Nguyên tác: The Godfather’S Returns
Số lần đọc/download: 3191 / 132
Cập nhật: 2016-05-03 19:52:17 +0700
Chương 30
C
hưa đầy một năm sau khi cơ sở trên phần đất của Geraci được xây dựng một đội thi công lại đến triệt hạ nó xuống. Geraci nói rằng anh ta có những tay chuyện đập phá nhà có thể lãnh công việc với giá phải chăng, nhưng “Điệp viên Ike Rosen” nói rằng họ phải làm theo một số qui cách nào đó. Vả chăng còn có những vấn đề về an ninh. Những khóa sinh còn lại đã được cho về nhà, sẽ được gọi trình diện khi cần, đến một trại thao diễn ở Bahamas. (một đảo quốc nhỏ -13.900 km2, với khoảng 400.000 dân, nằm về phía đông nam bang Florida, trong vùng biển Caribê).
Ba người Cuba lưu vong là những người đầu tiên được gửi đi, hình như là theo lệnh của chính Giám đốc CIA Allen Soffet, trên cơ sở lí luận rằng những người Cuba biết rõ địa hình địa vật, rành đường đi nước bước và nếu có chuyện trục trặc họ có khả năng biến đi tốt hơn là người của Geraci. Nhưng Geraci tức tối về chuyện này. Anh ta muốn một người Cuba (vì nhu cầu ngôn ngữ và hiểu biết về nơi chốn) và hai tay Sicily tinh nhuệ (để công việc được thực hiện ngay trong lần đầu tiên). Làm theo cách đó, theo ý anh ta, sẽ không có gì chuệch choạc, mà công việc sẽ được giải quyết gọn nhẹ. Mấy người Cuba đổ bộ lên một hòn đảo san hô không tên ngay ngoài vùng lãnh hải của Cuba, được một chiếc xuồng cao tốc bị tịch thu từ tài sản của Ernest Hemingway, đón lên và rồi bị giết trên đường vào bờ biển Cuba, khi chiếc thuyền nổ tung trong những tình huống rất đáng ngờ. Người ta nghĩ rằng tay hoa tiêu là một điệp viên của chính quyền Cuba, nhưng mọi chuyện về vụ này mà Geraci nghe được đều không phải từ nguồn đầu tiên. Geraci không muốn mất người mà chẳng được gì nhưng anh cũng không muốn bị gạt ra trong những chiến dịch ám sát tên độc tài kia, và dường như không có phương cách đáng tin cậy nào để phát hiện những gì đang diễn ra nơi những trại quân khác. Tại sao huấn luyện người của anh, Geraci nói, nếu như sắp tới đây họ chỉ gửi những người Cuba đi làm việc đó?
Khoảng một tuần lễ sau, Rosen bảo Geraci rằng anh ta đã được phép gửi ba người khác đi xâm nhập, lần này trên một thủy phi cơ bay thấp, dưới tầm ra-đa, giao tận tay một điệp viên hành động đáng tin cậy - người này sẽ chờ sẵn trên bãi biển. Geraci được cho biết là anh có thể gửi một người đi. Geraci cố nài cho được hai người. Một và chỉ một mà thôi hoặc không có gì cả, tay phái viên kia xác định. Geraci lấy Carmine. Tay chiến binh Sicily này bảo Geraci đừng lo ngại gì; một mình anh ta cũng làm được việc ngon lành như hai người khác, bất kỳ hai người nào.
Mấy ngày sau đó, Geraci đến văn phòng của anh phía sau hồ nước, đọc lại bộ chiến sử La mã mà anh từng cầm lên đặt xuống trong bảy năm trước đây, thì Charlotte gõ cửa. “Có cuộc gọi.” Chỉ nói cộc lốc, vùng vằng. Càng sống chung với nhau lâu nàng càng bực bội về chuyện nhận lời nhắn cho chồng, đặc biệt là từ những người gọi không chịu cho biết mình là ai. “Chẳng biết là ai, hắn ta muốn tôi nói với anh rằng họ đã đi vào. Chỉ có thế. Họ đã vào. Điều ấy có ý nghĩa gì với anh không?”
“Có, anh hiểu.” Vào Cuba, tất nhiên rồi. Và từ chỗ anh ngồi điều đó có nghĩa là mọi chuyện (Nguyên văn: and from where he sat it meant everything. Sở dĩ người dịch phải trích lại câu nguyên tác vì cảm thấy ý nghĩa câu này sao có vẻ quá mông lung, mơ hồ nên người dịch muốn bạn đọc thấy rằng do tác giả viết như vậy thì người dịch phải dịch theo như vậy, chứ không hề có ý đánh đố, làm khó bạn
đọc. Xin kính cáo!).
“Quyển sách anh đang đọc đến từ đâu vậy?” nàng tò mò hỏi.
“Những quyển sách,” Geraci nói. “Hai quyển. Lần cuối cùng em đọc bất kỳ cái gì mà lại không được chiếu trên màn hình Tivi? Và trên thực tế, anh đang có tiến bộ.”
Bên ngoài trời hãy còn tối khi Tom Hagen rời Palmer House và bắt một chiếc taxi để đi gặp Louie Russo. Theresa vẫn còn ngủ nơi phòng khách sạn ở trên lầu. Lát nữa, trong buổi sáng này nàng sẽ có cuộc họp ở Viện Nghệ thuật Chicago - với một tổ hợp bảo trợ bảo tàng quốc gia. Ngày mai họ sẽ lái xe đến South Bend, để đi thăm không chỉ Andrew, con trai họ, mà còn cả Frankie Corleone, con trai lớn của Sonny, đang chơi ở vị trí trung vệ cho đội Fighting Irish và đã lấy vé cho họ cho cuộc đấu trong nhà lần cuối trong năm, với đội của Đại học Syracuse, trường cũ của Theresa. Hagen đã rất mong đợi cuộc nghỉ cuối tuần này từ lâu.
Lẽ ra Hagen đã sử dụng một chiếc limo nhưng rồi anh không muốn có vẻ long trong quá, dụng công quá. Tay tài xế taxi là dân Chicago “kinh điển”, luôn mồm văng tục và tuôn ra những nhận định bôi bác về các đội thể thao. Hagen có quá nhiều ý tưởng trong đầu. Anh chỉ mới uống có hai ly cà-phê. Anh đang xuất mồ hôi. Anh không cảm thấy căng thẳng, và trong xe cũng không nóng. Chắc là do liên quan đến huyết áp, cao đến độ bác sĩ của anh có lẽ không đùa khi nói rằng một ngày nào đó không chừng anh sẽ nổ tung như quả bóng quá căng. Tài xế vẫn tiếp tục huyên thiên phét lác. Hagen không làm gì để cho anh ta cụt hứng. Càng khua môi múa mép anh ta càng say sưa với chất men mê hoặc trong lời nói của mình, đếch cần để ý đến ông khách nữa!
Russo có một câu lạc bộ riêng ở Wisconsin. Ngay cả đi trong dòng lưu thông còn khá thông thoáng của buổi sáng sớm nhưng cuốc xe cũng mất hơn một giờ. Dường như cũng lâu bằng như thế để đi từ cổng và vượt qua dải đất của bãi đậu xe để đến chính câu lạc bộ - một nhà kho màu trắng được chuyển đổi công năng. Mặc dầu chẳng giống nhau gì mấy, song nơi này cũng xoay xở để mời được những ca sĩ tiếng tăm như Johnny Fontane, những danh hài hàng đầu, kể cả nhóm Ice Capades. Một tấm bảng trên cửa chính ghi HECTOR SANTIAGO, VUA RUMBA! Các sô diễn không cần quảng cáo mà vẫn luôn bán hết vé. Kế bên nhà kho là một hồ nước hình vuông rộng bằng khoảng bốn dãy phố và được vây bọc bởi mấy hàng thông. Nước hồ đen như mực, từ xa khó nhận ra. Bên kia hồ là một nhà kho ba tầng không có vẻ gì đặc biệt, không cửa sổ nhưng bên trong đã được tái thiết kế và trang trí nội thất để trở thành một casino đầy đủ tiện nghi. Ban đêm, những tay chèo thuyền đưa khách qua lại trên hồ. Russo tự hào một cách thích đáng về nơi chốn này; xét cho cùng, khó mà đến gặp lão ta ở đây để bàn công việc rồi ra đi mà không dạo một tour quanh cái casino độc đáo này của lão. Dầu thế nào Hagen cũng phải ngưỡng mộ kỳ công của Russo trong việc lo lót cho mọi quan chức sở tại từ cảnh sát, tòa án đến các phương tiện truyền thông... để cho khách hàng của lão có thể đến nơi cờ bạc bất hợp pháp này một cách ung dung trên những chiếc ghe gondola lững lờ thong thả để đến nơi yên tâm lăn sả vào sát phạt nhau mà không phải sợ ai cả!
Phía sau câu lạc bộ, một nông trại cũ đã được mở rộng và chuyển đổi thành nhà khách. Ở đó Russo có một văn phòng rộng thênh thang trên lầu. Muốn đến đó, Hagen phải đi qua một thứ thiết bị phát hiện
kim khí và rồi đi qua cánh cửa thép, loại cửa dùng cho các hầm chứa tiền bạc, kim loại quí, các bảo vật... của các ngân hàng. Như Hagen chờ đợi, hai vệ sĩ thân tín của Russo ngồi ở phòng bên ngoài, tên nào cũng ôm súng tiểu liên trong lòng. Một tên đứng lên, lục soát qua loa anh và ra hiệu cho anh vào “long đàm hổ huyệt” của Ông Chủ y.
“Chẳng phải là vị consigliere người Ái nhĩ Lan duy nhất trên thế giới này đấy sao!” Russo nói. Lão ta mang một bộ khuy măng -sét bằng kim cương. “Thật là vinh hạnh.”
Hagen cám ơn và ngồi vào chiếc ghế được mời. Russo vẫn còn đứng, một xác định hơi thô thiển và nhỏ mọn về ý muốn kiểm soát.
“Michael Corleone,” Hagen nói,” đã sẵn sàng hậu thuẫn cho ông làmcapo di tutti capi và nhường chỗ ngồi của anh ấy nơi Ủy ban cho người mà anh ấy dự tính đề cử là Nick Geraci chừng nào mà ông và tôi có thể đạt đến một thỏa thuận sơ bộ trên một số vấn đề nhỏ.”
“Này, bạn nghe anh chàng kia chứ?” Russo gọi xuống sảnh cho mấy người cầm súng. “Nghe này, chàng Ái nhĩ Lan. Theo truyền thống từ nơi tớ đến, chúng tớ không làm tình với nhau mà không hôn nhau trước đã. Cậu hiểu ý tớ chứ?”
Hagen hiểu. “Tôi là dân Đức -Ái nhĩ Lan,” anh điều chỉnh. “Và tôi không có ý bất kính đâu, Don Russo. Tôi biết ông là người bận rộn, và tôi nghĩ ông sẽ đánh giá đúng mức chuyện này nếu tôi đi thẳng vào điểm chính.”
“Cà-phê? Thôi nào. ‘Gu’ của tôi đâu phải thứ đó. Một ly cocktail nhé, chàng Ái nị?” “Gu của tôi là cà-phê,” Hagen nói. Rót ra từ bình pha sẵn, thế cũng tốt rồi. “Cám ơn.” Russo cau mày. “Này anh bạn ổn chứ? Ở đây đâu có nóng.”
“Tôi ổn thôi.”
“Bà cụ tôi vẫn nói ổn là một quyết định hơn là một trạng thái.” “Cụ dạy chí phải.”
“Ờ, phải đấy, trông bạn có vẻ như hoặc là bạn bị lạc thần hoặc nếu không phải thế thì bạn đang có cái gì lạ lạ... ở trong quần bệ hạ vậy! Sốt nhiệt đới chăng? Giống như trong rừng rậm. Này, người đâu? “lão hét lên. “Anh bạn Ái nị của ta đây có lẽ cần một khăn lau. Đem đến mau!”
“Tôi chỉ cần cà-phê thôi,” Hagen nói, uống hai hơi dài làm vơi hẳn cốc cà-phê. “Chỉ có ai mang theo thiết bị nghe lén vào đây mới đổ mồ hôi như anh thôi.”
“Thật thế sao?” Russo gật đầu.
Hagen giơ cả hai tay lên trời. “Khám tôi đi,” anh nói. “Tôi chẳng phiền gì đâu.”
Russo cũng chẳng khách khí gì - không quá tự tôn cũng không quá thủ lễ - để làm chuyện đó. Lão tự tay lục soát anh. Tất nhiên là không có. Vì Hagen cần gì phải thế. Russo lại ra hiệu cho Hagen ngồi xuống. Hagen dừng lại, đợi Russo cùng ngồi.
“Một vài vấn đề nhỏ à?” Russo ngồi vào đàng sau bàn giấy của mình. “Như cái gì, chẳng hạn”
Từ cái ban -công nhỏ ở tầng ba của một thư viện được bịt kín bằng ván ở trung tâm thành phố Cienfuegos, Carmine Marino nạp đạn vào khẩu tiểu liên Liên sô mà chàng ta đã được huấn luyện sử dụng thành thạo và chờ đoàn xe của nhà lãnh tụ tiến đến con đường của mình. Chàng ta đã lạc mất hai người Cuba theo mình trong cái đêm họ đổ bộ. Tiếng Tây ban Nha duy nhất mà chàng ta nói là tiếng Ý trại ra nhưng chàng ta đã xoay xở để tìm đường đi qua hai trăm dặm của một xứ sở sống dưới chế độ độc tài để đến hai nữ điệp viên và nhận những chỉ dẫn cần thiết. Hẳn nhiên là chàng Carmine có hơi thất vọng khi không được khoản đãi một chầu sex nóng với hai nàng trong đêm Cuba nồng nàn đầy nhục cảm. Ai từng nghe một nữ điệp viên lại không khoái làm tình với một tay thích khách can trường và bảnh bao như chàng? Mà ở đây đến hai nàng cũng đều không. Sao lại thế nhỉ? Hay là hai nàng này là dân đồng tính chỉ khoái nhau, không khoái đàn ông. Đáng ngờ lắm! Hay có thể là chàng không phải là một hảo nam tử quá ư ngon lành như chàng tự nghĩ về mình. Nếu hoàn thành điệp vụ này mà còn sống sót để trở về, chàng nghĩ thầm, nhất định ta sẽ đến anh chàng Do thái một mắt kia và bảo với chàng ta nếu nhà ngươi biết cái gì là tốt cho ta thì hãy tìm cho Carmine Marino này một nàng nở nang săn chắc, cực kỳ dâm đãng và ngay tức thì! Nói thế chứ Carmine đâu có ngông cuồng rồ dại về chuyện đó. Chàng ta biết rằng những em như thế vẫn đầy ngoài kia nhưng còn đang mang sứ mệnh trọng đại trên vai, đâu có thể vì ba cái chuyện linh tinh mà làm hỏng việc lớn.
Đường phố đầy lính và dân sắp hàng chào đón lãnh tụ. Khi đoàn xe tiến đến gần, âm thanh của dân chúng tạo ra nghe có phần giả tạo, như là tiếng kim khí, như là sự ghi âm sẵn từ một đám đông hoan hô được vặn lên quá to và hơi quá nhanh. Khi còn là đứa bé mới biết đi chập chững, ở Sicily, Carmine đã nghe một nhà độc tài khác, Mussolini, được hoan hô theo lối này.
Bây giờ đoàn xe quẹo ở góc phố, qua nhà thờ lớn và chạy về phía anh, một dàn toàn xe Hoa kỳ. Chuyện này cũng hơi buồn cười đấy nhỉ, vì những kẻ đang ngồi trên những chiếc xe kia vốn ghét Mỹ mà sao vẫn khoái đi xe của thằng Mỹ chứ không chịu đi xe của ông Liên sô. Carmine đưa súng lên vai, nhắm.
Trong chiếc xe thứ tư - một chiếc ô-tô màu xanh nước biển, loại có mui gấp lại được (convertible; tiếng Pháp là décapotable), như đã được chỉ điểm - là “đích nhắm” với bộ râu đặc biệt, mặc quân phục, oai phuông lẫm liệt, đang cười hả hê và vẫy tay chào đám thần dân bị đè nén đến co rúm lại dưới bộ máy chuyên chế của mình.
Marino hít vào nhẹ và siết cò.
Đầu của lão râu ria kia giật ngược ra sau. Một dòng máu tươi vọt bắn ra thành vòng cung qua thân xe. Tài xế nhấn mạnh ga cho xe vọt lên như tên bắn.
Những tiếng la hét tràn đầy trong không khí. Cảnh sát vẫy cho phần còn lại của đoàn xe - kể cả chiếc Sedan màu đen, cách sau chiếc xe mui gấp kia hai xe, trong đó nhà lãnh tụ thực sự của Cuba đang thung dung ngồi, bình an vô sự, vững như bàn thạch - qua một đường rẽ và phóng ra khỏi thành phố.
Còn người đàn ông trong chiếc ô-tô màu xanh nước biển, mui gập kia - kẻ song trùng, hình nhân thế mạng được ưu ái của nhà độc tài - đã ngoẽo trước khi đến bệnh viện.
Bao nhiêu công khó của đám điệp viên CIA trở thành công cốc. Vì... Số Trời đã định là nhà đại lãnh tụ này sẽ đày ải đám dân kia trong một kiếp nạn kéo dài khoảng nửa thế kỉ để cho họ sám hối đủ về tội lỗi của mình?!
Đây không phải là lần đầu, cũng chưa phải là lần cuối -vì còn rất nhiều lần nữa - mà CIA lên kế hoạch mưu sát và lật đổ vị thủ lĩnh vĩ đại của một dân tộc không muốn mình vĩ đại mà chỉ muốn được hạnh phúc nhưng bị ép uổng phải trở thành vĩ đại (Bi kịch là ở chỗ đấy). Nhưng... người tính sao bằng Trời tính nên bao nhiêu mưu đồ của CIA đều đổ sông đổ biển và nhà lãnh tụ, vị cha già kính yêu của dân tộc Cuba, vẫn cứ sống phây phây phẻ phắn chờ chết êm ái vì tuổi cao sức yếu! Và chuyện này thì chưa thể khẳng định là phúc hay họa cho dân Cuba. Thế thì ta hãy... để cho lịch sử phán xét vậy!
Còn thích khách Carmine Marino thì bị bắt trên đường đến Guantánamo Bay, cải trang thành đàn bà, nhưng đâu qua mắt được mạng lưới tình báo nhân dân, so với Gestapo, CIA hay KGB vẫn hữu hiệu hơn nhiều!
Louie Russo đồng ý mọi chuyện. Nhà Corleones có thể - mà không có sự can thiệp từ Chicago - kinh doanh khách sạn và casino tại Nevada. Cả ở Thành phố Atlantic nữa, nếu, như được chờ đợi, những ngành này sẽ mở ra ở đó. Hagen thừa nhận rằng chiến dịch mưu sát của Geraci cuối cùng được kiểm soát bởi nhà Corleones, và Russo thừa nhận rằng lão ta kiểm soát những chiến dịch do Tramonti và Drago tiến hành. Những Gia đình này có thể đối địch nhau, nhưng vẫn có nhiều điểm chung với nhau hơn là những kẻ cơ hội chủ nghĩa khinh bạc (cynical opportunists) ở CIA hay trong Nhà Trắng.
Sau một bàn luận ngắn về những chi tiết đặc thù, Russo đồng ý rằng nếu người của lão ta làm việc ở Cuba trước, thì nhà Corleones có thể thâu tóm việc kiểm soát Capri và Sevilla Biltmore và hoạt động trong vòng hợp pháp mà không có sự can thiệp từ Russo hay từ bất kỳ tổ chức nào khác. Quyền lực Russo chắc sẽ có được một khi Michael hậu thuẫn việc tôn phong lão ta làm thống lĩnh chính thức đầu tiên kể từ cái chết của Vito Corleone bảy năm trước đây.
Đích thân Hagen sẽ xem xét tổ chức những người nằm trên bảng lương của nhà Corleones. Một vài trong số công cuộc này sẽ được bàn giao dần dần cho Nick Geraci nhưng cũng để cho Louie Russo sử
dụng lúc cần và tùy theo nhận định về sự giúp đỡ của lão để Michael Corleone trở thành một doanh nhân hoàn toàn hợp pháp.
Russo tỏ ra sốt sắng hợp tác đến mức càng lúc càng trở nên rõ ràng với Hagen là Mặt Đéo không có ý định để anh còn sống khi ra khỏi nơi đây. Chuyện này thì anh và Michael cũng đã nghĩ là có thể xảy ra. Biết rằng một chuyện như thế có thể xảy ra là một thế giới tách biệt với cảm nhận nó tiến gần hơn đến chỗ xảy ra. Việc đổ mồ hôi nơi Hagen không hề chậm bớt lại. Anh sẵn sàng tốn cả ngàn đô nếu có cơ hội, ngay vào lúc đó, tắm một phát và ném đi bộ quần áo nhớp nháp mồ hôi để thay vào bộ đồ mới, khô ráo, dễ chịu.
“Hôm nay quả là một ngày trọng đại, chàng Ái nị à,” Russo nói. “Chúng ta nên ăn mừng. Tớ cũng sẽ chung vui cùng với bạn, chỉ có điều là trước đây tớ đùa về chuyện uống cocktail đấy thôi. Ở đây tớ không có thứ gì mạnh hơn là món cà-phê đó và hơi thở nặng mùi của các quí ông ở ngoài sảnh, đàng kia. Quán bar của câu lạc bộ ở đó cũng được, nhưng những món thực sự hàng “top”, loại tinh tuyển của cả bang Illinois thì ở bên kia Hồ Louie kìa.”
Còn chưa đến chín giờ sáng.
“Tôi xin ghi nhận thịnh tình,” Hagen nói. “Lời mời chào của bạn quá ư là hấp dẫn nhưng rất tiếc, tôi có việc khẩn cấp phải về ngay.”
“Nào, nào, chàng Ái nị, dẫu sao bạn cũng nên nhìn qua lần cuối cơ ngơi của tớ ở đây, và mặc dầu e rằng không được khiêm tốn, tớ cũng phải nói là tớ hơi bị tự hào về nó. Chỉ mới khai trương gần đây thôi, nhưng” Russo gỡ đôi kính đen ra. Đôi mắt lão ta đỏ ngầu với một vòng xanh lè ở giữa. Lão cười, một cái cười bí hiểm, ghê rợn.
Cơn ớn lạnh chạy qua người Hagen không phải là hậu quả của việc xuất mồ hôi và của máy lạnh, mặc dầu anh tự nhủ như thế.
“ - Tớ biết một số người,” Russo nói. “Chưa từng ngao du trên chiếc gondola?” “Không thể nói là tôi từng,” Hagen lửng lơ.
Russo xua anh ra khỏi cửa. Những người với súng tiểu liên đứng lên. “Tiếp quản cái này,” Russo nói. “Chàng Ái nị đây chưa từng được thưởng thức một cuộc viễn du không hẹn ngày về trên du thuyền Gondola năm sao của chúng ta. Đấy chẳng phải là một trong những điều mà người ta phải làm trước khi xa rời cuộc đời hay sao. Rất mong Ngài Consigliere đây, khi sang đến cõi u minh, sẽ điện về cho tớ biết cao kiến!”
Joe Lucadello đi đến cửa trước của nhà Geraci, ngay vào lúc nửa đêm và bấm chuông. Geraci đã ngủ gục trên ghế trong “hổ trướng” của anh ta ở nhà sau. Charlotte đã uống một viên thuốc ngủ và không còn biết chi đến cái sự đời nữa. Barb đang ở trường cao đẳng. Sau nhiều hồi chuông reo, Bev Geraci trả lời nhưng chỉ thông qua intercom.
“Nói với Bố cháu là chú Mike Rosen đến.” “Liệu Bố cháu có biết chuyện gì không?” “Biết chứ, tại sao không?”
“Chuyện gì xảy ra với mắt của ông vậy?” cô bé hỏi. “Có thật như thế không?” “Thật đấy. Một vết thương từ thời chiến tranh.”
“Tôi không tin ông,” Bev nói.
Lucadello đẩy miếng che mắt lên. Mặc dầu chỉ nhìn qua lỗ cửa, nhưng sự thiếu một tròng mắt trông cũng đủ ghê sợ khiến cô gái hét lên và chạy đi. Lucadello thở dài, ngồi xuống trên bậc cửa và chờ cảnh sát đến. Đó là một chuyện xuất sắc khác mà những người này đã phát minh ra. Cảnh sát vận hành như lực lượng an ninh riêng của họ, và những người khác - những người dân sự - sẽ triệu tập họ khi cần.
Hai xe chở quân xuất hiện. Cảnh sát ùa ra, súng rút khỏi bao. Lucadello đưa hai tay lên. Anh xuất trình cho họ xem bằng lái xe mang tên Ike Rosen và nói với họ mình có công việc về xuất nhập khẩu cần trao đổi với Ông Geraci. Sở dĩ anh đến đây vào cái giờ rất bất tiện, phiền phức thế này chỉ vì một sự cố không may trong thủ tục hải quan. Vào lúc đó, sự chấn động ầm ĩ đã đánh thức Nick Geraci. Anh cám ơn những người cảnh sát và trấn an con gái mình. Rồi anh và tay điệp viên ra lại phía sau, vào “hổ trướng” của mình để mật nghị.
Lucadello ngồi xuống và cho Geraci biết tin tức về Carmine.
“Hãy yên tâm,” Geraci nói, “dầu chúng có làm gì đi nữa, cậu ta cũng không hé răng đâu. Tay này bản lĩnh kiên cường lắm.”
“Dầu cậu ta có nói gì đi nữa cũng chỉ có thể là vấn đề của các bạn.”
“Thế à?” Geraci không chắc lắm là tay điệp viên đang nói về chuyện gì, nhưng cách chọn đại từ của anh ta - vấn đề của các bạn chứ không phải làvấn đề của chúng ta - rõ ràng không báo hiệu điềm lành.
“Chính quyền Cuba có điên mới đi tra tấn cậu ta. Họ có điên mới đi làm bất kỳ chuyện gì ngoại trừ làm ồn lên trên các phương tiện truyền thông và trên các diễn đàn ngoại giao quốc tế về tay người nước ngoài này đã âm mưu sát hại “cục cưng” cách mạng yêu quí, đầy râu ria của họ (their bearded, beloved revolutionnary sweetheart). Bọn Nga sẽ đứng về phía họ. Liên hiệp quốc sẽ bị lôi kéo vào. Khi họ trục xuất cậu ta, chúng ta sẽ không còn cách nào khác là phải bỏ tù cậu ta, có thể phải khử cậu ta.”
“Đừng lo lắng về chuyện đó,” Geraci nói. “Carmine Marino vẫn còn là công dân Ý. Nếu họ trả cậu ta về lại nơi đó, cậu ta có một nghĩa phụ khá thế lực sẽ che chở cho cậu.”
Lucadello lắc đầu. “Bạn không hiểu. Chúng tôi cần khử cậu ta từ lâu trước khi bất kỳ chuyện gì đó xảy ra. Nhưng tôi e rằng đó chính là chỗ mà vấn đề của bạn bắt đầu.”
Geraci sẽ là tên ngốc biết mấy nếu anh ta để cho tên con hoang một mắt này giết mình ngay chính trong sân sau nhà mình. “Đứng lên!”Geraci nói. “Tôi cần lục soát bạn.”
“Thích thì chiều thôi. Có điều nếu mà mình muốn giết bạn thì bạn đã ăn đất từ lâu rồi. Và nếu bạn phí thời giờ quí báu về những chuyện như thế này, e rằng bạn sẽ kết thúc theo cách đó.”
Geraci vẫn cứ lục soát anh ta và lấy ra một khẩu súng và hai con dao.
“Hãy giữ chúng với lời khen tặng của tôi,” Lucadello nói. “Mình ở về phía bạn mà, bạn nhớ chứ?”
Geraci ra hiệu cho anh ta ngồi xuống lại. “Khuya rồi. Mình đang ngủ. Xin thứ lỗi nếu mình lẫn lộn về chuyện tại sao đây lại là vấn đề của mình mà không phải là của bạn.”
“Ồ cũng là vấn đề của mình đấy. Xem nào, mình có nghe một nhân vật hàng top - không phải chủ của mình mà là chủ của ông ấy - rằng FBI biết về trại quân của Tramonti đang hoạt động ở Jacksonville. Họ đã tiến hành điều tra. Tôi có nghe lời đồn trôi nổi đây đó rằng FBI cũng đã được báo trước về chiến dịch của chúng ta, nhưng không có vẻ đáng tin. Nhưng sau sự cố này, thì nó cũng không thành vấn đề. Nguy cơ một ai đó ở Cục nối kết mọi chuyện là khá cao.”
“Và bạn không thể bảo vệ tôi từ đó? Bạn không làm gì được sao?”
“Rất ít trong những tình huống này,” anh ta nói. “Tôi muốn khử những tên đó.” “Vậy thì, cứ làm đi,” Geraci nói. “Tôi không cản bạn đâu.”
“Không may là,” Lucadello nói,” đấy không phải là một lựa chọn. Dẫu thế nào nó cũng sẽ không giải quyết mọi chuyện cho bạn. Chúng tôi có nguồn tin tình báo đáng tin cậy cho biết rằng cố nhân của bạn, Michael Corleone từng nhiều lần định giết bạn. Điều duy nhất trước nay anh ta chờ đợi là để cho bạn làm xong chuyện này. Bây giờ vì bạn chẳng làm được việc gì cả, chúng tôi tin rằng sinh mệnh của bạn đang đối diện nguy cơ trước mắt đấy. Thêm nữa là, chúng tôi còn có nguồn tình báo, kém tin cậy hơn một tí, nhưng cũng đáng nên lưu ý, đó là Louie Russo cũng dự định thủ tiêu bạn, hình như bởi vì, rằng thì là..., ờ, tôi không biết mọi chuyện diễn ra như thế nào trong nội bộ của các bạn, nhưng dường như có một cái gọi là... Ủy ban?”
Geraci nhún vai. “Chưa từng nghe đến bao giờ.”
“Tất nhiên là không. Điều khác biệt là, mọi chuyện Russo làm đều được sự chấp thuận của họ, còn, đáng tiếc là, chiến dịch của bạn lại không. Hình như đó là một sự phá vỡ nghi thức (a breach of protocol) đủ nghiêm trọng để họ cho phép... ờ, chúng tôi không chắc là ai. Giả định là Russo. Thủ tiêu bạn, chuyện là thế. Bạn không rung lắc gì cả à?”
“Nó đến và đi. Một hiện tượng thuần sinh lí.”
“Nếu điều gì đó giống như chuyện này xảy đến với tôi, e rằng tôi sẽ rung lắc dữ dội.”
“Đây chỉ là một dạng của hội chứng Parkinson. Không phải sợ hãi. Không liên quan gì đến sợ hãi. Vả chăng, làm thế nào bạn biết được điều gì đó giống như chuyện này lại không xảy ra với bạn?”
“Ồ, mình chắc là nó đang xảy ra,” anh ta nói. “Bất cứ giá nào, thì mọi chuyện cũng đang di động nhanh và bạn cần phải di động còn nhanh hơn. Cái này, theo lời dạy của một bậc thầy về binh pháp - hình như là Tôn tử thì phải - gọi là dĩ nhất biến ứng vạn biến, hay gì gì đó. Tôi không chắc là về câu chữ mình có nhớ chính xác không nhưng đại khái nghĩa lí thì như thế.”
“Chứ không phải là chúng ta?”
“Ồ không,” Lucadello nói. “Không phải chúng ta. Chúng tôi chưa từng có liên hệ chút chi với bất kỳ chuyện gì. Bạn và tôi chưa bao giờ gặp nhau. Không hề có chúng ta. Cũng không có tôi. Điệp viên Ike Rosen không hề tồn tại trên cái cõi đời ô trược này.”
Lucadello nói rằng điều tốt nhất mà anh ta có thể làm là đưa Nick Geraci và gia đình anh khỏi nơi đó. Những tấm vé một chiều dưới những cái tên giả định, đến bất cứ nơi nào trên trái đất. Chuyện khả thi là sẽ có người đón họ ở sân bay, cho vài hướng dẫn nhanh cần thiết về việc bắt đầu một cuộc đời mới ở bất kỳ nơi nào họ sẽ đến. Tất nhiên là chuyện này không phải khả thi ở mọi nơi, nhưng nếu Geraci muốn nêu lên một số địa điểm nào đó, thì anh ta có thể nói chúng có phải là lựa chọn tốt hay không.
Geraci nhìn vào khẩu súng trên bàn của mình. Tên láu cá này có bị giết có lẽ cũng là đáng đời. Giết hắn có lẽ cũng không làm cho mọi chuyện tệ hơn như chúng đang là.
Thế rồi, trong một tia chớp, hầu như một thị kiến, anh nhìn thấy đường ra khỏi mê cung này, hay ít nhất làm thế nào để mua thời gian.
“Đồng ý,” Geraci nói, đưa bàn tay phải ra, bắt chước, một cách có ý thức, nghĩa phụ của mình - Vincent Forlanza. “Có bốn điều. Trước tiên” - ngón trỏ chỉ lên - “Tôi sẽ đến Sicily. Như thế tôi không cần có người của bạn đón rước, hướng dẫn gì cả. Tôi có người thân ở đó rồi. Thứ nhì” - ngón giữa giơ lên - “Tôi không bay. Chấm. Miễn bàn tại sao. Nhưng bạn giúp tôi đến nơi tôi muốn đến, và cả gia đình tôi nữa. Thứ ba” - ngón tay đeo nhẫn - “Tôi đoan chắc với bạn, là Michael Corleone, cố nhân của tôi, sẽ không giết tôi đâu, vậy nên bạn có thể kiểm tra lại nguồn tin tình báo của bạn và xem nó chuệch choạc chỗ nào. Và thứ tư” - ngón út - “Tôi quyết liệt khuyên bạn không nên giết Carmine Marino hay cho người giết cậu ta.”
“Ba trong bốn điều bạn nêu ra chúng tôi hoàn toàn đáp ứng như bạn mong muốn. Nhưng còn với Carmine, thật lòng tôi cũng yêu thích cậu ta lắm. Cậu ta không hề làm điều gì sai. Cậu ta đã đến nơi cậu ta được lệnh đến, đã bắn một phát đúng y boong mục tiêu mà chúng tôi bảo cậu ta bắn, rồi cậu ta cũng đủ khôn ngoan để nuốt xuống lòng kiêu hãnh đàn ông và ăn mặc như một phụ nữ để cố tìm cách trốn thoát. Nếu đủ quyền quyết định, tôi sẽ tưởng thưởng và tuyển dụng tiếp cậu ta, thế nhưng... ờ, tôi chỉ có thể nói là chuyện đó ngoài tầm tay của tôi. Lực bất tòng tâm, xin bạn thông cảm.”
Geraci mỉm cười. “Tên thời con gái của bà mẹ Carmine là Bocchicchio.”
Ngay cả sau khi anh đã giải thích về tài năng đánh thuê khó ai bì kịp của bộ tộc Bocchicchio nhất là khi trả thù chính đáng, Lucadello vẫn không lay chuyển.
“Vậy họ sẽ đeo đuổi ai, hở?” Lucadello nói. “Chính quyền Mỹ?” Geraci lắc đầu. “Họ giải quyết từng em một thôi.”
“Nghĩa là gì? Tôi? Hay, chờ tí, tôi biết rồi! Họ sẽ đeo đuổi Tổng thống!”
Đột ngột, Geraci lại run. Để kiên định lại, anh đi qua lại trong phòng, bất ngờ nắm chặt áo Lucadello, kéo giật thật mạnh khiến anh chàng này ngã xuống chân anh. “Carmine hiện còn sống,” anh thì thầm. “Hãy để hắn sống nhé và họ sẽ không đeo đuổi bất kỳ ai.”
Chỉ có một người chèo thuyền làm việc vào lúc sáng sớm như thế, nhưng các chiếc gondolas ở đây khá lớn với lòng thuyền rộng rãi. Như Hagen chờ đợi, thủ hạ của Russo đem theo súng tiểu liên lên thuyền.
“Đừng có nhìn như thế chứ, chàng Ố nị,” Louie Russo đổi giọng, ngồi vào phía trước. “Tớ biết chú em không phải là loại lính cơ bắp. Chú mày làquân sư quạt mo ngồi trong trướng quyết việc xa ngàn dặm mà! Đáng tiếc là chú mày lại quá khinh suất dám thiên lí tẩu đơn kỵ vào tận long đàm hổ huyệt của ta. Giờ thì cá nằm trên thớt rồi đừng vùng vẫy, giãy nãy chỉ vô ích. Hãy thư giãn và ta sẽ ân hạn cho sống lâu hơn chút chút. Tin ta đi. Lời danh dự của thống lĩnh đấy.”
Mấy tên bộ hạ của lão cười hùa theo để nịnh thủ lĩnh của bọn chúng. Người chèo thuyền quay mắt đi và không nói năng gì. Anh ta bắt đầu đưa họ qua cái hồ nhân tạo hôi thối. Cuối cùng anh ta và Hagen giao tiếp bằng mắt. Hầu như không ai thấy, anh ta gật đầu.
Hagen thôi đổ mồ hôi. Một cảm giác yên bình tràn qua người anh. Russo đang ba hoa về chuyện bằng cách nào hắn ta gầy dựng nên cơ ngơi này với vẻ đắc chí thấy rõ, và hắn muốn Hagen trước khi lìa đời cũng phải tâm phục khẩu phục tài trí của hắn, nhưng dĩ nhiên là Hagen đâu thèm nghe lời hắn, mà chỉ lo tập trung động não để ứng phó sao cho hữu hiệu nhất trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc này. Anh quan sát bờ bên kia, dự kiến lúc đi đến giữa hồ, cúi người xuống vừa đủ để không ai lưu ý là anh đang tháo dây nịt (thắt lưng) ra.
Được nửa đường, người chèo thuyền rút mái dầm lên khỏi mặt nước. Anh ta đã thực hiện hàng vạn cuộc chèo thuyền qua lại cái hồ này rồi và công việc đó giúp cho anh ta có đôi cánh tay khỏe đến độ bất kỳ đại lực sĩ nào cũng phải ghen tị! Khi Hagen rút dây nịt ra và cầm hai đầu kéo thẳng ra, anh chàng chèo thuyền vung mái chèo, tháo xiềng xích cho cơn giận bị dồn nén từ lâu của một người đã bỏ ra bao nhiêu năm muốn làm chuyện này đối với tất cả những tên bố láo huênh hoang vẫn ngồi trên chiếc gondola mà anh ta phục dịch việc chèo qua lại trên hồ. Hôm nay, chiếc hồ này sẽ thành dòng sông địa phủ Achéron cho các người đây. Chiếc mái chèo của anh ta vụt đánh bốp - với tất cả sức mạnh cuồng nộ bị kìm hãm từ lâu nay - vào sọ của một trong hai tên vệ sĩ khiến y đổ gục xuống tức thì, không kịp kêu lên tiếng nào. Không thể có ngón tuyệt kỹ nào hiệu quả hơn!
Tên kia lủi một vòng để tránh nhưng trước khi kịp giương súng để bắn thì y đã bị giật đầu ngã ngược ra sau. Chiếc dây nịt da của Tom Hagen đã siết chặt vào cổ y và một đầu gối anh chèn sau lưng y khiến y ngước mặt lên trời rồi thè lưỡi ra, mắt trợn ngược, cứt đái cùng lúc tháo chạy tán loạn ra khỏi người y, thối um, khai ngấy!
Người chèo thuyền rất nhanh chóng bỏ mái chèo chộp lấy khẩu súng nơi người chết đầu tiên và chỉa mũi súng vào mặt Louie Russo.
Con mồi trong tay Hagen dãy dụa, giật giật mấy cái, mặt tím tái rồi toàn thân cứng đờ. Tom Hagen đẩy y ngã sấp mặt xuống sàn thuyền.
Russo dợm nhảy và làm động tác bơi, nhưng trước khi y kịp ra khỏi thuyền, người chèo thuyền đã nắm vào phía sau cổ áo y rồi giữ chặt y lại. Cặp mắt kính của y rơi tõm xuống nước.
Ông Trùm với những ngón tay nhỏ nhắn, có phần ẻo lả, bắt đầu ca bài ca con cá. “Em cắn rơm cắn cỏ lạy quí ông anh tha cho cái mạng heo chó của em. Quí ông anh muốn gì em cũng xin chiều. Em không dám tiếc cái gì cả, miễn là được sống. Thế nhé, quí anh nhé!” Và lão cộp cộp côp, dập đầu ba lần vào mạn thuyền, hành đại lễ xin tha mạng.
“Đừng có cợt nhã với ta bằng những trò ba hoa đó,” Hagen nói. Anh rút khẩu.22 có gắn bộ hãm thanh ra khỏi áo khoát của kẻ bị anh giết. Đồ chơi hàng tuyển của thích khách. Hai tay anh tê tê ngứa ran do cố gắng vận sức để siết cổ tên kia cho chết đứ đừ đừ. “Mi đã dự tính giết ta,” Hagen nói, giật giật khẩu súng trước mặt Russo. “Nhưng kiến đã không ăn được cá thì giờ đây cá lại xơi kiến. Có ý kiến ý ruồi gì không? Có buồn không dzậy? Nhưng buồn mà chi em. Ráng dzui lên trước khi chết thì sẽ được đi đầu thai sớm hơn. Hiểu được cái đạo lí đó không hở, bồ tèo?”
“Ông anh điên rồi,” Russo thút thít, rên rỉ. “Đó chỉ là khẩu súng. Nó đâu có nghĩa gì. Nó đâu có tội tình gì.” Trong cơn quýnh quáng, y nói mà không còn biết mình nói gì, chỉ còn biết nói cho đỡ sợ, đồng thời cũng hy vọng mong manh là kẻ thù động lòng, nghĩ rằng tha cho mình thì có lợi hơn, hoặc là chùng chình chưa giết mình ngay thì biết đâu, nhờ phúc đức ông bà tổ tiên nhà ta, mà sẽ có viện binh đến kịp lúc... Sắp chết đuối thấy cọng rơm cũng vớ. Là thế.
“Ờ, súng đạn thì chẳng có tội tình gì nhưng mi thì có đấy! Mà ngay cả nhà ngươi có ngây thơ vô (số) tội thì ta cũng đếch cần biết. Mi đã cho Roth ý tưởng cài bẫy cho Fredo phản bội Gia đình, và mi dàn dựng mọi chuyện với bộ hạ của mi ở L.A. Mi đã làm hàng trăm chuyện khác khiến ta giận sôi gan nên mới giết mi đây.”
“Anh?” Nước mắt Russo làm nhòa đi hiệu ứng của đôi mắt hiểm độc, quỉ quyệt của y. Nước mũi chảy ròng ròng từ cái mũi giống như con c... t đỏ bầm nằm giữa mặt y. “Giết tôi? Anh đâu phải bên võ, anh bạn Ái nhĩ Lan. Anh là một luật sư, một Hạ nghị sĩ mà. Anh nghĩ là họ sẽ để yên cho anh sao, chàng Ái nhĩ Lan khôn ngoan, đa mưu túc trí.”
Suốt cuộc đời trưởng thành của Hagen thiên hạ đều nghĩ lầm về anh. Trước tiên và trên tất cả anh là một thằng nhóc Ái nhĩ Lan cùng khổ sống lang thang trên đường phố. Đứa bé ấy đã chui rúc trong những bụi cây và trong những đường ngầm suốt cả mùa đông ở New York và từng thắng trong những trận đánh đấm nhau với người lớn để giành lấy nửa ổ bánh mì đã mốc meo. Tính cạnh tranh khốc liệt để sinh tồn trong quãng đời niên thiếu đó đã giúp anh có những kỹ năng về cơ bắp và thể lực ít ai ngờ tới nếu chỉ biết anh như một học sinh, một sinh viên, con nuôi của một gia đình giàu có và quyền thế (cả trong thế giới nổi lẫn trong thế giới ngầm), rồi thành ông luật sư chỉ xách các -tắp, ngồi bàn giấy và múa võ mồm. Khối người bé cái nhầm là vì thế.
Hagen nâng khẩu súng ngắn lên. Giờ đây đến lượt anh cười khảy.
“Nếu bạn sống trong hang sói đủ lâu,” Hagen nói, “ắt bạn cũng biết tru như sói.”
Anh khạc lửa. Viên đạn xé vào não Louie, nhảy thia lia vòng quanh sọ lão ta, và không tạo ra lỗ thoát như kiểu một viên đạn có khẩu độ lớn sẽ tạo hiệu ứng như thế.
Hagen ném khẩu súng xuống hồ.
Anh và anh chàng chèo đò nhanh chóng, lặng lẽ buột những vật nặng vào ba tử thi và ném chúng ra khỏi thuyền. Không ai thấy họ. Anh chàng chèo thuyền đưa Hagen trở lại bờ rồi đi cọ sạch chiếc thuyền với một dung dịch tẩy. Anh không thấy vết máu nào nhưng giữ an toàn vẫn tốt hơn. Ăn vụng trứng nếu chỉ chùi mép cho sạch thì vẫn chưa an toàn mà phải đánh răng súc miệng thật kỹ mới không sợ bị phát hiện. Nhớ nhé!
Hagen lấy xe của Louie Russo và lái để chuồn đi. Anh chàng chèo thuyền sẽ sẵn sàng thề trên linh hồn bất tử của bà mẹ thánh thiện của mình rằng mình đã thấy tận mắt chiếc xe của Russo phóng đi xa.
Chiếc xe được tìm thấy hai ngày sau nơi bãi đậu xe của sân bay. Báo chí đăng tin rằng những hành khách với bất kỳ một trong nhiều biệt danh được biết là từng được Louie Mặt Đéo dùng đã lên máy bay ngày hôm đó. Không có cái nào trong những cái tên này tương ứng với người thật nào.
Những vệ sĩ là các chiến binh trung thành, tin cậy của Russo, những người mà rất khó, nếu không nói là bất khả cho nhà Corleones lung lạc, mua chuộc. Đàng khác, chàng chèo thuyền nọ, trong không đầy một
năm, đã làm được việc đáng giá hơn cả kho tàng của Russo. Sau một tháng người ta tìm thấy xác của Russo và hai chiến binh của lão. Nhưng họ đâu phải là những cái xác duy nhất nơi đáy hồ nọ. Còn nhiều, nhiều những cái xác vô danh nữa chưa được nhận dạng và có lẽ cũng không ai “hưỡn” để nhọc công đi làm việc đó để mà ăn cái giải gì! Requiescat in Pace! Hãy để cho họ yên nghỉ. Cái hồ đầy axít đã tăng tốc quá trình phân hủy. Khi cảnh sát bang cho tháo nước rút cạn hồ và lớp bùn trên cùng được hút đi thì xương người lộ ra ngổn ngang cũng gần bằng với khi người ta bốc mộ di dời cả một nghĩa trang, phần lớn được cho vào những bao súng tiểu liên, những vali lớn hay những thùng đựng dầu được chèn thêm những vật liệu nặng như sõi đá, sắt thép...
Vào lúc đó thì tay chèo thuyền biến mất.
Không một nhân viên công lực nào cũng chẳng một ai trong bộ sậu Chicago tìm ra được chàng ta. Chàng ta sống hết những năm tháng còn lại dưới một cái tên khác trong một thị trấn nhỏ ở Nevada, quản lí một cửa hàng bán súng và một nghĩa trang tư nhân trên đất mua lại của chính quyền liên bang (bằng tiền của người khác), chỉ cách những vành đai ngoằn ngoèo, bị nhiễm phóng xạ của Doomtown có vài mươi dặm. Quả là một con người sống giữa thế kỉ hai mươi mà hành động như một hiệp khách thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sự liễu phất y khứ, Thâm tàng thân dữ danh (Xong việc rũ áo biến, Ẩn sâu thân cùng danh - Hiệp khách hành. Lí Bạch, P.Q.Đ. dịch).
Joe Lucadello gọi từ một điện thoại trả tiền liền chỉ cách nhà Geraci chưa đầy một dặm và kể lại cho Michael Corleone mọi chuyện. Lời nói dối mà anh ta bịa ra về Russo, lời nói thật mà anh kể về Michael. Những chi tiết về chuyến tàu sẽ đưa Geraci đi Sicily. Một mình. Vợ con anh ta sẽ không đi chung với anh ta, điều này sẽ làm cho mọi chuyện dễ dàng hơn.
“Tiếc là chúng ta đã không cho thực hiện chuyện đó ở ngay đó,” Lucadello nói, ý chỉ Cuba. “Mình biết là bạn mong như vậy.”
“Chúng ta còn sống để chiến đấu vào một ngày khác nữa,” Michael nói. “Một người còn đòi hỏi gì hơn nữa ở cuộc đời?”
“Có thể hơn một chút thôi,” Joe nói. “Nhưng chỉ khi người ta trẻ.”
Tại tư dinh ở Chagrin Falls, Vincent Forlanza thức giấc trong bóng tối, thở một cách khó khăn, với cảm giác nhức buốt quen thuộc của một con voi đứng trên ngực mình. Ông cố bấm chuông để gọi cô điều dưỡng. Ông biết cú đột quị tim mạch khi ông có nó. Đây không phải là lần đầu, và cũng chẳng có cơ may là lần cuối. Song không đến nỗi tệ như những lần khác. Giống chú voi con hơn. Mặc dầu có lẽ là do ông đã quen với nó.
Cô điều dưỡng gọi xe cứu thương. Cô cố làm những gì mình có thể và nói với ông rằng ông sẽ ổn thôi. Cô không phải là một chuyên gia về tim mạch, nhưng cô hiểu điều mình nói. Bởi nhìn cho kỹ thì những dấu hiệu sự sống nơi ông còn tốt.
Vincent Forlanza là một người thận trọng. Ông Trời hình như cũng phải khó khăn để gọi lão già ngoan
cố này về chầu mình, và lão ta càng là một món dai nhách khó nhằn đối với người trần. Bởi mặc dầu tuổi cao sức yếu, bệnh tật hiểm nghèo như vậy nhưng ai dễ gì đụng đến lão. Biết bao nhiêu người thân tín lo chăm sóc, bảo vệ cho lão. Biết bao nhiêu tường thành kiên cố vây quanh lão. Tư dinh ở đây và khu phức hợp có phần nổi và phần ngầm của lão ở Rattlesnake Island (Đảo Rắn Rung chuông) được xây dựng vô cùng kiên cố và được canh giữ rất cẩn mật. Đã nhiều năm rồi kể từ lúc Forlanza bước vào một chiếc xe hay chiếc thuyền mà không bảo thuộc hạ kiểm tra kỹ có ám khí nào được cất giấu trong đó không. Thường lệ ông cho hai thuộc hạ làm việc đó mà hai kẻ này rất là không ưa nhau, luôn tranh công, kèn cựa nhau và luôn muốn phát hiện ra kẻ kia đang phản chủ. Ông không ăn món nào không được chế biến dưới sự chứng kiến của ông. Nhưng ngay cả Don Forlenza, trong giờ cần đến chăm sóc y tế, cũng không hề có ý nghĩ tra vấn những người đến để cứu mạng mình. Những người trông coi nhà cửa và các vệ sĩ cũng không. Cả cô điều dưỡng, vốn thấy không có gì bất thường trong cách xử lí người bệnh của những người trên xe cứu thương. Cũng không có gì bất thường nơi chiếc xe cứu thương - cho đến khi nó rời đi và chỉ một thời gian ngắn sau đó, một chiếc khác giống hệt trờ tới.
Chiếc xe cứu thương thứ nhất được tìm thấy vào ngày hôm sau, một dãy phố cách nơi nó đã bị lấy trộm. Ông Trùm Do thái Vincent Forlanza từ ngày ấy tuyệt tích giang hồ, không hẹn nhân gian thấy bạc đầu.
Trong lô dành cho gia đình nơi sân vận động, Tom và Theresa Hagen và cậu con đẹp trai của họ, Andrew đứng lên để chào quốc kỳ. Tom đặt nắm tay lên ngực và thấy mình đang hát theo.
Thường thì anh chỉ lầm bầm thôi mà,” Theresa nói.
“Đây là một xứ sở quá vĩ đại,” Tom nói. “Không nên chỉ lầm bầm khi hát quốc ca.”
Frankie Corleone là cầu thủ nhỏ người nhất trong hàng phòng ngự của đội Notre Dame, nhưng ở hiệp nhất ngay trong thời điểm chờ phát bóng cậu đã sút bóng vượt tuyến và bóng đập vào tay hậu vệ khổng lồ của đội Syracuse Orangement mạnh đến nỗi đầu chàng ta bật ra sau rồi cả thân mình cũng ngã theo. Đám đông la hét nháo nhào nhưng Frankie vẫn lững thững chạy đến trước đám đông lộn xộn kia như thể cu cậu chẳng làm điều gì bất thường.
“Frankie!” Andrew hét lên. “Cháu ơi!” Theresa gọi.
Tom và Theresa ôm nhau, còn chàng hậu vệ đội Syracuse lắc lư bước ra khỏi sân mà không cần cáng.
Sang hiệp sau, Syracuse cố vượt lên. Khung thành của Notre Dame đang để hở vì thủ môn đã lao ra trái hướng. Ngay lúc quả bóng lừng lững sắp chui tọt vào khung thành thì Frankie vụt xuất hiện từ đâu không biết và đập mạnh cho quả bóng tạt ngang ra biên.
“Hay, hay quá!” Theresa hò reo.’ Tiến lên, Frankie!”
“Hảo Thủ!” Tom reo hò. Đó là biệt danh của cháu anh. Anh không cho phép mình nghĩ tới nghĩ lui gì về điều đó cả.
“Lẽ ra Má phải cổ vũ cho đội Syracuse chớ?” Andrew chế diễu mẹ mình (Vì Syracuse là trường cũ của Theresa).
Hôm ấy là một ngày đẹp trời của tháng mười một, rất thích hợp để chơi bóng, thời tiết khô lạnh và đang tranh đấu để có mặt trời. Mọi người còn nên đi xem một trận cầu ở Notre Dame nữa tại sân vận động Golden Dome.
“Chuyện này là khác,” Theresa trả lời con. “Gia đình mà.”
Nơi cảng Palermo, Michael Corleone ngồi trên boong của chiếc du thuyền yacht thuộc về ông bạn cũ của bố anh, Cesare Indelicato. Michael chưa bao giờ du hành với nhiều người tháp tùng đến thế vì lí do an ninh như trong lần này nhưng Don Cesare không lấy thế làm phiền lòng bởi họ đang sống trong thời buổi xáo trộn.
Michael ngồi vào một chỗ tiện nghi thoải mái, chỉ cách vài trăm mét đối với Geraci khi anh chàng này đến Sicily, để có được sự thống khoái lúc chứng kiến anh chàng này bị bắt khỏi thuyền bởi những sát thủ thiện nghệ nhất của Sicily.
Michael sẽ phải quay trở về New York. Khác với Hagen, những nhân vật xuất sắc mà Gia đình Corleone còn lại đều đặt ra những nguy cơ khó thể chấp nhận bởi những liên hệ của họ với Geraci. Những bộ mặt khác thì cũng vào hạng “lục lục thường tài” thôi như Eddie Paradise hay anh em DiMiceli. Michael sẽ phải điều hành Gia đình trở lại, phải để mắt đến mọi mặt. Anh sẽ có thể làm cho có vẻ như anh đang quay về trong chiến thắng, anh chắc như thế - việc loại trừ Louie Russo và Vincent Forlanza sẽ củng cố điều đó, ít nhất là trong mắt của những tay chóp bu từ các Gia đình New York khác. Nhưng biết bao những điều mà Michael từng mong ước - tính hợp pháp, bình yên, tình yêu của vợ và con cho mình, một cuộc đời khác và tốt hơn là cuộc đời bố mình đã sống giờ đây đã ngoài tầm với của anh: trong nhiều năm và có lẽ là mãi mãi.
Vết thương nhức buốt này sẽ không hề dịu đi bởi việc giết Geraci. Anh biết thế. Sẽ không có lạc thú nào để rút ra từ một điều như thế. Anh cũng biết như thế.
Tuy nhiên.
Trong khi họ chờ đợi, Don Cesare - theo cái cách gián tiếp kiểu Sicilian tiêu biểu của ông ta - bàn luận về những lợi ích của việc làm thành viên Tổ chức Tam điểm La mã (Roman Masonic Organization) mà tên gọi, Propaganda Due, ông ta không cần phát âm nhưng vẫn được hiểu ngầm giữa những người này. P2, như nó thường được gọi (mặc dầu Indelicato cũng không nói điều này), là một hội kín được đồn đãi là còn mạnh hơn cả Mafia, Tòa thánh Vatican, CIA và KGB cộng lại. Michael đang được lôi kéo làm thành viên, và nếu mọi chuyện suôn sẻ, anh sẽ là người Mỹ đầu tiên được chấp
thuận vào hội. Ngay cả Bố anh xưa kia cũng chưa được xem xét vinh dự này. Đây là một dấu hiệu cho thấy rằng, ngay cả đang lúc dư luận còn ồn ào về thất bại của vụ ám sát nhà lãnh tụ Cuba, những nhóm quyền lực nặng kí nhất vẫn hiểu rằng Michael Corleone đã được an bài để đảm nhận vai trò như là thế lực khuynh loát nhất trong thế giới ngầm ở Mỹ. Bất kỳ người nào khác ở vào địa vị Michael cũng sẽ “thấy phê” vì được vuốt ve tự ái và anh mạo hiểm làm ra vẻ như thế.
Cuối cùng con tàu lọt vào tầm nhìn. Michael chiêu một ngụm nước lạnh và dõi mắt quan sát những người mà Indelicato đã cài cắm ở bến tàu.
Con tàu vào bến.
Hành khách lần lượt rời tàu.
Chẳng thấy bóng dáng Nick Geraci đâu.
Indelicato gật đầu ra hiệu cho một người ở trên mái chiếc du thuyền yacht, anh ta vẫy một lá cờ màu cam, ra hiệu cho những người trên bờ thâm nhập con tàu kia và đi tìm mục tiêu.
“Họ sẽ tìm ra hắn ta thôi,” Don Cesare nói. “Đây toàn là những tay thiện chiến, và hắn ta không có nơi nào khác để đi.”
Nhưng chẳng mấy chốc đài phát thanh từ tàu đến bờ rạn vỡ với tin xấu. Mục tiêu dường như đã “né đẹp” họ.
Nổi điên, Michael kêu đài phát thanh gọi về Mỹ.
Anh không tiếp xúc được với Joe Lucadello, nhưng phụ tá của anh ta bảo đảm với Michael rằng không có gì chuệch choạc cả. Họ đã phải dùng nhiều lớp trung gian để che giấu nhân thân của người đó, nhưng người phụ tá bảo đảm với anh rằng, trừ phi anh chàng kia nhảy ào xuống đâu đó vào lòng Địa Trung Hải, thì anh ta phải ở trên con tàu đó. Tôi bảo đảm với anh đó là hắn ta,” người phụ tá nói. “Tôi có đầy đủ giấy tờ trước mặt đây. Fausto Geraci. Passport, hình ảnh, mọi thứ.”
Huýt sáo một điệu dân ca Palermo mà mẹ hát ru cho mình khi còn tấm bé, Fausto Geraci cha, biến đi dưới vòm cung xưa bằng đá gần bến tàu vào khu thành nội Palermo.
Cesare thú nhận mình cũng bối rối trước các tình huống, chẳng khác chi Michael.