà anh ta cảm thấy lúc nãy bay biến sạch. Đột nhiên, trông cô ta già hẳn đi. Có lẽ là vì tác động của rượu đã hết. Ban nãy, nó đã khiến các nếp nhăn trên mặt cô ta phẳng ra và miệng cô ta trở nên mềm mại, nhưng lúc này đã đanh lại thành một vết nứt màu hồng, cong cớn.
“Mời anh ngồi, Tom. Để tôi đi pha cà phê.”
Anh ta buông mình xuống xô pha trong lúc Vigdis đi vào bếp. Anh ta duỗi chân ra và nhận thấy một vết bẩn đã mờ trên lớp vải bọc. Nó làm anh ta nhớ tới vết bẩn trên xô pha nhà, do máu kinh nguyệt để lại.
Anh ta mỉm cười khi nghĩ tới điều đó. Ý nghĩ về Beate Lønn. Cô nàng Beate Lønn ngây thơ, ngọt ngào, ngồi bên kia bàn nước nuốt lấy từng lời anh ta nói như thể đó là những viên đường trong cốc cà phê sữa của cô ta, thứ đồ uống dành cho các bé gái. Tôi nghĩ cần phải có can đảm sống thật với bản thân. Điều quan trọng nhất trong một mối quan hệ là thành thật, em có nghĩ thế không? Thật khó biết phải ném những câu sáo rỗng sâu sắc giả hiệu đã được tuyển chọn này vào đâu mới trúng đối với bọn con gái trẻ, nhưng rõ ràng là với Beate thì anh ta đã ném trúng tâm. Cô ngoan ngoãn theo anh ta về nhà sau khi anh ta pha cho cô một ly nước vốn chỉ dành cho bọn nhóc.
Anh ta phải bật cười. Thậm chí, hôm sau Beate Lønn còn nghĩ rằng cô bị ngất là do mệt mỏi, và tại cốc cà phê đó mạnh hơn cà phê bình thường cô vẫn uống. Cho thuốc đúng liều lượng là quan trọng nhất.
Phần hay nhất là sáng hôm sau, anh ta đi vào phòng khách thì thấy cô đang kỳ cọ một mảnh khăn ướt trên xô pha, nơi tối hôm trước họ mới khởi động sơ sơ thì cô bất tỉnh và trò vui thật sự bắt đầu.
‘Tôi xin lỗi,’ cô nói, gần như sắp khóc. ‘Tôi vừa mới nhìn kỹ nó. Xấu hổ quá đi mất. Tôi cứ nghĩ là tới tuần sau mới đến kỳ.’
‘Không sao,’ anh ta đáp rồi vỗ nhẹ má cô. ‘Miễn là em cố gắng chùi sạch cái thứ chết tiệt đó.’
Rồi anh ta chạy vội vào bếp. Anh ta phải mở vòi nước và sập cửa tủ lạnh để át đi tiếng cười của mình. Trong khi Beate Lønn đang chùi vết máu của Linda để lại. Hay là của Karen nhỉ?
Vigdis gọi vọng ra từ nhà bếp. “Anh có bỏ sữa vào cà phê không, Tom?” Giọng cô ta nghe có vẻ gắt gỏng, có chút sắc thái của dân nhà giàu Oslo. Dù sao thì anh ta cũng đã phát hiện ra thứ mình cần.
“Tôi chợt nhớ ra là tôi có một cuộc hẹn trong thành phố,” anh ta nói. Anh ta quay lại thì thấy Vigdis đang đứng ngưỡng cửa phòng bếp, tay cầm hai tách cà phê, mắt mở to, đầy ngạc nhiên. Như thể anh ta vừa tát vào mặt cô ta vậy. Anh ta nghiền ngẫm ý nghĩ đó.
“Bà cần có thời gian riêng cho mình,” anh ta nói rồi đứng dậy. “Tôi biết. Như tôi đã nói, tôi cũng vừa mất một người bạn.”
“Tôi rất tiếc khi nghe vậy,” Vigdis nói, có vẻ bối rối. “Thậm chí tôi còn chưa hỏi đó là ai.”
“Cô ấy tên là Ellen. Một đồng nghiệp của tôi. Tôi quý cô ấy lắm.” Tom Waaler nghiêng đầu sang bên và nhìn Vigdis, cô ta đáp lại bằng một nụ cười ngập ngừng.
“Anh đang nghĩ gì vậy?” Cô ta hỏi.
“Có lẽ hôm nào đó tôi sẽ ghé qua để biết tình hình của bà.” Anh ta tặng cô nàng một nụ cười thân thiện nữa, nụ cười giống David Hassethoff nhất, và thầm nghĩ cuộc sống sẽ trở nên hỗn loạn đến mức nào nếu người ta có thể đọc được suy nghĩ của nhau.
Kẻ Báo Thù Kẻ Báo Thù - Jo Nesbo Kẻ Báo Thù