You will know that forgiveness has begun when you recall those who hurt you and feel the power to wish them well.

Lewis B. Smedes

 
 
 
 
 
Tác giả: Bùi Tín
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 49
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 64
Cập nhật: 2023-03-26 22:28:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 27
I. NGƯỜI LÍNH
Hơn ba mươi năm chiến tranh đã in dấu sâu đậm lên cuộc sống của cả dân tộc Việt Nam ta, của mỗi gia đình và mỗi con người. Khi khởi đầu không ai nghĩ chiến sự sẽ kéo dài, kéo dài mãi đến như vậy. Về sau người ta chịu đựng, kiên trì và nhẫn nại chịu đựng với ý nghĩ rằng độc lập và tự do là điều quý nhất, có độc lập, tự do rồi sẽ có tất cả, mọi hy sinh đều là cần thiết cho mục tiêu cao cả ấy.
Nhìn lại những cuộc đấu tranh lâu dài trên đất nước mình, nhìn lại cuộc đời cầm súng của mình trong 37 năm có lẻ, tôi thấy những gì sâu sắc nhất? Cuối tháng 10. 1990 tôi dự cuộc Hội thảo do tổ chức của tướng Leclerc mời với
đề tài: Tướng Leclerc và Đông dương. Có hơn một chục vị tướng Pháp, các nhà sử học nổi tiếng như Devillers, Brocheux..., các nhân vật liên quan hồi đó như ông Messmer (từng là thủ tướng), ông Misoffe (bộ trưởng) và cả ngọai trưởng Polang Dumas tham dự. Tôi từng nghiên cứu vến đề này và đến dự cùng hai cán bộ của sứ quán Việt Nam (một tham tán chính trị và một bí thư thứ hai). Bản tham luận của tôi đựơc chú ý. Qua việc đánh giá tướng Leclerc, tổng chỉ huy quân sự Ở Đông dương, những quan điễm của ông về chính trị và quân sự, thái độ thực tế và thức thời của ông, chính kiến của ông khác với chính kiến của đô đốc D'Argenlieu Cao ủy Pháp và là Tổng tư lệnh quân lực Pháp ở Đông dương ra sao, các diễn giả đều đề cập đến sự kiện khởi chiến ở Việt Nam ngày 19. 12. 1946. Ai cố tình gây chiến trước? Khi chiến tranh bùng nổ rồi thì ngừng bắn sẽ rất khó khăn. Vậy thì tại sao chiến tranh bùng nổ? Lỗi tại ai, từ phía nào? Đây là một sự kiện bị nhiễu lọan nhất, có nhiều điểm ản dấu nhất ở cả hai bên. Có phải phía Pháp đã cố tình khởi chiến, từ việc gây ra những cuộc nổ súng ở Hải Phòng, rồi ở Hà Nội và 2, 3 ngày trước đó đã cho xe tăng đi nhiều thêm một cách bất thường trên đường phố Hà Nội, đột nhiên tăng viện binh từ Pháp sang rồi đánh chiếm Sở Tài chính (nay là trụ sở Bộ Ngọai giao), đưa tôi hậu thư yêu cầu do phía Việt Nam không ổn định được an ninh, nên phía Pháp sẽ đảm nhận việc này, rồi sau đó ra lệnh cấm trại tất cả binh lính Pháp... Phải chăng phía Pháp đã có một kế hoạch tỉ mỉ leo thang dần để đi đến khởi sự cuộc chiến tranh rộng khắp? Hay phía Việt Nam đã có kế hoạch trước, dự định từ mấy tuần trước đó là đêm 19 tháng 12 năm 1946 sẽ nổ súng. Hiệu lệnh khởi sự là phá Nhà đèn Yên Phụ, tắt điện trong tòan thành.
Cũng có nhà sử học Pháp đưa ra nhận định rằng về phía Việt Nam, ông Võ Nguyên Giáp đã đưa ra lệnh tiến công mà không cho ông Hồ Chí Minh biết. Đây là một phỏng đoán chủ quan, thiếu cơ sở vì một việc trọng đại như thế này ông Giáp không thể tự ý chủ trương được. Phỏng đoán như thế là không hiểu cơ chế và tinh thần làm việc của phía Việt Nam.
Sau khi nghiên cưứ nhiều tài liệu, tôi thấy lúc ấy hai bên đều có những nhận định rất giống nhau và cả hai bên đã hiểu nhầm nhau! Những nhận định rất giống nhau là: Con đường hòa đàm đã tan vỡ không phương cưứ chữa được nữa. Chiến tranh tất yếu sắp nổ ra. Bên nào cũng có kế hoạch ứng phó với tình hình xấu nhất đang tới rất gần. Bên nào cũng có ý định là nếu bên kia gây sự lớn thì phải kịp thời giáng trả lập tức để khỏi mất quyền chủ động... Cả hai bên trong thâm tâm đều chưa muốn bước vào một cuộc chiến tranh toàn bộ ngay vì thủ tướng thuộc đảng xã hội Leon Blum vừa lên cầm quyền và ông Marius Moutel Bộ trưởng thuộc Dịa sắp lên đường sang Đông dương. Thế nhưng khi quân của hai bên đã o thế cài răng lược, ở hai phái đều có những phần tử trẻ hăng máu, cực đoan thì bất cứ một sự xô sát nhỏ nào, một cuộc bắn nhau nhỏ nào cũng có thể tạo thành một đám cháy lớn! Hai bên đều chưa muốn bước vào một cuộc chiến tranh lớn nhưng đều chuẩn bị rất khẩn trương, luôn sẵn sàng cho khả năng xấu nhất để tránh bị động. Những cuộc chạm súng liên tục và ngẫu nhiên đã là tia lửa tạo nên đám cháy lớn...
Đất nước bị cuốn hút vào chiến tranh bi thẩm như vậy đó.
Theo tôi cái lỗi chính là ở quan điểm thực dân lỗi thời vẫn còn tồn tại trong chính giới Pháp, kể cả trong đảng Xã Hội và đảng Cộng Sản. Yêu nước Pháp đối với người Pháp là phải khôi phục các thuộc địa, giữ nguyên sự hùng mạnh của Đế chế Pháp. Tướng Leclerc đã kể rằng, Phó thủ tướng và là Tổng bí thư đảng Cộng sản Pháp Maurice Thorez gặp ông ta trước khi ông lên đường nhận nhiệm vụ Ở Đông dương, đã vỗ vai ông và nói rằng: "Cognez! Cognez- fort!" (Hãy đánh đi, đánh mạnh vào!). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chấp nhận công thức "nước Việt Nam tự do trong khối Liên hiệp Pháp", mà chính quyền Pháp vẫn không chịu đồng ý! Cứ theo kể lại thì tình hình không ổn định của các chính phủ Pháp kế tiếp nhau, việc giao thông liên lạc cách xa nhau 12. 000 km làm cho việc nắm tình hình và chỉ đạo gặp rất nhiều trắc trở và quá chậm chạp, tinh thần cố chấp cực đoan của đô đốc D'Argenlieu... đều là những nguyên nhân làm cho chiến tranh bùng nổ tai hại cho cả hai bên...
Nếu như chính phủ Pháp biết sử xự với các thuộc địa của mình như chính giới Anh đối với Ấn Độ thì đâu đến nỗi bi đát như vậy! Nước Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp sẽ có thể yên ổn và phát triển, tránh bao nhiêu hy sinh và tàn phá, và có thể tránh cả cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ về sau!
Một câu hỏi tôi thường được các nhà báo Mỹ và phương Tây, các học giả ở Đông Nam và gần đây là một số nhà quân sự Pháp hỏi: Vì sao Mỹ lại thua trận ở Việt Nam? Kèm theo nhiều câu hỏi khác về Tết Mậu Thân 1968, về vũ khí hiện đại của Mỹ, về đường Hồ Chí Minh, về B- 52 đánh phá trên miền Bắc, về chiến tranh ở Căm pu chia. Đó là những vấn đề rất rộng lớn. Tôi chỉ có thể trình bày ở dưới đây rất gọn một số suy nghĩ riêng của mình.
Tôi đã viết kịch bản cho một bộ phim tư liệu: "Một trăm câu trả lời cho một câu hỏi, " về chuyện Việt Nam vì sao dành được toàn thắng. Trước khi sang Pháp tôi đã sửa lại kịch bản này để chuẩn bị cho một bợ phim hợp tác với các nhà điện ảnh _c (Australia), dự kiến có tên là: "Cuộc đối thoại giữa hai Tổng hành dinh do xưởng phim của Hội Nhà văn thực hiện. Theo tôi có biết bao nhiêu yếu tố tạo nên chiến thắng: Con người, lịch sử, phong tục, văn hóa, văn học, nghệ thuật. Rồi thời tiết, địa lý, môi trường, khí hậu... cũng có tác dụng. Rồi các mối quan hệ chằng chịt trên thế giới, các mối liên minh thay đổi, các mối liên kết khu vực. Rồi đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao. Rồi quan hệ giữa Sài Gòn và Washington- Quan hệ giữa Washington với đồng minh- Quan hệ Việt nam với Liên xô, Trung quốc... về quân đội: Người lính, người sĩ quan của cả hai bên... Chiến thuật và chiến dịch... Chiến dịch và chiến lược... Tiền tuyến và hậu phương của hai bên. Vai trò cũa báo chí, truyền thanh và truyền hình. Chế độ dân chủ và chế độ chính trị thời chiến... Vấn đề thời cơ, tạo thời cơ và tận dụng thời cơ...
Trong tất cả các vấn đề phong phú và lý thú ấy, trong cuốn sách này, tôi chỉ nêu qua một vài vấn đề đơn giản nhất.
Trước hết Đông nam á và Đông Dương không được xác định là một khu vực trọng điểm trong chiến lựơc của Mỹ, không phải là nơi gắn bó với quyền lợi sống còn của Mỹ. Mỹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh này từng bước một, theo đà, theo một quán tính. Khởi đầu là ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh của Pháp định giành lại ba nước Đông dương, rồi tiếp theo một bước, chi tiền khá lớn cho Pháp trong cuộc chiến tranh ấy.
Đến sau Hiệp định Giơ ne vơ, Mỹ lao sâu thêm giúp cho chế độ Sài Gòn, cố giành thắng lợi trước hết ở cuộc chiến tranh một phía với các chiến dịch tố cộng, diệt cộng... Cuộc chiến tranh này không đạt, lại lao thêm vào cuộc chiến tranh đặc biệt với cố vấn Mỹ, vũ khí Mỹ, chuyên gia kỹ thuật Mỹ ngày càng nhiều. Rồi chiến tranh đặc biệt không thành, lại bị động sang chiến tranh cực bộ. Ngay trong chiến tranh cực bộ Mỹ cũng muốn dành chiến thắng với thời gian ngắn nhất và với số quân Mỹ thấp nhất. Khởi đầu là 8 tháng, rồi 18 tháng, với 16 vạn quân, rồi 28 vạn quân. Sau cùng lên đến 50 vạn quân, nếu kể cả quân Thái Lan, quân ở hạm đội 7 và trên hậu cứ Okinawa thì tới 70 vạn quân! Chiến tranh cục bộ lại kết hợp với chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên miền Bắc, và cuộc chiến tranh này cũng tiến hành theo từng nấc thang một. Khởi đầu là đánh phá vùng giới tuyến, vùng ven biển, vùng trong vĩ tuyến 19, rồi trên vĩ tuyến 20, rồi đánh vào các khu công nghiệp và sau cùng là vào thủ đô Hà Nội, với các loại máy bay chiến thuật, sau đó là máy bay chiến lược B 52...
Trong chỉ đạo chiến tranh, Tổng Hành dinh Mỹ luôn luôn mong chờ và hy vọng rặng, mỗi nấc thang là nấc thang cuối cùng, và họ luôn luôn bị hẫng. Leo thêm một nấc thang lại hy vọng đây là nấc thang chót, đối phương sẽ chịu thua và chấp nhận điều kiện của Mỹ! Thế nhưng đối phương luôn có ý chí vững chắc, có tinh thần dân tộc kiên định và lại được rèn luyện theo từng nấc thang chiến tranh, nên thích ứng nhanh chóng với mỗi bước leo thang mới của Mỹ và còn sẵn sàng chuẩn bị cho nấc thang kế tiếp.
Đến khi Mỹ leo thang trên bộ đến mức cao nhất rồi mà không thắng, hậu phương của Mỹ lại không đủ nghị lực và không tạo nên khối thống nhất quốc gia để lao tiếp thí Mỹ ắt phải nghĩ đến rút chân ra Chiến lược "Việt Nam hóa" ra đời, Quân Mỹ lần lượt rút dần về nước. Đã quen có nữa triệu quân Mỹ ở sát cạnh lại quen ỷ lại vào quân đội Mỹ với hỏa lực cua pháo binh và không quân, khi quân Mỹ rút, quân đội Sài Gòn càng thiếu tự tin, luôn cảm thấy hở sườn và đơn độc...
Có một điều quan trọng là trong cuộc chiến tranh Việt Nam do tính chất và đặc điểm của nó, thế lực hai bên không đều, quan điểm thắng và thua cũng không giống nhau: Mỹ không thắng được, hơn nữa không thắng nhanh được, là thua. Đối phương kéo dài được cuộc chiến, không chịu thua, là thắng.
Hơn nữa có một yếu tố quan trọng là đối phương của Mỹ đã trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài chống Pháp trong 9 năm (1945- 1954). Đây là một nét rất hệ trọng. Hồi 30. 4. 1975, sau Toàn thắng, khi các vị tư lệnh họp nhau lại ở Dinh Độc lập để mừng chiến công lịch sử, tất cả tư lệnh của năm cánh quân (4 quân đoàn và một binh đoàn tăng cường), cũng như tư lệnh không quân, tư lệnh hải quân và chỉ huy các binh chủng: Thiết giáp, pháo binh, cao xạ, thông tin, hóa học, đặc công... đều là các sĩ quan chiến dịch Điện Biên Phủ trước đó 21 năm. Có người hồi đó là tư lệnh sư đoàn, nay là tư lệnh quân đoàn, hồi đó là trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng, nay là tư lệnh sư đoàn, tư lệnh lữ đoàn... Rõ ràng cuộc chiến tranh chống Pháp là một cuộc thử thách lớn, một trường học lớn, một cuộc diễn tập lớn để chuẩn bị tất cả các mặt: Tổ chức và huấn luyện bộ đội, đào tạo cán bộ, hình thành một nghệ thuật quân sự và khoa học quân sự mới. Không có cuộc kháng chiến chống Pháp, thì không thể hình dung ra cuộc kháng chiến chống Mỹ sẽ ra sao.
Về quân đội Mỹ, tôi có mấy nhận xét cụ thể về những mặt yếu sau đây: Việc đề ra kỳ hạn sang Việt Nam một năm hoạc hai năm là cần thiết, nhưng đó cũng là một nhược điểm lớn. Vì họ sang một chiến trường xa lạ, vừa thích ứng được ít lâu thì đã nghĩ đến chuyện giữ an toàn để trở về với gia đình. Họ chỉ được thực sự yên tâm và thành thạo chiến đấu trong nữa năm (đối với người sang một năm) và chừng 15 tháng (cho những người sang hai năm). Về không quân, quy định mức phi vụ là 100 cũng vậy. Những phi vụ đầu còn bỡ ngỡ- khi quen rồi và trở nên thành thạo thì tâm lý đã sớm nghĩ đến giữ an toàn để còn trở về. Tôi đã gặp khá nhiều người lái Mỹ bị bắt, hỏi chuyện tới gần hai trăm người. Có người bị hạ Ở chuyến bay đầu tiên (một nữa phi vụ), rất nhiều người ở chuyến bay thứ 30 đến 60, cũng có người chuyến bay thứ 97, nghĩa là ba phi vụ nữa là thóat nạn!
Tổ chức và trang bị cho quân đội viễn chinh Mỹ quá hình thức và nặng nề, hoàn toàn không thích hợp với chiến trường, địa hình, thời tiết và nhất là tính chất của cuộc chiến tranh chống nổi dậy, chống lại một phong trào rộng lớn bắt rễ trong nhân dân. Các đơn vị Mỹ vẫn giữ biên chế, trang bị và họat động như đã được học và rèn luyện trong một cuộc chiến tranh chính quy, thành hàng ngũ!
Về quân đội Sài Gòn cũng vậy. Do ảnh hưởng của Mỹ nên tử tộ chức đến quân phục, trang bị đều nặng nề, cứng nhắc, thiếu độ linh họat và cơ động. Nhiều viên tướng và sĩ quan cao cấp Sài Gòn tôi gặp năm 1975 đã trao đổi và cho rằng cái nặng nề, cồng kềnh, hình thức của quân đội Pháp và quân đội Mỹ bị áp đặt cho quân đội Sài Gòn (từ điều lệnh huyến luyện cho đến đôi giầy, quân phục, cho đến chiếc ba lô... ) đều gây khó khăn cho sự cơ động rất cần cho một cuộc chiến tranh rừng núi và đồng bằng trong khí hậu nhiệt đới.
Về mặt tâm lý, tôi tiếp xúc với hàng trăm người lái máy bay Mỹ cũng như vài chục sĩ quan và quân nhân Mỹ thuộc lính cổ da (thủy quân lục chiến) và bộ binh Mỹ. Họ là những quân nhân được đào tạo rất chính quy, có hệ thống, vững vàng về hiểu biết kỹ thuật. Trình độ văn hóa khá cao. Có nhiều người lại có bằng cử nhân, tiến sĩ không những về kỹ thuật, mà còn về triết học, sử học, về kinh doanh, về quan hệ quốc tế và luật pháp. Thế nhưng quân đội Mỹ đã chuẩn bị cho họ quá sơ sài những hiểu biết về Việt Nam, về Đông dương. Tôi thấy rõ việc chuẩn bị tâm lý cho quân nhân Mỹ là không tốt, có nhiều lỗ hổng về nhận thức, quá xa thực tế, thậm chí trái ngược với thực tế. Một sự sai lầm nổi bật nữa là qua các tài liệu và lời khai, quân nhân Mỹ ỷ lại rất nặng vào vũ khí, hỏa lực, coi nhẹ yếu tố con người.
Về chính quyền Sài Gòn, việc chính quyền Kennedy thay ngựa giữa dòng, triệt hạ anh em ông Ngô Đình Diệm là một thất sách, có thể gọi là một sai lầm rõ rệt. Phải chăng đây là một hành động cần thiết để chuyên từ chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ, nhằm thực hiện việc đưa ồ ạt quân Mỹ vào miền Nam, vì anh em Diệm, Nhu tỏ ý chống lại việc đưa quân Mỹ vao tham chiến? Vấn đề khó khăn nhất của Mỹ là tìm ra một chính đảng chính trị và một lãnh đạo tiêu biểu ở miền Nam Việt Nam, có khả năng và uy tín. Tuy được tổng thống Mỹ Einsenhower tâng bốc là "Churchill của châu á, " ông Diệm vẫn có nhiều hạn chế: Trí thức miền Nam vẫn coi ông thuộc tầng lớp quan lại phong kiến đã lỗi thời. Ông lại là người công giáo trong khi người công giáo chỉ chiếm 10 phần trăm số dân phần lớn theo đạo Phật. Kiểu gia đình trị của ông quá lộ liễu hai vợ chồng ông Nhu lại lộng hành quá đáng... Cái gay go của Mỹ là những người lện thay Diệm, Nhu lại tỏ ra yếu kém hơn, chia rẽ hơn, bất lực hơn. Mỹ tưởng vất bỏ được cái xấu để thay cái tốt, cái khá hơn, thì chỉ nhận được cái tồi tệ hơn! Sự rối loạn chính trị với Nguyễn Khánh, rồi với Nguyễn Văn Thiệu- Nguyễn Cao Kỳ gắn liền với sự rối loạn về kinh tế, với tham nhũng lan tràn, đạo đức băng hoại, đàn áp Phật giáo, miệt thị trí thức, thanh niên, sinh viên. Nạn mãi dâm, xì ke, ma túy quanh các căn cứ Mỹ, những vụ đầu cơ ở các P. X. (trung tâm thương mại cho các quạn nhân Mỹ) tạo nên khủng hoảng xã hội trầm trọng. Quân đội Sài Gòn trong bối cảnh ấy tất nhiên sa sút nhanh về mọi mặt. Đó là cái giá cực nặng phải trả khi có thường xuyên nữa triệu lính Mỹ- lính nhà giầu, lính hưởng thụ, lính đời sống cao, lính ra trận mà không hiểu rõ động cơ chiến đấu-trên một giải đất hẹp, trong một xã hội tiêu thụ. Những nhà "du lịch cầm súng" vui vẻ phóng khóang! Họ đâu có biết chính họ đã phá vỡ những giá trị truyền thống cổ truyền, làm chấn động hậu phương của cuộc chiến tranh vốn đã mong manh.
Một điều bất ngờ là: Quân Mỹ vào để cưứ vãn tình hình, thế nhưng chính sự có mặt của 50 vạn quân Mỹ (hơn 2 triệu lượt quân nhân Mỹ thay phiên nhau) ở miền Nam Việt Nam đã làm rối loạn và sa sút thêm cái hậu phương trực tiếp của cuộc chiến tranh. Khi quân Mỹ phải rút dần cho đến hết theo quy định của Hiệp định Paris, họ đã phải tiến hành chiến lược "Việt Nam hóa" chiến tranh với một hậu phương đã bị tàn phá đến tận gốc chính do sự có mặt của quân đội Mỹ.
Còn hậu phương nước Mỹ bị chấn động tai hại bởi chính những giá trị cố hữư của nó về dân chủ, công bằng và lòng nhân đạo. Cuộc chiến tranh được truyến đi trên hệ thống truyền hình nhiều nhất, tức thời nhất đã mang lại những cảnh tượng khủng khiếp ở Mỹ lai, cảnh đài tá Loan bắn một người yêu nước trên đường phố một cách lạnh lùng và khiếp nhược, những F. F. Z. (Free Fire Zone vùng bắn phá tự do), cảnh lính Mỹ kinh hòang ở Khê Sanh... đều vào tận phòng ngủ của người dân Mỹ, tác động mạnh đến suy nghĩ, tình cảm của họ.
Còn hậu phương miền Bắc Việt Nam? Phải công nhận rằng, tuy bị đánh phá liên tiếp, bị tàn phá hết sức nặng nề, với hơn 5 triệu tấn bom đạn, nhưng đã đứng vững một cách kỳ lạ đương đầu với pháo đài bay và Thần sám, Con Ma Mỹ. Nhà máy sụp đổ, cầu gãy, đường bị băm nát, trường học, bệnh viện bị san bằng chỉ làm bốc cao thêm căm thù và khinh bỉ những kẻ tội phạm bất nhân, truyền cho chiến sĩ những nghị lực mới. Đó là lòng yêu nước truyền thống được khơi gợi mạnh mẽ, những phẩm chất vốn có của dân tộc được phát huy rất cao. (Bộ máy lãnh đạo và nắm chính quyền lúc ấy hầu hết là trong sáng về đạo đức, tận tụy với nhân dân, lòng dân do đó rất yên. Đất nước hầu như không có trộm cắp và hối lộ). Tình thương yêu đùm bọc nhau giữa thành thị và nông thôn, giữa người đi sơ tán và nơi tiếp nhận thật xúc động. Dương Thu Hương đã nói đúng: Đảng đã khơi được nguồn tài sản vô giá, như những khối vàng ròng, đó là lòng yêu nước cố hưữ của một dân tộc vốn chuộng đạo lý làm người và có truyền thống chống ngọai xâm từ xa xưa. Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa Mác Lê Nin, tuy được nói rất nhiều, nhưng không can dự gì trực tiếp đến quảng đại quần chúng nhân dân, không thể vơ vào một cách sống sượng, kiểu nói lấy được. Tôi đã nghiệm ra rằng, khi nào lên gân theo chủ trương đấu tranh giai cấp, theo nguyên tắc dân chủ tập trung để thực hiện những chủ trương tả khuynh như đấu tố và xử tử tran lan trong cải cách ruộng đất và đàn áp, bóp nghẹt trào lưu dân chủ trong các vụ chống "Nhân văn giai phẩm, " chống "xét lại... " thì lại là vác đá ghè vào chân mình, gây nên xáo trộn của hậu phương trong chiến tranh, gây bất ổn trong lòng dân, làm giảm sức chiến đấu.
Cũng cần nói rõ thêm: Cuộc chiến tranh phá họai của Mỹ nhằm gây tổn thất thật lớn để buộc đối phương phải quỳ gối. Nhưng đối phương lại quá nghèo, cơ sở vật chất mới xây dựng chưa có gì nhiều. Một anh nhà nghèo khi lâm trận sẽ chỉ nghĩ đến giữ được cuộc sống của mình, vài hành lý sơ sài có mất đi cũng không sao, còn người là còn của, còn làm ra của, cho nên dể sống mái với kẻ thù hơn mà không mảy may tính tóan thua thiệt về vật chất. Điều cơ bản hơn chính là truyền thống chống ngọai xâm kiêu hùng từ xa xưa được truyền lại, là truyền thống bất khuất của dân tộc được phát huy mạnh mẽ trong thời đại mới vì độc lập tự do của đất nước.
Về tình hình quân sự Ở Việt Nam, tôi rất băn khoăn về số lượng của quân đội, của đủ thứ lực lượng vũ trang tại ngũ. Sau Toàn thắng 1975 đã có ý định giải ngũ một số lớn quân đội- Nhiều đơn vị quân đội được phái đi làm nhiệm vụ kinh tế ở những vùng cần phát triển, nhất là Tây nguyên. Nhưng khi mâu thuẫn với người thuộc dân tộc Hoa (bà con Hoa kiều) phát sinh, sau đó việc đưa quân vào Căm pu chia làm xu hướng tăng số quân đội và an ninh được thực hiện rất mạnh. Theo con số của Viện nghiên cứu quốc tế về chiến lược ở IISS thì đến năm 1985 quân đội Việt Nam lên đến 1 triệu 600. 000 và lực lượng an ninh lên đến 300. 000!
Hoa Xuyên Tuyết Hoa Xuyên Tuyết - Bùi Tín Hoa Xuyên Tuyết