Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 30: Maglite
“A
nh định bảo em rằng có gã tâm thần nào đó đang đuổi theo mẹ con em vì anh không thể tìm ra kẻ đã giết một người thân của hắn ư?” Giọng Rakel rít lên trong điện thoại.
Harry nhắm mắt lại. Halvorsen đã ra cửa hàng Elmer và chỉ còn mình anh trong phòng làm việc. “Nói ngắn gọn là như vậy. Anh đã có một thỏa thuận với hắn. Hắn đã thực hiện phần của mình.”
“Và đó là lý do tại sao mẹ con em bị săn đuổi ư? Đó là lý do em phải chuyển khách sạn cùng với con trai em, đứa trẻ mà trong vài ngày nữa mới biết được liệu nó có được ở với mẹ mình hay không ư? Chuyện đó… chuyện đó…” Giọng cô vót lên thành giọng nữ cao đầy giận dữ và đứt quãng. Anh để cô nói mà không ngắt lời. “Tại sao vậy, Harry?”
“Lý do xưa nhất quả đất,” anh nói. “Nợ máu phải trả bằng máu. Thù truyền kiếp.”
“Chuyện đó thì có liên quan gì tới mẹ con em?”
“Anh đã nói là không liên quan gì hết. Em và Oleg không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện thôi. Tên này thấy hắn có trách nhiệm phải báo thù vụ giết người đó.”
“Trách nhiệm ư?” Tiếng hét của cô xuyên thủng màng nhĩ Harry. “Báo thù là một trong những hành động bảo vệ lãnh thổ mà đàn ông các anh ưa thích nhất. Không phải vì trách nhiệm, mà là ham muốn của loại người chưa tiến hóa!”
Anh chờ cho đến lúc anh nghĩ là cô đã nói xong. “Anh xin lỗi về chuyện đó, nhưng lúc này anh không thể làm gì được.”
Cô không trả lời.
“Rakel?”
“Vâng.”
“Em đang ở đâu?”
“Nếu những gì anh nói là đúng, về chuyện bọn chúng tìm ra mẹ con em dễ dàng thế nào, thì em không chắc rằng em sẽ mạo hiểm nói với anh trên điện thoại.”
“Được. Em ở một nơi an toàn chứ?”
“Em nghĩ vậy.”
“Tốt.”
Một giọng Nga loáng thoáng vọng vào rồi đi xa dần, giống như trên đài phát thanh sóng ngắn.
“Tại sao anh không thể trấn an em rằng mẹ con em không hề gặp nguy hiểm nào hết, Harry? Hãy nói với em rằng đó chỉ là tưởng tượng của anh, rằng chúng chỉ đang phỉnh…” Giọng cô trở nên gay gắt. “… bất cứ chuyện gì…”
Harry dành thời gian để nghĩ câu trả lời. Rồi anh nói bằng một giọng chậm rãi, rành rọt: “Em cần phải sợ, Rakel à. Đủ sợ để làm việc nên làm.”
“Và đó là?”
Harry hít một hơi sâu. “Anh sẽ giải quyết mọi việc êm đẹp. Anh hứa với em đấy. Anh sẽ giải quyết mọi việc êm đẹp.”
Harry gọi cho Vigdis sau khi Rakel cúp máy. Cô ta nhấc máy ngay sau hồi chuông đầu tiên.
“Tôi, Hole đây. Cô đang ngồi chờ điện thoại của ai hả, bà Albu?”
“Anh nghĩ sao?” Qua cái giọng nói líu lưỡi của cô ta, Harry đoán là cô ta đã uống ít nhất vài ly rượu kể từ lúc anh rời khỏi đó.
“Tôi không biết, nhưng tôi muốn cô báo cảnh sát là chồng cô mất tích.”
“Tại sao? Tôi đâu có thấy thiếu anh ta.” Cô ta bật ra một tiếng cười buồn bã, ngắn ngủi.
“Tôi cần có lý do để bắt đầu tổ chức tìm kiếm. Cô có thể lựa chọn. Hoặc thông báo rằng anh ta đã mất tích, hoặc tôi sẽ tuyên bố anh ta đang bị điều tra. Vì tội giết người.”
Im lặng một lúc lâu. “Tôi không hiểu, ngài cảnh sát.”
“Không có gì nhiều để hiểu đâu, bà Albu. Tôi cứ nói là cô đã báo rằng chồng cô mất tích nhé?”
“Chờ đã!” Cô ta la lên. Harry nghe thấy tiếng thủy tinh vỡ choang ở đầu dây bên kia. “Anh đang nói về chuyện gì thế? Arne đã bị điều tra rồi cơ mà.”
“Đúng, nhưng là do tôi điều tra. Tôi vẫn chưa thông báo với ai cả.”
“Vậy ư? Thế còn ba cảnh sát tới đây sau khi anh đi khỏi là sao?”
Harry cảm giác như có một ngón tay lạnh giá đang lướt dọc sống lưng anh. “Ba cảnh sát ư?”
“Lực lượng cảnh sát các anh không liên lạc với nhau ư? Họ không chịu đi. Tôi gần như phát khiếp.”
Harry đã rời khỏi cái ghế ở bàn làm việc. “Có phải họ đi xe BMW màu xanh da trời không, bà Albu?”
“Anh có nhớ tôi đã nói gì với anh về cái vụ gọi bà này bà nọ không, Harry?”
“Cô đã nói gì với họ?”
“Không nhiều lắm. Tôi không nghĩ là có điều gì ngoài những gì tôi đã nói với anh. Họ xem vài tấm ảnh và… ừm, không hẳn là họ bất lịch sự, nhưng…”
“Cô đã làm thế nào để họ về?”
“Về ư?”
“Họ sẽ không về trừ phi đã tìm thấy cái mà họ đang tìm kiếm. Tin tôi đi, bà Albu.”
“Harry, tôi chán phải nhắc…”
“Nghĩ đi. Chuyện này quan trọng lắm.”
“Chúa ơi, tôi đã bảo anh rồi, tôi chẳng nói gì hết. Tôi… đúng, tôi bật lại một tin nhắn đã được ghi âm mà Arne để lại trên máy trả lời tự động hai ngày trước. Sau đó họ bỏ đi.”
“Cô bảo là cô chưa nói chuyện với anh ta cơ mà.”
“Tôi không nói. Anh ta chỉ bảo là anh ta mang con Gregor đi thôi. Và đúng thế thật. Tôi nghe thấy tiếng nó sủa ở hậu cảnh.”
“Anh ta gọi từ đâu?”
“Làm sao tôi biết được?”
“Dù thế nào thì các vị khách của cô cũng biết. Đây là vấn đề,” Harry cố gắng nghĩ ra cách diễn đạt khác, nhưng bất lực: “… sống còn đấy.”
○○○
Có rất nhiều điều Harry không biết về đường sá và thông tin liên lạc. Anh không biết rằng, theo tính toán, việc xây hai đường hầm ở Vinterbro và mở rộng xa lộ đó sẽ giúp giảm tắc nghẽn vào giờ cao điểm trên đường E6 ở phía Nam Oslo. Anh không biết rằng lý lẽ cốt yếu ủng hộ dự án tiền tỷ này không phải những cử tri thường xuyên đi lại giữa Moss và Drøbak mà là vì an toàn giao thông. Những nhà chức trách quản lý dự án làm con đường này đã dùng một công thức tính lợi ích cho xã hội, dựa trên một ước tính rằng một mạng người sẽ tiêu tốn chừng 20,4 triệu trong, trong đó có cả tiền cho xe cứu thương, đổi tuyến đường và thiệt hại thuế thu nhập trong tương lai. Khi đi về phía Nam trên đường E6 bằng chiếc xe Mercedes của Øystein, xe nọ nối đuôi xe kia, Harry thậm chí còn không biết rằng anh con giá trị mạng sống của Arne Albu là bao nhiêu. Chắc chắn anh không biết mình sẽ đạt được cái gì nếu cứu mạng anh ta. Anh chỉ biết rằng anh không thể để mất cái mà anh có nguy cơ sắp mất. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Vì vậy, nghĩ quá nhiều sẽ chẳng ích gì.
Tin nhắn được ghi âm mà Vigdis Albu đã bật cho anh nghe qua điện thoại kéo dài năm giây và chỉ có một mẩu thông tin đáng giá. Thế là đủ. Chẳng có gì trong mười từ ngắn ngủi mà Arne Albu nói trước khi cúp máy: ‘Anh đưa Gregor đi cùng. Anh báo để em biết.’
Không phải là tiếng sủa điên cuồng của Gregor trong hậu cảnh.
Đó là những tiếng kêu lạnh lẽo. Lũ mòng biển.
Khi tấm biển chỉ đường báo rẽ vào Larkollen hiện ra thì trời đã tối.
Bên ngoài căn nhà gỗ là một chiếc xe Jeep Cherokee, nhưng Harry đi tiếp lên chỗ quay đầu xe. Không thấy chiếc BMW màu xanh ở đó. Anh bèn đỗ ngay phía dưới ngôi nhà. Lẻn vào lúc này cũng chẳng gì; anh đã nghe thấy tiếng chó sủa lúc hạ kính cửa xe trên đường vào.
Harry biết rằng lẽ ra anh nên mang theo súng. Không phải là có lý do nào để lường trước là Arne Albu có vũ khí; anh ta không thể biết được có kẻ nóng lòng muốn tính mạng anh ta - hay nói chính xác hơn là muốn cái chết của anh ta. Nhưng họ không còn là những diễn viên duy nhất trong tấn trò này nữa.
Harry bước xuống xe. Lúc này, anh không nhìn thấy hay nghe thấy con mòng biển nào - có lẽ chúng chỉ kêu vào ban ngày, anh nghĩ.
Gregor bị xích vào lan can cạnh những bậc thềm ở cửa trước. Răng nó lóe lên dưới ánh trăng khiến cái gáy vẫn còn nhức nhối của Harry ớn lạnh, nhưng anh vẫn buộc lòng phải đến gần con chó đang tru đó bằng những sải bước chậm rãi.
“Mày nhớ tao chứ?” Harry thì thào khi anh tới gần đến mức có thể chạm được vào hơi thở màu xám của con chó. Sợi xích bị kéo căng rung rung phía sau Gregor. Harry ngồi xuống và, ngạc nhiên thay, tiếng sủa giảm dần. Cái âm thanh khàn khàn cho thấy nó đã sủa được một lúc lâu rồi. Gregor đẩy hai chân trước lên, cúi thấp đầu xuống và dừng hẳn lại. Harry nắm vào tay nắm cửa. Cửa đã bị khóa. Anh có nghe thấy giọng nói nào trong nhà không? Một bóng đèn trong phòng khách vẫn sáng.
“Arne Albu!”
Không có tiếng trả lời. Harry đợi và thử gọi lại.
Không thấy chiếc chìa khóa trên chỗ cái đèn chụp. Vì vậy, anh tìm một tảng đá đủ lớn, trèo qua thanh chắn trên hiên, đập vỡ một ô kính nhỏ trên cánh cửa thông ra hiên, rồi thò tay qua đó mở cửa.
Không có dấu hiệu vật lộn nào trong căn phòng. Giống một chuyến ra đi vội vã hơn. Có một cuốn sách còn để mở trên bàn. Harry cầm lên. Macbeth của Shakespeare. Có một dòng chữ được khoanh lại bằng bút bi xanh. Ta không nói bằng lời; tiếng nói của ta nằm ở thanh kiếm. Anh nhìn khắp phòng nhưng không thấy cái bút nào cả.
Chỉ có cái giường trong phòng ngủ nhỏ nhất là được dùng đến. Một cuốn tạp chí dành cho đàn ông để trên kệ đầu giường.
Một cái đài nhỏ, được vặn gần đến kênh thời sự P4, cứ xì xà xì xào ở trong bếp. Harry bèn tắt nó đi. Trên mặt bàn bếp là một miếng sườn bò đã tan đá và bông cải xanh vẫn còn nguyên trong túi bóng. Harry cầm miếng thịt đi ra hiên.
Con chó đang cào cửa và anh mở ra. Cặp mắt chó con màu nâu giương lên nhìn anh. Hay nói đúng hơn là nhìn miếng sườn, vừa ném xuống bậc thềm là bị xé vụn thành nhiều mảnh.
Harry nhìn con chó đói khát trong lúc ngẫm xem phải làm gì. Nếu anh còn làm được gì. Arne Albu không đọc Shakespeare, cái đó thì chắc chắn.
Khi vụn thịt cuối cùng bị xực nốt, Gregor bắt đầu hướng ra ngoài đường mà sủa với sinh lực vừa hồi phục. Harry đi tới chỗ là hàng rào chắn, tháo xích ra và suýt nữa thì không đứng vững là trên mặt hiên ướt nhẹp khi Gregor chạy vùng đi. Con chó kéo anh xuống lối đi nhỏ trước nhà, băng qua con đường và xuôi xuống con dốc dựng đứng nơi Harry có thể nhìn thấy những con sóng đen ngòm đang xô vào bãi đá nhẵn thín trắng lóa dưới ánh sáng của vầng trăng lưỡi liềm. Người và chó lôi qua bãi cỏ cao, uớt lép nhép cứ ríu lấy chân Harry như thể không muốn cho họ đi, nhưng Gregor không chịu dừng lại cho đến khi đá cuội và cát lạo xạo dưới đôi giày Doc Martens của Harry. Mẩu đuôi tròn ủng của Gregor dỏng lên. Họ đang đứng trên bãi biển. Thủy triều đang dâng cao; những con sóng gần như chạm tới bãi cỏ cứng và sủi bong bóng như thể trong bọt sóng lưu lại trên cát khi nước biển rút đi có khí các bô níc vậy. Con Gregor lại bắt đầu sủa.
“Anh ta đã lên một chiếc thuyền à?” Harry hỏi, nửa với Gregor, nửa với chính mình. “Anh ta đi một mình hay là đi với ai?”
Anh không nhận được câu trả lời từ cả anh lẫn con chó. Tuy vậy, rõ ràng là dấu vết chấm dứt ở đây. Khi Harry kéo cái vòng cổ, con chó Rottweiler to lớn không chịu nhúc nhích. Vì vậy, anh lại bật chiếc đèn pin Maglite lên và chiếu ra biển. Anh chỉ nhìn thấy những con sóng trắng xóa nối đuôi nhau, như những vệt bạch phiến trên một tấm gương đen thẫm. Rõ ràng là có một đoạn dốc nhẹ dưới mặt nước. Harry lại kéo sợi xích lần nữa, nhưng con chó đột ngột tru lên một tiếng tuyệt vọng và bắt đầu dùng móng đào xuống lớp cát.
Harry thở dài, tắt đèn pin đi và quay về ngôi nhà gỗ. Anh pha cho mình một tách cà phê trong bếp và lắng nghe tiếng sủa ở đằng xa. Sau khi tráng cốc, anh lại đi ra biển và tìm thấy một khoảng trống giữa những tảng đá để ngồi xuống tránh gió. Anh châm một điếu thuốc và cố gắng suy nghĩ. Rồi anh khép chiếc áo khoác sát vào người hơn và nhắm mắt lại.
Một đêm, khi nằm trên giường, Anna đã nói với anh điều gì đó. Chắc lúc đó đã gần hết sáu tuần - và hẳn là anh đã tỉnh táo hơn bình thường vì anh còn nhớ được. Cô đã bảo với anh rằng chiếc giường của cô là một con tàu, còn cô và anh là hai kẻ đắm tàu, những con người cô đơn trôi dạt trên biển, sợ hãi phải nhìn thấy đất liền. Đó có phải là điều sẽ xảy ra tiếp theo? Phải chăng họ đã thấy đất liền? Anh không nhớ chuyện đã xảy ra như vậy. Anh có cảm tưởng như thể anh đã bỏ tàu, nhảy qua mạn tàu. Có lẽ ký ức của anh đã lừa anh.
Anh nhắm mắt lại và cố gắng gợi lại một hình ảnh của cô. Không phải từ lúc họ là những kẻ đắm tàu, mà từ lần cuối cùng anh nhìn thấy cô. Họ đã ăn cùng nhau. Hình như là vậy. Cô đã trót rượu cho anh - có phải là rượu vang không nhỉ? Có phải anh đã nếm nó? Hình như thế. Cô lại trót cho anh thêm nữa. Anh đã để mất kiểm soát. Rót đầy ly của anh. Cô đã cười nhạo anh. Hôn anh. Nhảy múa cho anh xem. Thì thầm những lời vô thưởng vô phạt ngọt ngào quen thuộc vào tai anh. Họ đã lao vào giường và trút bỏ tất cả. Chuyện đó thật sự dễ dàng với cô đến thế sao? Hay là với anh?
Không, không thể nào lại như thế.
Nhưng Harry không biết chắc. Anh không thể tự tin mà nói rằng anh không hề nằm trên một chiếc giường ở Sorgenfrigata với một nụ cười sung sướng trên môi. Anh đã tái hợp với một người tình cũ trong lúc Rakel nằm trên giường, nhìn chằm chằm lên trần phòng khách sạn ở Moscow, không ngủ được vì sợ mất con.
Harry khom người lại. Cơn gió lạnh căm thổi xuyên qua người anh như thể anh là một bóng ma. Anh đã từng ngăn không cho những suy nghĩ đó lọt vào đầu mình, nhưng giờ đây chúng lại ùa vào trong anh: nếu như anh không thể biết được là liệu anh có khả năng lừa dối người phụ nữ mà anh trân trọng nhất đời không, thì làm sao anh biết được mình đã làm những gì khác nữa? Aune đã xác nhận rằng rượu và ma túy chỉ làm mạnh thêm hay suy yếu những phẩm chất vốn tiềm ẩn trong người chúng ta. Nhưng ai biết chắc được có gì ở trong mình? Con người đâu phải người máy, và sự tương tác hóa học của bộ não cũng thay đổi theo thời gian. Ai có thể liệt kê đầy đủ mọi việc mình có thể làm - căn cứ hoàn cảnh đúng và thuốc chữa sai?
Harry rùng mình rủa thầm. Giờ thì anh đã hiểu. Hiểu tại sao anh phải đi tin Arne Albu và lấy được lời tự thú trước khi những kẻ khác làm cho anh ta phải ngậm miệng. Không phải vì cái nghề của anh đã ăn vào máu hay luật pháp đã trở thành chuyện của cá nhân anh; mà là vì anh phải biết. Mà Arne Albu là người duy nhất có thể nói cho anh biết.
Harry nhắm mắt lại. Tiếng gió rít khẽ khi thổi vào bề mặt đá granit vang lên bên trên giai điệu nhịp nhàng dai dẳng, như thôi miên của sóng.
Khi anh mở mắt ra thì trời không còn tối nữa. Gió đã cuốn mây đi và những vì sao mờ mịt đang nhấp nháy phía trên anh. Trăng đã thay đổi vị trí. Harry liếc nhìn đồng hồ. Anh đã ngồi đây gần một tiếng. Gregor đang sủa dữ dội ra biển. Chân tê cứng, anh đứng dậy và loạng choạng đi tới chỗ con chó. Lực hút của mặt trăng đã dịch chuyển khiến mực nước rút xuống và Harry nặng nề bước đi trên bãi cát đã trên rộng rãi.
“Đi nào, Gregor. Chúng ta sẽ không tìm thấy gì ở đây đâu.”
Con chó táp anh khi anh đi tới túm lấy cái vòng xích trên cổ nó, và Harry tự động nhảy phắt lại một bước. Anh nhìn ra mặt biển. Ánh trăng lấp lánh trên mặt nước đen thẫm, những gì anh có thể nhìn thấy thứ mà lúc nãy, khi thủy triều dâng lên cao nhất, anh đã không thấy. Trông nó giống như đỉnh hai cái cọc buộc dây chuyền nhô lên khỏi mặt nước biển. Harry đi tới mép nước và chiếu đèn pin.
“Chúa ơi,” anh thì thào.
Gregor nhảy phốc vào nước, Harry lội theo sau. Phải lội vào nước tới mười mét, nhưng mức nước thậm chí còn chưa tới đầu gối anh. Anh nhìn xuống thì thấy một đôi giày. Khâu tay, hàng Ý. Harry chiếu đèn pin xuống nước, nơi ánh sáng bị phản chiếu trên hai cẳng chân trần, trắng xanh, dựng đứng lên như hai cái bia mộ màu trắng.
Những tiếng hét của Harry bị gió cuốn và tiếng sóng xô vào bờ át ngay tức khắc. Nhưng chiếc đèn pin mà anh đánh rơi, bị biển nuốt chửng, đã nằm dưới đáy cát và chiếu sáng suốt gần hai mươi tư tiếng. Mùa hè năm sau, khi thằng bé nhặt được chiếc đèn chạy tới đưa cho bố nó thì nước muối đã ăn mòn lớp vỏ màu đen và cả hai bố con chẳng ai lại liên hệ chiếc đèn pin Maglite đó với cái chuyện rùng rợn là phát hiện ra một xác chết.
Mới năm trước, câu chuyện đó còn tràn ngập các tờ báo, nhưng dưới ánh nắng mùa hè, nó dường như xảy ra từ thuở nào.