Làm tốt thì tốt hơn là nói giỏi.

Benlamin Franklin

 
 
 
 
 
Tác giả: Andrea Hirata
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Rainbow Troops
Dịch giả: Dạ Thảo
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 48
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 7465 / 462
Cập nhật: 2016-03-15 15:23:34 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 32: Thư Ký Của Câu Lạc Bộ Những Người Chuộng Ma
ọ tự gọi mình là Societeit de Limpai, hay đơn giản hơn: Hội Limpai.
Limpai là một con vật huyền thoại siêu nhiên và đáng sợ trong thần thoại Belitong. Đây là một truyền thuyết thú vị, vì nhiều câu chuyện dân gian đưa ra nhiều định nghĩa trái ngược nhau về sinh vật thần bí này. Cư dân vùng biển cho rằng đây là một nàng tiên sống trên núi. Dân miền núi tin rằng đây là một con vật giống như voi ma mút, khổng lồ, màu trắng. Người Mã Lai sống ở đồng bằng thì lại cho rằng đây là một cơn gió - một cơn gió mà nếu nổi lên thì có thể quật đổ cây và khiến cho lúa ngã rạp hết. Ở các vùng xa xôi hẻo lánh, Limpai có nghĩa là bogey, một con ma màu đen khổng lồ. Thế hệ sau thì không đồng ý với bất kỳ quan điểm nào nói trên. Theo họ, Limpai là một huyền thoại hiện đại, một thần ác mộng hay một điềm báo về cái chết có thể hóa thân thành bất kỳ thứ gì.
Những điều này đều là hiểu lầm cả, bởi vì câu chuyện về Limpai thực ra có những căn cứ hẳn hoi từ những lời giáo huấn của người Belitong cổ xưa truyền từ đời này sang khác để người ta không khai thác rừng và nguồn nước bừa bãi. Những lời giáo huấn đó có một sức mạnh đầy thuyết phục, khiến người ta sợ bị gặp chuyện xấu vì rừng và nước được ma Limpai canh giữ.
Những người lớn được học hành coi Limpai chỉ đơn thuần là mối hoang mang lởn vởn trong đầu những kẻ ăn không ngồi rồi ngu đần, yếu bóng vía, chẳng có việc gì làm; Limpai là vậy đó.
Societeit hoạt động rất bí mật. Người ta không biết họ họp khi nào và ở đâu, hay họ bàn bạc những gì. Nếu tình cờ bị bắt gặp, họ sẽ nhanh chóng đổi đề tài và thậm chí còn giả vờ không biết nhau nữa. Đó là cách họ che giấu hoạt động của mình. Chẳng phải vì họ làm nhiệm vụ gì nguy hiểm, gây bạo loạn, hay phạm pháp. Chỉ là để tránh con mắt dòm ngó soi mói về tính chất vô lý của hội. Societeit chẳng qua chỉ là một nhúm người vô dụng quá sùng bái thế giới huyền bí mà thôi.
Có chín thành viên trong Societeit. Để gia nhập hội này cần đạt được những yêu cầu hết sức nghiêm ngặt. Thành viên lớn tuổi nhất của tổ chức, một trưởng cảng về hưu, tuổi năm bảy. Những thành viên nhỏ tuổi nhất là hai đứa quãng mười hai mười ba tuổi. Sáu người còn lại gồm có một nhân viên thu ngân tại chi nhánh ngân hàng Indonesia ở Rakyat, một người Hoa làm nghề mạ vàng, một người thất nghiệp, một người chơi electone không vợ con, một người đang học ngành điện thì bỏ giữa chừng về mở tiệm bán xe đạp, và Mujis anh nhân viên phun thuốc diệt muỗi.
Điều lạ nhất là chủ tịch câu lạc bộ Societeit lại là thành viên nhỏ tuổi nhất. Nó là người sáng lập ra tổ chức này và được các thành viên khác nể trọng bởi nó rất am hiểu về thế giới huyền hoặc và thu thập được không biết bao nhiêu chuyện tào lao cùng bao nhiêu tin tức lẩn thẩn. Nó là thằng Mahar chứ chẳng phải ai xa lạ. Còn một đứa nhóc nữa mà tôi nói lúc trước, dĩ nhiên là con Flo rồi.
Societeit hoạt động rất sôi nổi. Họ tiến hành những cuộc thám hiểm đến những nơi xa lạ, tìm hiểu những điều huyền bí, dựng lại bản đồ những địa danh trong thần thoại Mã Lai. Xét theo một góc độ nào đó, họ là những cá nhân dũng cảm nóng lòng muốn xới tung những bí mật của địa hạt huyền bí này với một thái độ hoài nghi không suy suyển - họ không tin vào bất kỳ điều gì trừ phi chính mắt họ trông thấy hay sờ thấy.
Thằng Mahar và con nhỏ Flo khôn khéo lấy Limpai làm tên của băng nhóm đó. Vì con vật ấy mang tính ẩn dụ nến tùy theo cách nhìn nhận của từng người mà hội Societeit có thể được xem như một nhóm nhà khoa học dở người hay những kẻ dị giáo. Triết lý của tổ chức này cũng có nhiều cách hiểu, hệt như Limpai vậy.
Họ tiến hành hoạt động với sự hỗ trợ của thiết bị điện tử. Dưới sự giám sát của anh thợ điện nửa mùa, họ lắp ráp một máy dò điện từ trường có thể đọc được những làn sóng trong tầm quan sát dao động từ hai đến bảy miligauss và họ tin rằng đó là khoảng cách có thể quan sát được các hoạt động tâm linh. Họ cũng chế tạo một cái cảm biến tần số có thể phát hiện được những tần số cực thấp, dưới 60 Herzt. Theo cách suy nghĩ lạ lùng của họ, đó là dải tần số ma cà rồng trò chuyện. Họ cũng trang bị cho mình hương trầm, lô hội, bùa ngải bằng trứng thằn lằn chúa và một con gà mái hoang, những thứ được cho là có thể phát hiện nhanh nhất dấu hiệu của ma quỷ.
Một lần, họ đến rừng Genting Apit, nơi rùng rợn nhất Belitong. Khu rừng đó ẩn chứa hàng ngàn câu chuyện kỳ quái, và câu chuyện mà người ta hay nói tới nhất là hiện tượng sương mù ngoại chất. Làn sương mù lầm rầm gì đó rồi tự nhiên - có thể là một cách kỳ quái - biến thành hình dạng con người, động vật, hay người khổng lồ. Chẳng hiếm người đã chụp được những hình ảnh đó bằng máy ảnh thông thường. Nhiều người cảnh báo các tay lái xe đi xuyên qua khu vực Genting đừng có nhìn vào gương chiếu hậu vì những con ma thung lũng thường xin quá giang ở băng ghế sau. Đây chính là nơi có những chuyện khủng khiếp được Societeit tiến hành nghiên cứu.
Nói cho gọn là, tổ chức bí mật này rất bận rộn và cần lên kế hoạch về hành chính, quỹ và những thành viên chủ chốt - họ cần một thư ký.
Khi thằng Mahar đề nghị tôi đảm nhận vị trí ấy, tôi lập tức chộp lấy cơ hội. Cho dù chẳng được trả gì ráo, tôi vẫn cảm thấy thật vinh dự vì được bổ nhiệm làm thư ký cho một tổ chức có những thành viên là bạn bè với ma. Tôi cũng sung sướng vì lời đề nghị ấy cho thấy tôi có đủ phẩm giá để có thể giữ quỹ. Ít ra thì điều đó có nghĩa là tôi được tin tưởng dù chỉ bởi những người có đầu óc không bình thường. Nào, bạn tôi ơi, nếu như công việc trên có thể được gọi là một nghề thì lồng ngực tôi giờ đây đang căng tràn niềm kiêu hãnh – làm thư ký cho tổ chức vô hình, tổ chức Societeit de Limpai, là nghề đầu tiên của tôi.
Công việc của tôi đơn giản, có thể xếp gọn trong một cuốn sổ ghi chép. Trách nhiệm của tôi là lưu phí hội viên, giữ tiền, ghi chép những món đồ cá nhân mà các thành viên bán hay đem cầm để mua thiết bị và chi phí đi lại. Những nhiệm vụ khác, theo lệnh của hai chủ nhân - Flo và Mahar - là sắp xếp những cuộc họp kín và rót trà phục vụ thành viên tham dự cuộc họp. Với công việc này, gọi tôi là bồi bàn mới thật công bằng.
Mỗi khi từ các cuộc hành trình bí ẩn trở về, Flo và Mahar luôn mang về trường những câu chuyện lý thú và hồi hộp. Một ngày, hai đứa đó kể cho chúng tôi nghe rằng ở giữa một khu rừng rậm tối tăm, tụi nó phát hiện ra một số ngôi mộ, kích thước 3x8 mét, khoảng cách giữa các bia mộ ít nhất là năm mét. Vì Mahar tin rằng khoảng cách đặt các bia mộ phải bằng chiều dài từ đầu đến chân, nên có thể suy ra rằng các xác chết được chôn dưới những ngôi mộ này đều là những người khổng lồ dị thường.
Flo bắt đầu câu chuyện bằng việc cho chúng tôi xem những cái đĩa và ấm vỡ gần những ngôi mộ đó. Nó hùng hồn tuyên bố rằng nó ngủ gần những bia mộ nhất và chẳng thấy sợ tẹo nào. Nó kể lại cái trải nghiệm rợn tóc gáy đó cho chúng tôi nghe như thể nó đang kể một giai thoại sinh động về con mèo Ba Tư nhà nó vậy. Tôi muốn nói với nó rằng không phải những món khảo cổ nó tìm được bị vỡ mà chính thần kinh của nó bị vỡ mới đúng.
Tuy thế, phiên bản của Mahar lôi cuốn hơn nhiều. Nó thêm thắt nhiều chi tiết và mối quan hệ giữa những ngôi mộ khổng lồ đó với Belitong và giả định của các nhà khảo cổ học nổi tiếng như Barry Chamis và Harold T. Wilkins. Những nhà khảo cổ này tin rằng đã có thời trên trái đất tồn tại những người khổng lồ đi lang thang.
Mahar rút ra một suy luận hợp logic và vô cùng thú vị: Dựa vào những hầm mộ Belitong, sọ người pasnuta khổng lồ được tìm thấy ở Omaha và những khung xương không hoàn chỉnh được khai quật từ một khu mộ cổ ở cao nguyên Golan, suy ra đã từng có người cao tới sáu mét.
Những câu chuyện của Mahar luôn chứa đựng kiến thức. Có thể nó là một thằng nhóc lập dị kỳ quái cùng một lúc có thể đặt chân trên hai lãnh địa, chân này ở bên hiện thực, chân kia bên tưởng tượng, nhưng rõ ràng nó là đứa sáng dạ, vừa có kiến thức rộng về thế giới huyền bí siêu linh vừa có lối tư duy chặt chẽ.
Flo và Mahar ngồi vắt vẻo trên một nhánh thấp của cây filicium, hệt những nhà truyền giáo từ một ngôi đền Sikh, trong khi đó, chúng tôi - đội Chiến binh cầu vồng, ngồi chồm hỗm thành vòng tròn nhướng những cặp mắt hau háu tròn xoe lắng nghe những câu chuyện về thế giới huyền bí của hai đứa nó.
Câu chuyện hồi hộp nhất là về cuộc thám hiểm đến một cái hang trên một hòn đảo xa xôi biệt lập.
“Hai đứa tao thám hiểm cái hang đó. Khi giơ cái đèn lên, tụi tao kinh ngạc khi trông thấy một bức họa thuộc thời đồ đá cũ vẽ những người không mặc quần áo gì cả đang ăn sống tụi dơi trong hang,” Flo nhớ lại.
Chi tiết gây sửng sốt chưa phải là việc tìm thấy bức họa mà là, theo Mahar, đó là tiếng thì thào phát ra từ bức họa thời đồ đá cũ kia khi nó đang thiu thiu ngủ.
“Lemuria, Lemuria,” thằng Mahar rền rĩ. “Những bức họa đó rít vào tai tao như tiếng con rắn manau ấy. Tụi mày có biết huyền thoại về Lemuria không đấy?” Mahar run lên sợ sệt.
“Tiếng thì thào đó đến tai tao như một điềm báo trước. Ấy là dự báo kinh hoàng rằng một thế lực ở Belitong sẽ sớm bị sụp đổ!”
Cách hành xử của thằng Mahar luôn khiến chúng tôi thấy bối rối, khó hiểu, thậm chí thỉnh thoảng khó chịu nữa. Nó thích phóng đại. Chỉ cần nói chuyện vài phút đã biết nó là một đứa mơ màng viển vông thuộc hạng số zách với một thế giới riêng trong đầu. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng thỉnh thoảng những câu chuyện vô lý của nó chẳng sớm thì muộn cũng được chứng minh là đúng - mà điều này thì lặp đi lặp lại luôn.
Vậy nên tôi nghe những câu chuyện của nó hết sức chăm chú và nghiêm túc. Liệu người Belitong có biến mất như người Babylon và Lemuria không? Điều làm tôi sợ hãi là Lemuria. Nhiều người tin rằng câu chuyện về Lemuria không hơn gì một câu chuyện cổ tích, chỉ giống như Atlantis thôi. Tuy vậy, nếu tiên đoán của Mahar là đúng thì liệu câu chuyện về Lemuria có đúng không? Thế giới rùng rợn lemures ám ảnh tôi. Lemures, nguồn gốc của cái tên Lemuria có nghĩa là những linh hồn biến mất. Thảm họa nào treo lơ lửng trên đầu dân đảo Belitong?
Ở thế giới kia, cô Mus đang bấn lên vì chiều hướng phát triển của Mahar. Nó sa đà vào một thế giới huyền bí, chứ không phải nghệ thuật, trong khi nhẽ ra kế hoạch A của nó phải là nghệ thuật kia. Cùng với sự có mặt của con nhỏ Flo, nguy cơ phí hoài tài năng đó đang tăng lên.
Và hôm nay, cô Mus thật sự đau hết cả đầu - cô nhận dược một lá thư từ PN cho biết phải dừng tất cả các hoạt động dạy và học tại trường lại vì ba cái máy xúc sắp được đưa tới để khai thác thiếc bên dưới ngôi trường.
Chiến Binh Cầu Vồng Chiến Binh Cầu Vồng - Andrea Hirata Chiến Binh Cầu Vồng