Nguyên tác: The Golden Compass
Số lần đọc/download: 6791 / 190
Cập nhật: 2014-12-06 13:57:07 +0700
Chương 7 - Chiếc Rolls-Royce
L
yra dậy sớm, cô thấy buổi sáng thật yên tĩnh và ấm áp như thể thành phố này chưa từng có mùa nào khác ngoài mùa hè yên ả này. Cô ra khỏi giường, xuống cầu thang, nghe thấy giọng những đứa trẻ con nô đùa dưới nước, cô ra ngoài xem chúng đang làm gì.
Ba đứa con trai và một đứa con gái đang té nước trên bến cảng tràn ngập ánh nắng, trên hai chiếc thuyền đạp, chúng đua với nhau. Khi nhìn thấy Lyra, chúng chạy chậm lại nhưng rồi lại tiếp tục cuộc đua ngay. Thuyền thắng cuộc đâm thật mạnh vào đích đến nỗi một đứa trẻ rơi tỏm xuống nước, nó cố trèo lên chiếc thuyền khác và lật ngược nó lại rồi chúng lại té nước vào nhau như thể nỗi sợ hãi ngày hôm qua chưa hề xảy ra. Trông chúng nhỏ hơn những đứa Lyra đã nhìn thấy ở tháp, cô nghĩ lan man một lúc rồi cũng ra vui đùa cùng bọn trẻ, Pantalaimon biến thành con cá nhỏ màu bạc lấp lánh bên cạnh cô. Cô chưa bao giờ thấy nói chuyện với những đứa trẻ khác, vì vậy chỉ một lát sau, chúng đã tụ tập quanh cô bé, cùng ngồi trên những tảng đá bên hồn nước, ánh nắng mặt trời làm áo của cả lũ khô rất nhanh. Pantalaimon tội nghiệp lại phải bò vào túi áo của Lyra, nó biến thành con ếch ngồi trong túi áo bông ẩm.
“Các bạn làm gì với con mèo thế?”
“Các bạn thật sự mang điềm gở đi chứ?”
“Các bạn từ đâu tới?”
“Bạn của bạn, cậu ta không sợ Spectre sao?”
“Will chẳng sợ cái gì cả. Mình cũng vậy. Các bạn sợ mèo à?” Lyra hỏi.
“Bạn không biết gì về mèo ư?” đứa lớn nhất hỏi vẻ hoài nghi. “Có ma quỷ trong lũ mèo. Bạn phải giết chết bất cứ con nào nhìn thấy. Chúng cắn bạn và sẽ mang ma quỷ vào người bạn. Mà bạn đã làm gì với con báo to lớn đó thế?”
Lyra nhận ra thằng bé đang nói đến Pantalaimon trong hình dạng báo lúc đó và cô lắc đầu vẻ vô tội.
“Mấy bạn ắt là đang mơ đấy,” cô nói. “Có đủ loại thứ trông khác đi dưới ánh trăng. Nhưng cả mình lẫn Will đều không biết nhiều về Spectre vì ở nơi của tụi mình không hề có chúng.”
“Nếu các bạn không nhìn thấy chúng thì các bạn an toàn,” một thằng bé nói, “nhưng nếu nhìn thấy chúng thì chúng có thể bắt bạn đi đấy. Bố tôi đã nói như vậy, sau đó chúng bắt bố đi. Đó là lúc bố gặp bọn chúng.”
“Bọn chúng đang ở đây, xung quanh chúng ta lúc này à?”
“Ừ,” đứa con gái vừa nói vừa đưa một tay ra và quờ quờ vào không khí rồi reo lên: “Tôi bắt được một con rồi!”
“Chúng không thể làm đabạn được. Vì vậy chúng ta cũng không thể làm đau chúng.” Một đứa con trai nói.
“Luôn có Spectre ở thế giới này à?” Lyra hỏi.
“Ừa,” một đứa con trai nói, nhưng một đứa khác nói lại. “Không, chúng đến đây từ lâu rồi, từ hàng trăm năm trước.”
“Chúng tới là do Hội,” đứa thứ ba nói.
“Cái gì cơ?” Lyra hỏi lại.
“Không hề!” đứa con gái nói. “Bà tôi nói rằng chúng tới là vì người dân ở đây rất xấu xa và Chúa gửi chúng đến để trừng trị chúng ta.”
“Bà bạn chẳng biết gì cả,” một đứa con trai nói. “Bà bạn chẳng ra sao cả.”
“Hội là cái gì vậy?” Lyra tiếp tục hỏi.
“Bạn biết đấy Torre deli Angelia,” một đứa con trai nói. “Tháp đá, chính thế, chúng thuộc về Hội, và ở đó có một chỗ bí mật. Hội là những người đàn ông biết tất cả mọi thứ. Triết học, thuật giả kim, họ biết tất cả mọi thứ. Và họ chính là những người đã để cho bọn Spectre vào.”
“Đó không phải là sự thật, chúng tới từ những vì sao.” Một đứa khác cãi lại.
“Những người đàn ông đó đã hàng trăm tuổi, họ đã làm một số kim loại tách rời ra. Họ làm cho nó trở thành vàng. Họ cắt nó cho tới khi nó trở thành những mẫu nhỏ nhất có thể. Nhỏ đến nỗi bạn không thể nhìn thấy nó. Nhưng họ đã cắt được, phía trong những miếng nhỏ nhất có những con Spectre bị nhốt, xoắn và gấp lại thật chặt đến độ không có khoảng trống trong đó. Nhưng một lần họ cắt nó ra. Thật bịp bợm. Chúng chui ra và xuất hiện ở đây từ đó. Đó là những gì bố tôi nói.”
"Người đó bây giờ còn ở trong tháp nữa không?” Lyra hỏi.
“Không! Họ cũng như những người khác, đã chạy trốn hết rồi.” Đứa con gái nói.
“Chẳng có ai ở trong tháp cả. Chỗ đó bị ám rồi. Đó là lý do mà con mèo chui ra từ đó. Và không có bất kì một đứa trẻ nào muốn vào đó. Thật đáng sợ.”
“Những người trong Hội chẳng ngán bước vào đó đâu,” đứa khác nói.
“Họ có phép thuật đặc biệt hay thứ gì đó. Họ rất tham lam. Họ sống trên sự nghèo khổ của con người,” đứa con gái nói. “Người nghèo làm tất cả mọi việc và những người trong Hội chỉ sống ở đó thôi, chẳng vì cái gì cả.”
“Nhưng bây giờ không còn ai ở trong tháp nữa?” Lyra hỏi. “Không còn người lớn?”
“Không có lấy một người lớn tại thành phố này!”
“Họ không dám, là vậy đó.”
Nhưng Lyra đã nhìn thấy một người thanh niên trên đó. Cô tin vào điều đó. Có điều gì đó trong cách nói chuyện của bọn trẻ; cũng là một người chuyên nói dối, cô có thể nhận ra những kẻ lường gạt ngay khi gặp chúng, và bọn trẻ đang giấu cô điều gì đó.
Đột nhiên Lyra nhớ ra: điều mà cậu bé Paolo đã nhắc đến rằng cậu và chị gái Angelica có một người anh lớn Tullio cũng đang ở trong thành phố này, và khi đó Angelica đã bắt cậu bé phải im lặng... Liệu người thanh niên đó có phải anh chúng hay không?
Cô bé để những đứa trẻ tự cứu thuyền và đạp thuyền quay lại bờ biển, cô vào nhà pha một ít cà phê và để xem liệu Will đã dậy chưa. Nhưng cậu vẫn đang ngủ còn con mèo cuộn tròn dưới chân cậu. Lyra đã rất nóng lòng muốn gặp lại học giả của mình; vô viết cho Will mấy chữ, để trên sàn nhà rồi lấy cái ba lô và đi tới chỗ có ô cửa sổ.
Con đường cô đang đi dẫn tới một góc nhỏ mà cô và Will đã tới tối qua. Nhưng bây giờ nó thật trống trải. Ánh nắng mặt trời soi sáng tháp cổ và rọi sáng những nét chạm trổ ở phía bên cạnh lối cửa ra vào: hình một nhân vật giống như con người nhưng có đôi cánh gập lại, những hình này đã bị ăn mòn do thời gian nhưng sự tĩnh mịch của nó lại biểu hiện sức mạnh của trí thông minh và lòng trắc ẩn.
“Thiên thần,” Pantalaimon trong hình dạng một con dế đậu trên vai Lyra nói.
“Có thể là Spectre,” Lyra hoài nghi.
“Không! Bọn trẻ kia đã nói rằng có gì đó angeli mà,” Pantalaimon khăng khăng. “Cá đó là thiên thần.”
“Chúng ta vào chứ?”
Họ nhìn lên cánh cửa bằng gỗ sồi to lớn bản lề có màu mè cầu kỳ. Sáu bậc thềm bên trên đã bị mòn vẹt, và bản thân cánh cửa thì mở he hé. Chẳng có gì có thể làm Lyra chùn bước ngoại trừ chính nỗi sợ hãi của cô.
Cô nhón bước từng bước một và nhìn qua cánh cửa mở. Tất cả những gì cô thấy là một đại sảnh lát đá tối màu; nhưng Pantalaimon đang đậu trên vai cô thoáng thấy lo âu giống như khi họ bị chơi xỏ cái sọ trong hầm mộ ở trường Jordan, nhưng bây giờ cô đã thông minh hơn. Đây là một nơi thật tồi tệ. Cô chạy ra khỏi nơi đó và hướng về đại lộ có những cây thông đang ngập tràn ánh nắng. Khi đã chắc chắn là không có ai để ý, cô đi thẳng qua ô cửa sổ tới Oxford của Will.
o O o
Bốn mươi phút sau, cô đã lại ở trong tòa nhà, đang tranh cãi vười gác cổng, nhưng lúc này Lyra đã có được quân át chủ bài.
“Ông chỉ cần hỏi tiến sĩ Malone,” Lyra nói rất ngọt ngào. “Đó là toàn bộ việc ông phải làm, gọi cô ấy. Cô ấy sẽ nói cho ông biết.”
Người gác cổng quay sang chiếc điện thoại, Lyra quan sát với vẻ rất thông cảm khi ông bấm số điện thoại nói chuyện. Họ đã không cho ông ấy một chỗ ngồi chu đáo, ở trong Oxford thật thì có cả một cái quầy to bằng gỗ trông giống như là một cửa hàng vậy.
“Được rồi,” người gác cổng nói khi ông quay lại. “Cô ấy bảo cháu lên đi. Và cháu làm ơn đừng đi đâu cả.”
“Không, cháu sẽ không đi đâu đâu.” Lyra nói rất nghiêm trọng, một đứa bé gái ngoan đang làm những gì mà cô tiến sĩ bảo.
Khi đã đi đến bậc thang cuối cùng Lyra thật sửng sốt bởi cô vừa đi qua một cánh cửa có biểu tượng người phụ nữ ở trên, thì nó mở ra và tiến sĩ Malone lặng lẽ ra hiệu cho cô bé đi vào.
Lyra bước vào, bối rối. Đây không phải là phòng thí nghiệm mà là một phòng vệ sinh, và cô tiến sĩ đang có vẻ băn khoăn.
Cô nói, “Lyra, có những người khác đang trong phòng thí nghiệm—sĩ quan cảnh sát hay đại loại thế. Họ biết cháu đã tới gặp cô ngày hôm qua—cô không biết họ đang truy tìm thứ gì, nhưng cô không thích nó. Có chuyện rồi sao?”
“Làm sao họ biết là cháu tới gặp cô nhỉ?”
“Cô không biết! Họ không biết tên cháu, nhưng cô biết họ ám chỉ ai—”
“À. Được thôi, cháu có thể nói dối họ mà. Cũng dễ.”
“Nhưng điều gì đang xảy ra vậy?”
Một giọng nữ vang lên từ phía hành lang bên ngoài: “Tiến sĩ Malone? Cô đã gặp đứa bé chưa?”
“Vâng,” tiến sĩ Malone đáp. “Tôi vừa mới chỉ cho cháu phòng vệ sinh ở đâu...”
Lyra nghĩ cô tiến sĩ chẳng cần phải lo lắng quá như vậy nhưng có lẽ cô ấy chưa quen với nguy hiểm.
Người phụ nữ ở hành lang có vẻ trẻ và ăn mặc rất sáng sủa, khi Lyra đi ra cô ta cố gắng nở một nụ cười với cô bé nhưng đôi mắt vẫn lưu lại vẻ nghiêm khắc và nghi ngờ.
“Chào cháu,” cô ta nói. “Cháu là Lyra, có phải không?”
“Vâng, thế tên cô là gì ạ?”
“Tôi là Sergeant Clifford. Cháu vào đi.”
Lyra nghĩ người phụ nữ này có vẻ trơ tráo, cô ta cư xử như thể đó chính là phòng thí nghiệm của mình vậy, nhưng cô vẫn gật đầu ngoan ngoãn. Đó cũng là lúc đột nhiên cô thấy mình chợt nhói lên vì hối tiếc. Cô biết đáng nhẽ mình không nên ở đây, cô đã biết Chân-kế muốn mình làm cái gì và chắc chắn là không phải điều này. Cô hoài nghi đứng trước lối ra vào.
Trong phòng, những người đàn ông to lớn với cặp lông mày màu trắng đã đứng sẵn ở đó. Lyra biết những Học giả thì trông như thế nào và không ai trong số hai người này là Học giả cả.
“Vào đi, Lyra,” Sergeant Clifford nói. “Ổn thôi mà, đây là thanh tra viên Walters.”
“Chào cháu Lyra,” người đàn ông nói. “Tôi đã được cô Malone đây kể cho nghe tất cả về cháu. Tôi rất vui được gặp cháu và hỏi cháu một vài câu nếu có thể.”
“Loại câu hỏi gì ạ?” Lyra hỏi lại.
“Không có gì khó khăn lắm đâu,” ông ta vừa nói vừa mỉm cười. “Hãy vào và ngồi xuống đây Lyra.”
Ông ta đẩy một cái ghế về phía cô bé. Lyra thận trọng ngồi xuống, cô nghe thấy tiếng cánh cửa tự đóng sập lại. Tiến sĩ Malone đang đứng gần đó. Pantalaimon trong hình dạng một con dế ở trong túi áo ngực của cô bé đang rất băn khoăn: Lyra có thể thấy nó dựa vào ngực cô và hi vọng sự run rẩy của nó sẽ không bị ai phát hiện. Cô bé nghĩ cách để cho con nhân tinh bình tĩnh lại.
“Cháu từ đâu tới hả Lyra?” Thanh tra Walters hỏi.
Nếu cô bé nói là Oxford thì họ sẽ dễ dàng kiểm tra. Nhưng cô bé không thể nói rằng mình đến từ một thế giới khác được, những người này quá nguy hiểm; trong một lúc họ muốn biết quá nhiều thứ. Cô bé nghĩ ngay đến cái tên duy nhất mà cô biết ở thế giới này: nơi mà Will đã từ đó tới.
“Winchester,” cô bé nói.
“Cháu vừa mới đánh nhau phải không hả Lyra?” người thanh tra viên hỏi. “Làm sao mà cháu lại bị thâm tím thế kia? Có một vết thâm trên má cháu và một vết khác ở chân—có phải ai đó đã làm cháu bị ngã phải không?”
“Không,” Lyra nói.
“Cháu có tới trường chứ, Lyra?”
“Vâng, thỉnh thoảng,” cô bé thêm vào.
“Hôm nay cháu không phải đến trường sao?”
Cô bé không nói gì. Mỗi lúc cô lại cảm thấy chẳng dễ dàng chút nào. Cô nhìn về phía tiến sĩ Malone, khuôn mặt cô ấy đang rất buồn rầu.
“Cháu chỉ tới để gặp tiến sĩ Malone thôi,” Lyra nói
“Cháu đang ở Oxford phải không, Lyra? Cháu đang ở đâu?”
“Cháu ở với người ta,” cô bé trả lời. “Bạn bè thôi.”
“Địa chỉ của họ?”
“Cháu không biết chính xác nó gọi là gì. Cháu có thể tìm ra nó dễ dàng, nhưng cháu không nhớ tên của con phố.”
“Những người cháu ở cùng là ai?”
“Bạn bè của bố cháu,” Lyra nói.
“À tôi biết rồi. Cháu tìm thấy tiến sĩ Malone bằng cách nào?”
“Bố cháu là một nhà vật lý nên bố cháu biết cô ấy.”
Mọi thứ đang diễn tiến dễ dàng hơn nhiều, cô nghĩ. Cô bắt đầu thư giãn và nói dối thậm chí còn trôi chảy hơn.
“Cô Malone đã chỉ cho cháu thấy cô ấy đang làm gì phải không?”
“Ừm, máy móc với cái màn hình... Vâng, tất cả cái đó.”
“Cháu quan tâm đến mấy thứ đó à? Khoa học và các thứ đại loại?”
“Vâng, đặc biệt là vật lý ạ.”
Những câu hỏi kiểu như thế này xứng đáng bị một cái nhìn chằm chằm. Ông ta không bối rối. Con mắt xanh xám của ông ta nhìn người phụ nữ trẻ thật nhanh rồi lại nhìn Lyra.
“Cháu có ngạc nhiên trước những việc mà tiến sĩ Malone đã chỉ cho cháu không?”
“Có, một phần nào đó, nhưng cháu biết mình cần cái gì.”
"Vì bố cháu?"
“Vâng, bố cháu cũng đang làm những công việc tương tự.”
“Chắc chắn rồi. Cháu có hiểu nó không?”
“Một ít thôi ạ.”
“Bố của cháu cũng đang nghiên cứu vật chất tối à?”
“Vâng.”
“Ông ấy đã đi xa được như tiến sĩ Malone chưa?”
“Không phải cách đó. Bố cháu có thể làm một số thứ tốt hơn, nhưng máy móc có chữ hiện ra trên màn hình thì bố cháu chưa hề có.”
“Thế Will cũng ở cùng những người bạn của cháu chứ?”
“Vâng, cậu ấy—”
Cô bé dừng lại. Ngay lúc đó, cô nhận ra mình đã phạm phải một lỗi lầm khủng khiếp.
Họ cũng vậy, họ chạy ra cửa để chặn cô bé lại nhưng tiến sĩ Malone đã đứng trước cửa, viên trung sĩ chạy tới và bị ngã, làm cản trở lối đi của lão thanh tra. Vậy là Lyra có thêm thời gian để chạy ra, rồi đóng sầm cửa trước mặt lão thanh tra đang ở phía sau, cô nghiêng người chạy xuống cầu thang.
Hai người đàn ông mặc áo choàng trắng hiện ra trước cửa, cô đâm sầm vào họ và đột nhiên Pantalaimon biến thành một con quạ, nó rúc ầm lên và vỗ cánh làm cho họ sửng sốt ngã nhào về phía sau. Cô thoát ra nhảy xuống những bậc thang cuối cùng, nhảy bổ vào người gác cổng đang đặt ống nghe điện thoại xuống, ông ta kéo lết phía sau quầy và gọi với ra: “Ơ! Đứng lại! Con bé này!”
Nhưng cái nắp cửa rơi đè lên ông đã cản trở ông, và cô phải xoay cánh cửa trước khi ông ta có thể chạy ra bắt cô
Phía sau cô, cầu thang máy đang mở và một người đàn ông có mái tóc xám đang chạy ra thật nhanh và thật khỏe...
Cánh cửa vẫn không nhúc nhích! Pantalaimon nấp trong người cô: họ đã đi sai đường.
Cô hét lên và xoay người một vòng, quăng mạnh trọng lượng ít ỏi toàn thân của cô vào tấm kính nặng nề, mong mỏi nó sẽ xoay ra, và cuối cùng nó bật mở đúng lúc tránh cú chụp của ông gác cổng, chặn mất đường chạy của người đàn ông tóc xám, vậy nên Lyra có thể vù nhanh ra và chạy biến trước khi họ qua được cửa.
Cô chạy qua phố, mặc cho những chiếc ô tô, phanh xe, tiếng bánh xe rít lên; qua lỗ hổng giữa hai tòa nhà cao, rồi lại một con phố khác, ô tô đi tới từ cả hai phía. Nhưng dẫu cô có nhanh nhẹn, lắt léo, thì người đàn ông có mái tóc xám vẫn luôn bám sát sau cô—ồ, ông ta đáng gờm thật!
Trong vườn, qua hàng rào, qua mấy bụi cây, chim én Pantalaimon bay là là trên đầu, chỉ cho cô đường để đi; khi thấy tiếng chân người đàn ông đó chạy ngay phía sau, cô thu mình xuống, núp sau kho than dưới hầm tàu, cô không nghe thấy tiếng ông ta thở hổn hển. Ông ta thật nhanh và khỏe. Pantalaimon nói “Quay lại ngay! Trở lại con đường—”
Cô bò ra khỏi chỗ ẩn nấp của mình chạy băng qua bãi cỏ, qua cổng dẫn vào vườn, cô chạy lại chỗ con đường Banbury, lại luồn lách, lại những tiếng phanh xe rít lên; và rồi cô chạy lên khu vườn Norham, con đường yên lặng với những hàng cây và ngôi nhà cao kiểu Victoria gần công viên.
Cô dừng lại để thở. Có một hàng rào cao phía trước một khu vườn, phía chân hàng rào có một bức tường thấp, cô nấp vào phía dưới cây thủy tạp.
“Cô ấy đã giúp tụi mình!” Pantalaimon nói. “Tiến sĩ Malone đang cản đường họ. Cô ấy đứng về phía t chứ không phải bọn họ.”
“Pan à, lẽ ra mình không nên nói về Will—mình đáng lý phải cẩn thận hơn—”
“Không nên tới luôn ấy,” nó nghiêm trang nói.
“Mình biết. Cả chuyện đó nữa...”
Nhưng cô bé thậm chí còn không có thời gian để thở bởi vì Pantalaimon đang vỗ cánh trên vai cô và nói: “Coi chừng—phía sau—” rồi ngay lập tức nó biến thành một con dế và chui tọt vào túi Lyra.
Cô đứng dậy sẵn sàng chạy, rồi đột nhiên cô thấy một chiếc ô tô đen màu xanh to đang đậu trên vỉa hè bên cạnh mình. Cô cũng đang sẵn sàng chạy về hướng đó, nhưng cánh cửa sau của ô tô mở ra và một khuôn mặt quen quen mà cô nhận ra ló ra ngoài.
“Lizzie,” ông lão ở viện bảo tàng gọi. “Thật vui vì được gặp lại cháu. Ta có đưa cháu một chuyến đâu đó không?”
Ông ta mở cửa xe ra và ngồi xích vào trong để lấy chỗ cho cô bé. Qua lớp vải bằng cotton mỏng, Pantalaimon cắn vào ngực cô, nhưng cô vẫn bước lên ngay tắp lự, giữ chặt lấy chiếc ba lô, và ông lão vòng qua người cô để đóng cửa xe lại.
“Trông cháu như thể rất vội,” ông ta nói. “Cháu muốn đi đâu bây giờ?”
“Tới Summertown,” cô nói, “làm ơn đi ạ.”
Người lái xe đội một chiếc mũ lưỡi trai. Tất cả những điều có thể nói về chiếc xe là êm ái, mềm mại và rất khỏe, mùi nước hoa cô-lô-nhơ của người đàn ông đó tỏa ra nồng nặc. Từ chỗ này, chiếc xe lăn bánh mà không gây bất cứ một tiếng động nào.
“Thế cháu tới đó để làm gì hả Lizzie?” ông lão hỏi. “Cháu đã biết thêm điều gì về những chiếc sọ à?”
“Vâng,” cô bé vừa nói vừa ngoái lại nhìn qua ô cửa sổ. Không nhìn thấy dấu vết nào của người đàn ông đó đang đuổi theo mình cả. Mình đã trốn thoát. Ông ta sẽ không bao giờ tìm thấy mình và bây giờ mình đang an toàn trong một chiếc xe của một người đàn ông giàu có như thế này. Cô cảm thấy có chút chiến thắng trong lòng.
“Ta cũng làm một số điều tra,” ông ta nói. “Một nhà nhân chủng học, bạn của ta vừa kể rằng anh ta có một vài thứ trong bộ sưu tập của mình, giống như là đang triển lãm. Một vài trong số đó có tuổi rất cao. Ở Neanderthal, cháu biết đấy.”
“Vâng, cháu cũng được nghe bảo thế,” Lyra nói mà không hề biết ông ta đang nói gì.
“Thế còn bạn của cháu thì sao?”
“Bạn nào cơ ạ?” Lyra cảnh giác. Liệu mình đã nói với ông ta về Will chưa nhỉ?
“Người bạn mà cháu ở cùng ấy.”
“Vâng cô ấy rất khỏe, cảm ơn bác.”
“Cô ấy làm gì? Cô ấy là một nhà khảo cổ à?”
“À... cô ấy là một nhà vật lý. Cô ấy nghiên cứu vật chất tối,” Lyra nói mà hoàn toàn không kiểm soát được. Cô cảm thấy có điều gì đó lo lắng trong lòng; ông lão này khá quen thuộc theo một cách lạ lẫm xa xăm nào đó, và cô vẫn không nhớ ra được.
“Vật chất tối à? Thật thú vị! Bác đã nhìn thấy một vài điều trên tờ Times sáng nay. Vũ trụ này đang đầy những thứ huyền bí mà không ai biết nó là cái gì. Bạn của cháu đang lần theo nó, có phải không?”
“Vâng, cô ấy biết rất nhiều về điều đó.”
“Cháu sẽ làm gì sau này hả Lizie? Cháu cũng sẽ theo ngành vật lý học luôn chứ?”
“Có thể. Còn tùy thuộc...”
Người tài xế khẽ ho và lái xe chậm lại.
“Ồ... dừng xe gần cái cửa hàng kia ạ... cháu có thể đi bộ tới đó.” Lyra nói. “Cháu cảm ơn.”
“Hãy rẽ trái tới Nam Parade, ông có thể đỗ xe xuống phía bên phải được không hả Alan,” ông ta nói với tài xế của mình.
“Vâng thưa ông.” người tài xế đáp lại.
Một phút sau, chiếc ô tô đậu phía bên ngoài thư viện. Ông lão giữ cánh cửa mở bên phía ông ngồi, Lyra phải trèo qua đầu gối ông mới ra ngoài được. Chiếc xe rất rộng nhưng có gì đó thật bất tiện và cô không muốn động vào người ông ta mặc dù ông ta có vẻ tốt.
“Đừng quên cái ba lô,” ông ta vừa nói vừa trao nó cho cô bé.
“Cảm ơn bác.” Lyra nói.
“Bác hi vọng được gặp lại cháu, Lizzie ạ. Hãy gửi lời hỏi thăm của bác tới bạn cháu.”
“Tạm biệt bác.” Lyra vẫn còn nấn ná trên vỉa hè cho đến khi chiếc xe đã rẽ vào góc phố và biến mất rồi mới đi về phía những cây thông. Cô bé lại nghĩ về người đàn ông có mái tóc nhạt màu và cô muốn hỏi Chân-kế.
o O o
Will đang đọc lại những bức thư của bố. Cậu ngồi trên sân thượng, vừa lắng nghe những đứa trẻ đang ngụp lặn phía bến cảng vừa đọc những chữ viết tay trên tờ giấy viết thư mỏng, cậu cố gắng mường tượng ra bố từ nét chữ, và nhìn đi nhìn lại vàoỗ nhắc đến mình.
Nghe thấy tiếng bước chân Lyra dưới đường, cậu liền cất hết thư vào túi và đứng dậy, hầu như vừa kịp lúc cô bé đã ở trước mặt cậu, mắt mở to, còn Pantalaimon thì nhe răng ra như một con mèo hoang đang quá tức giận đến mức không thể giấu nổi. Cô bé này hiếm khi khóc mà bây giờ cũng nổi xung lên, ngực cô thổn thức, răng nghiến chặt, cô chạy vụt vào, nắm lấy tay Will và khóc, “Giết chết lão! Giết lão đi! Mình muốn lão phải chết! Ước gì Iorek ở đây! Ôi, Will, mình đã làm sai rồi, mình xin lỗi bạn...”
“Cái gì? Có việc gì vậy?”
“Lão già đó—lão ta chẳng là gì ngoài một tên trộm thấp hèn cả. Lão ta đã ăn trộm nó, Will! Lão trộm mất chiếc Chân-kế của mình rồi! Lão già chết tiệt trong bộ quần áo đắt tiền và gã người hầu lái xe đó. Ôi, sáng nay mình đã làm hỏng mọi thứ—ôi, mình—”
Cô bé thổn thức và thật xúc động đến nỗi Will thấy tim mình như bị vỡ ra, tim cô bé lúc này cũng đang muốn vỡ ra, cô ngã xuống đất, la hét và rùng mình, Pantalaimon biến thành một con sói tru lên những hồi cay đắng.
Lũ trẻ con đang ở dưới nước cũng ngẩng cả lên xem có chuyện gì đang xảy ra. Will ngồi bên cạnh cô và lắc lắc vai cô.
“Dừng lại! Không khóc nữa! Hãy kể cho tớ lại từ đầu nào. Lão già đó là ai? Chuyện gì đã xảy ra?”
“Bạn sẽ rất giận đấy. Mình đã hứa là mình sẽ không phản bội bạn, mình đã hứa như vậy, và rồi...” Cô bé thổn thức còn Pantalaimon biến thành một con chó vụng về có đôi tai cụp xuống và cái đuôi ngoe nguẩy, nó vặn vẹo mình tỏ vẻ rất nhục nhã; Will hiểu rằng Lyra đã làm việc gì đó mà cô bé rất xấu hổ không muốn nói với cậu, cậu bèn nói chuyện với con nhân tinh.
“Điều gì đã xảy ra? Hãy nói cho tôi biết đi,” cậu hỏi.
Pantalaimon nói, “Chúng tôi tới gặp nhà Học giả, nhưng ở đó còn có cả những người khác—một người đàn ông và một phụ nữ—họ lừa chúng tôi. Họ hỏi rất nhiều câu hỏi và khi họ hỏi về bạn trước khi chúng tôi kịp dừng lại rằng chúng tôi biết bạn, sau đó chúng tôi bỏ chạy—”
Lyra dấu mặt vào bàn tay, gục mặt xuống vỉa hè, Pantalaimon xúc động, cứ nhấp nháy qua hết hình dạng này đến hình dạng khác: chó, chim, mèo, chồn ermine màu trắng.
“Người đàn ông đó trông như thế nào?” Will hỏi.
“To lớn,” giọng cô bé như nghẹt lại. “Khỏe mạnh và có đôi mắt màu xanh xám.”
“Thế ông ta có nhìn thấy bạn đi qua ô cửa sổ đó không?”
“Không, nhưng...”
“Thế là ông ta không biết chúng ta ở đâu.”
“Nhưng Chân-kế!” cô bé la lên, rồi buồn rầu ngồi xuống, khuôn mặt khổ sở trông như chiếc mặt nạ Hy Lạp vậy.
“Ừ, hãy nói về điều đó đi,” Will nói.
Xen lẫn những tiếng khóc thổn thức và tiếng nghiến răng kèn kẹt, cô kể lại những gì đã xảy ra: người đàn ông đã nhìn thấy cô sử dụng chiếc Chân-kế ở trong viện bảo tàng như thế nào ngày hôm trước và ông ta đã dừng xe lại như thế nào, cô nhảy vào xe và trốn thoát khỏi người đàn ông có mái tóc màu xám, cái xe ô tô đã đậu ở bên đường như thế nào, cô phải leo qua ông ta để ra ngoài như thế nào và ông ta đã nhanh nhẹn lấy chiếc Chân-kế của cô và trao chiếc ba lô cho cô
Will có thể thấy Lyra đã thất vọng như thế nào, nhưng không hiểu tại sao cô lại cảm thấy tội lỗi đến như vậy. Rồi cô nói:
“Will, mình đã làm những việc thật tồi tệ. Vì Chân-kế đã nói với mình là dừng việc tìm kiếm Bụi đi và mình phải giúp bạn. Mình phải giúp bạn tìm được bố. Mình có thể, mình có thể đưa bạn tới bất cứ nơi nào bố bạn đang ở, nếu mình có nó. Nhưng mình đã không nghe. Mình chỉ làm theo những gì mình muốn và mình không nên...”
Cậu bé đã từng thấy cô dùng chiếc Chân-kế và nó có thể nói cho cô biết sự thật. Cậu quay lưng đi. Cô bé nắm chặt tay cậu, nhưng Will dứt tay ra và đi tới phía hồ nước. Những đứa trẻ đang chơi trên bến cảng. Lyra chạy theo Will, nói theo: “Mình xin lỗi bạn, Will à.”
“Xin lỗi để làm gì? Tớ cóc quan tâm cậu có xin lỗi hay không. Cậu đã làm việc đó.”
“Nhưng Will à, chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau, bạn và mình, bởi vì chẳng còn ai khác!”
“Tớ không biết làm cách nào cả.”
“Mình cũng không, nhưng...”
Cô bé bỏ dở câu nói, mắt cô đột nhiên sáng lên. Cô quay lại, lục trong ba lô của mình, bỏ những thứ linh tinh lên vỉa hè và lục cuống cả lên.
“Mình biết lão ta là ai rồi! Đây là nơi lão ta sống! Nhìn này!” cô nói, tay cầm một tấm danh thiếp mỏng màu trắng. “Lão ta đã đưa nó cho mình khi ở trong viện bảo tàng! Chúng ta sẽ đến đó và lấy lại!”
Will nhìn vào tấm danh thiếp và đọc:
NGÀI CHARLES LATROM, CBE
DINH THỰ LIMFIELD
OLD HEADINGT
OXFORD
“Ông ta là một quý ngài,” Will nói. “Một hiệp sĩ có nghĩa là mọi người sẽ tin vào ông ta chứ không phải là tin vào cậu và tớ. Thế cậu muốn tớ phải làm gì đây? Gặp cảnh sát? Cảnh sát đang bám theo tớ! Hôm qua thì không nhưng giờ thì có đấy. Và nếu cậu đi, giờ họ đã biết cậu là ai, và họ biết là cậu biết tớ, như vậy cũng được việc chút nào.”
“Chúng ta có thể ăn trộm nó. Chúng ta có thể vào ngôi nhà đó và ăn trộm. Tôi biết Headington ở đâu rồi, cũng có một phố Headington ở Oxford của tôi. Không xa đâu. Chúng ta có thể đi bộ tới đó trong vòng một giờ, dễ mà.”
“Bạn thật ngớ ngẩn.”
“Iorek Byrnison có thể đi thẳng tới đó và xé toạc đầu của lão ta ra, tôi ước gì có anh ấy ở đây. Anh ấy—”
Nhưng rồi cô im bặt, Will đang nhìn cô và cô cảm thấy run sợ. Cũng giống như cô run sợ khi con gấu mặc áo giáp nhìn cô. Nhưng trong mắt của Will có cái gì đó không giống như mắt của Iorek.
“Trong đời tôi chưa từng được nghe đến điều nào ngớ ngẩn đến như vậy. Bạn nghĩ là chúng ta có thể vào nhà ông ta, bò vào và lấy trộm nó đi sao? Bạn phải nghĩ chứ. Bạn phải sử dụng não của mình chứ? Ông ta có tất cả hệ thống chuông báo động và những thứ như vậy vì ông ta rất giàu, phải có chuông, những loại khóa đặc biệt và ánh sáng hồng ngoại, tất cả đều tự động—”
“Tôi chưa bao giờ nghe tới những thứ đó,” Lyra nói. “Ở thế giới của chúng tôi không có những thứ đó đâu. Will à, tôi không biết chúng.”
“Được rồi, hãy nghĩ về điều này: ông ta có cả một ngôi nhà để giấu nó, thế một tên trộm sẽ phải mất bao nhiêu thời gian để lục tì từng ngăn kéo, từng ngăn tủ? Những gã tới nhà tôi đã phải mất hàng giờ để tìm quanh nhưng không bao giờ chúng thấy được thứ chúng đang tìm kiếm. Tôi cá là ông ta có cả một căn nhà lớn hơn ngôi nhà của chúng ta ở đây rất nhiều. An toàn nữa, chắc mẻm là thế. Và thậm chí nếu chúng ta có vào được nhà thì chúng ta cũng không bao giờ kịp tìm nó trước khi cảnh sát tới đâu.”
Cô bé gục đầu xuống. Đó là sự thật.
“Thế chúng ta làm gì bây giờ?” cô bé hỏi.
Will không trả lời. Nhưng chắc chắn là chúng ta rồi. Bây giờ cậu đã bị trói buộc vào với cô, bất kể cậu có thích hay không.
Cậu đi về phía bờ hồ, trở lại sân thượng rồi quay lại phía bờ hồ. Cậu vỗ vỗ hai bàn tay vào nhau tìm câu trả lời, nhưng vẫn chưa có câu trả lời, cậu lắc lắc cái đầu giận dữ.
“Cứ… tới đó,” cậu nói. “Tới đó gặp ông ta. Nếu nhờ Học giả kia giúp thì không hay một tẹo nào, thậm chí cả khi cô ấy không ở cùng phe với cảnh sát. Cô ấy sẽ tin họ hơn là tin vào chúng ta. Ít nhất là chúng ta cũng vào nhà ông ta, chúng ta sẽ nhìn xem phòng chính ở đâu. Bước đầu thế đã.”
Không nói lời nào nữa, cậu bé đi vào trong và cất những bức thư vào dưới gối trong phòng ngủ. Nếu cậu có bị bắt thì họ cũng không bao giờ có được những bức thư này.
Lyra ngồi đợi trên bậc thang, Pantalaimon biến thành con sẻ đậu trên vai cô bé. Trông cô đã khá hơn.
“Chúng ta sẽ tới lấy lại được nó,” cô nói. “Mình có thể cảm nhận được điều này.”
Will chẳng nói gì. Họ đi về phía chiếc cửa sổ.
o O o
Mất khoảng một tiếng rưỡi để đi bộ đến Headington. Lyra dẫn đường, cô tránh lối đi vào trung tâm, còn Will thì nhìn quanh và không nói gì cả. Đối với Lyra bây giờ còn khó khăn hơn rất nhiều so với khi ở Bắc Cực, trên đường tới Bolvangar vì lúc đó cô có những người Gypsy và Iorek Byrnison đi cùng, mặc dù vùng tiếp giáp Bắc Cực thì đầy rẫy những hiểm nguy, nhưng cô còn biết trước được hiểm nguy. Ở đây, một thành phố vừa là của mình nhưng lại không phải của mình, nguy hiểm có thể trông rất thân thiện và sự giả tạo thì lại rất ngọt ngào; và ngay cả nếu họ không giết cô hay chia cắt cô ra khỏi Pantalaimon, thì họ cũng đã trộm đi vật dẫn đường duy nhất của cô. Không có Chân-kế, cô chỉ là... một đứa bé gái, bị lạc.
Dinh thự Limefield là một ngôi nhà sơn màu vàng mật ong, một nửa trước của ngôi nhà phủ đầy cây eo Virginia. Một khu vườn được chăm sóc cẩn thận, một bụi cây ở một bên nhà và sỏi cát chứa vàng rắc đầy cửa chính. Chiếc Rolls Royce đậu bên trái ga-ra đôi. Mọi thứ Will nhìn thấy toát lên sự giàu có và quyền lực, nó được bố trí theo kiểu cách ưu việt hơn mà giới thượng lưu Anh quốc coi đó là điều hiển nhiên. Có điều gì đó về ngôi nhà này khiến răng Will nghiến chặt lại, cậu không biết tại sao nhưng đột nhiên cậu nhớ ra một dịp khi cậu hãy còn rất nhỏ. Mẹ đã dẫn cậu tới một ngôi nhà chẳng khác nơi này tẹo nào; họ mặc những bộ quần áo và cậu phải cư xử khéo léo nhất, một ông lão và một bà lão đã làm cho mẹ cậu phải khóc, đến khi đã ra khỏi nhà, mẹ cậu vẫn còn khóc ròng....
Lyra thấy cậu thở gấp, cô bé xiết chặt cổ tay Will, cô đủ khôn ngoan để không hỏi tại sao; có điều gì đó đã gây ra cho cậu, không phải với cô. Liền sau đó cậu hít một hơi thật sâ
“Ừm,” Will nói, “có lẽ phải thử xem.”
Cậu đi về phía đường xe chạy, Lyra đi theo ngay phía sau. Họ cảm thấy thật trống trải.
Cánh cửa có một dây chuông cũ kỹ giống y như ở thế giới của Lyra. Will không tìm ra nó cho đến khi cô bé chỉ cho cậu. Khi giật dây, một hồi chuông vang lên chói tay từ phía trong nhà.
Người ra mở cửa chính là lão tài xế hôm nọ chỉ khác là hôm nay lão ta không đội mũ. Lão ta nhìn Will trước rồi mới nhìn sang Lyra và biểu hiện của gã đã thay đổi đôi chút.
“Chúng cháu muốn gặp ngài Charles Latrom,” Will nói.
Hàm của cậu nhô ra giống như tối hôm qua cậu đã làm khi đối mặt với lũ trẻ ném đá cạnh tháp tối qua. Gã người hầu gật đầu.
“Đợi ở đây,” gã nói. “Tôi sẽ nói với ngài Charles.”
Gã đóng cửa lại. Đó là một cánh cửa bằng gỗ sồi cứng có hai khóa thật to một cái trên then còn một cái dưới cùng, Will nghĩ rằng không một tên trộm nào lại đi đường cửa chính của ngôi nhà này cả. Có một chuông báo động gắn ngay trước ngôi nhà, ở mỗi góc nhà lại có một đèn chiếu lớn; họ sẽ không bao giờ có thể lại gần nó, miễn bàn tới chuyện đột nhập vào.
Có tiếng bước chân vững chãi đi ra phía cửa, cánh cửa mở ra, Will nhìn lên khuôn mặt người đàn ông đã có quá nhiều mà còn muốn được nhiều hơn kia, và cậu bị bối rối bởi cái vẻ hào nhoáng, bình tĩnh, mạnh mẽ của lão ta, thay vì phải e dè hay xấu hổ.
Cảm giác Lyra ở bên cạnh mình đang mất bình tĩnh và cáu giận, Will nói thật nhanh, “Xin lỗi ông, nhưng Lyra nghĩ rằng khi cô bé đi nhờ xe của ông sáng nay, cô ấy đã vô tình để quên một thứ.”
“Lyra? Ta không biết Lyra nào cả. Quả là một cái tên khác thường. Ta chỉ biết một cô bé có tên là Lizzie. Thế cháu là ai?”
Tự nguyền rủa mình vì đã quên béng, cậu bé nói, “Cháu là anh trai cô bé, Mark.”
“Ta thấy rồi. Xin chào cháu, Lizzie, hay Lyra. Các cháu tốt hơn vào nhà đi đã.”
Ông ta đứng sang bên, cả Will và Lyra đều không mong muốn điều này, hai đứa trẻ bước vào vẻ rất ngập ngừng. Đại sảnh tối mờ mờ, có mùi sáp ong và cả mùi hoa nữa. Tất cả bề mặt đều được đánh bóng và sạch sẽ, những ngăn bằng gỗ gụ dựa vào tường chứa đầy đồ sứ. Will thấy người hầu của ông ta đang đứng ở ngoài sân như sẵn sàng đợi lệnh.
“Hãy vào phòng làm việc của ta,” Charles nói và ông giữ cho cánh cửa mở ra.
Ông ta thật tao nhã, lịch sự thậm chí còn hiếu khách, nhưng có gì đó trong cách cư xử của ông ta làm cho Will cảnh giác. Phòng làm việc của ông ta thật rộng rãi thoải mái, có cả chỗ hút thuốc lá, ghế bành bằng da, ở đây có rất nhiều giá sách, tranh ảnh, những chiến lợi phẩm thu được. Có khoảng ba hay bốn chiếc ngăn có kính đằng trước đựng những dụng cụ khoa học độc nhất – kính hiển vị bằng đồng thau, kính viễn vọng bọc da xanh lá, kính lục phân, la bàn; thật rõ ràng là tại sao ông ta lại muốn chiếc Chân-kế.
“Ngồi xuống đi,” ngài Charles nói rồi chỉ vào cái ghế sô pha. Lão ta ngồi vào chiếc ghế đằng sau bàn làm việc và tiếp tục: “Thế các cháu đã nói gì nhỉ?”
“Ông đã ăn cắp—” Lyra bắt đầu nói vẻ rất nóng nảy, nhưng khi Will nhìn cô, cô im bặt.
“Lyra nghĩ rằng cô ấy đã để quên thứ gì đó trong ô tô của ông,” Will nói lại lần nữa. “Chúng cháu tới để lấy lại nó.”
“Có phải các cháu nói vật này?” ông ta lấy ra một bọc vải nhung từ ngăn kéo trong bàn ra. Lyra đứng dậy. Nhưng lão ta cứ lờ cô bé đi và mở tấm vải trùm ra, chiếc Chân-kế nằm gọn trên tay lão.
“Phải!” Lyra bật ra, cô vồ lấy nó.
Nhưng lão ta đã kịp thu tay về. Cái bàn quá rộng nên cô không thể với tới được; trước khi cô có thể làm được việc gì, lão ta đã nhanh gọn đặt chiếc Chân-kế vào trong ngăn kéo, khóa nó lại và bỏ chìa khóa vào túi áo gi lê.
“Nhưng nó không phải là của cháu Lizzie ạ, à Lyra chứ, đó là tên cháu mà.”
“Của tôi! Đó là Chân-kế của tôi!”
Lão ta lắc đầu, và buồn bã như thể nếu lão tiếp cận cô bé một lần nữa thì đó sẽ là nỗi buồn cho lão, nhưng lão làm việc này là để tốt cho chính cô. “Tôi nghĩ là ở đây ít nhất cũng có sự nghi ngờ về vấn đề này,” lão nói.
“Nhưng nó là của cô ấy!” Will nói. “Thật đấy! Cô ấy đã chỉ cho cháu! Cháu biết nó là của cô ấy!”
“Cháu thấy đấy, ta nghĩ là cháu phải chứng minh điều này, còn ta, ta không phải chứng minh điều gì cả bởi vì nó thuộc về ta. Nó được thừa nhận là của ta, như mọi vật khác trong bộ sưu tập của ta. Ta phải nói rằng, Lyra, ta rất ngạc nhiên khi biết cháu thật dối trá—”
“Tôi không dối trá!” Lyra hét lên.
“Nhưng cháu đúng là vậy. Cháu đã nói tên cháu là Lizzie. Bây giờ ta biết không phải như vậy. Thẳng thắn mà nói, cháu không có hi vọng nào để thuyết phục mọi người rằng một vật đáng giá như vậy lại là của cháu. Ta sẽ cho cháu biết thế nào. Hãy gọi cảnh sát.”
Lão ta quay ra gọi gã người hầu.
“Không, đợi đã—” Will nói ngay trước khi ngài Charles có thể nói, nhưng Lyra đã chạy lại chỗ cái bàn, và Pantalaimon không biết từ đâu đã ở trên cánh tay cô bé, nó nhe cái răng của con mèo hoang ra và rít lên với lão già. Ngài Charles đáng kính chớp mắt trước sự xuất hiện đột ngột của con nhân tinh, nhưng hầu như lão chẳng ngán chút nào.
“Ông thậm chí còn không biết mình đã ăn trộm cái gì đâu,” Lyra nổi điên. “Ông đã thấy tôi dùng nó, ông nghĩ là ông phải ăn trộm nó và ông đã ăn trộm. Nhưng ông—ông—ông còn tệ hơn cả mẹ của tôi. Chí ít bà ấy cũng biết nó rất quan trọng! ông chỉ để nó trong ngăn kéo và chẳng làm gì với nó cả! Ông phải chết! Nếu tôi có thể, tôi sẽ làm cho ai đó giết chết ông. Ông không đáng được sống trên đời này. Ông—”
Cô không thể thốt lên thêm. Tất cả những gì cô có thể làm bây giờ là phun đầy vào mặt lão những lời giận dữ, vậy nên cô đã làm vậy, với tất cả sức lực của cô.
Will vẫn ngồi đó quan sát, nhìn xung quanh, ghi nhớ lại vị trí mọi đồ đạc.
“Cô chưa bao giờ biết tự kiềm chế mình à?” lão nói. “Đi ra và ngồi xuống kia, đồ con ngốc bẩn thỉu.”
Lyra cảm thấy nước mắt mình rơi lã chã, cả người cô run bật lên, cô ngã vật xuống ghế sô pha. Pantalaimon dựng đôi tai dày của nó lên, đứng ngay cạnh vạt áo của Lyra, mắt nó nhìn chằm chằm vào lão già.
Will ngồi im lặng bối rối. Ngài Charles có thể ném chúng ra khỏi nhà ngay ấy chứ. Nhưng không biết lão ta đang làm trò gì?
Cậu thấy có điều gì đó thật kì lạ mà cứ cậu nghĩ là mình đã tưởng tượng ra điều đó. Từ cổ ống tay áo màu trắng của ông ta, một con rắn màu xanh thò đầu ra. Cái lưỡi màu đen của nó liếm qua liếm lại, cái đầu có đôi mắt đen viền vàng của nó hết nhìn Lyra lại nhìn Will. Lyra đã quá tức giận để nhìn còn Will thì chỉ kịp nhìn một thoáng trước khi nó chui tọt vào ống tay áo của lão ta, nhưng nó khiến mắt cậu mở to vì sốc.
Tới chiếc ghế bên cửa sổ, ông ta bình tĩnh ngồi xuống, xếp lại li áo đã bị nhàu.
“Ta nghĩ các cháu tốt hơn hết là phải nghe lời ta thay vì cư xử vô lễ như vậy. Các cháu không có sự lựa chọn nào nữa đâu. Vật đó là sở hữu của ta và nó sẽ vẫn ở đây. Ta muốn nó. Ta là một nhà sưu tầm. Các cháu có thể giận dữ, có thể dậm chân, có thể hét tùy thích nhưng các cháu phải thuyết phục bất cứ ai tin vào các cháu, ta sẽ có hàng loạt giấy tờ để chứng minh là ta đã mua nó. Ta có thể làm điều đó quá dễ. Thế là các cháu không bao giờ lấy lại nó được.”
Cả đứa trẻ và lão đều im lặng. Lão ta vẫn chưa nói xong. Hơi thở chầm chậm của Lyra cho thấy rằng cô bé đang rất bối rối, căn phòng thật im lặng.
“Tuy nhiên,” lão lại tiếp tục, “có một thứ mà ta còn muốn có hơn. Và ta lại không thể tự mình lấy được. Vì vậy, ta đã chuẩn bị thương lượng với các cháu. Các cháu đem về vật mà ta muốn và ta sẽ trả lại chiếc—cháu gọi nó là gì nhỉ?”
“Chân-kế,” Lyra nói bằng giọng khàn khàn.
“Chân-kế. Thật thú vị làm sao. Chân, sự thật—những biểu tượng này—ừm, ta đã hiểu.”
“Vật mà ông muốn là cái gì vậy?” Will nói. “Nó ở đâu?”
“Ở một nơi nào đó mà ta không thể đến được, nhưng các cháu thì có thể. Ta biết rất rõ các cháu đã tìm thấy được lối ra vào ở nơi nào đó. Ta cho rằng nó không xa Summertown, nơi ta đã thả Lizzie xuống sáng nay. Qua cánh cửa đó là một thế gi một thế giới không có người lớn ở. Xa lắm không? Chà, cháu thấy đấy, người đàn ông đã tạo ra cánh cửa đó có một con dao. Ông ta hiện đang giấu nó trong một thế giới khác và ông ta cực kỳ lo sợ. Ông ta có lý do đấy. Nếu đúng như theo ta nghĩ thì ông ta đang ở trong một tòa tháp bằng đá, ở đó trên cánh cửa có trạm khắc hình những thiên thần. Đó chính là Hội Torre deli Angeli.
“Đó là nơi các cháu phải đi và ta không quan tâm các cháu tìm nó bằng cách nào, nhưng ta muốn con dao đó. Mang nó về cho ta và các cháu sẽ có Chân-kế. Ta sẽ rất buồn khi mất nó, nhưng ta là người biết giữ lời. Đó là những gì các cháu phải làm: mang con dao về cho ta.”