Nguyên tác: The Godfather’S Returns
Số lần đọc/download: 3191 / 132
Cập nhật: 2016-05-03 19:52:17 +0700
Chương 29
T
ại khu liên hợp Corleone ở Hồ Tahoe, Theresa Hagen và Connie Corleone (đã trở lại dùng tên thời con gái) đang cùng nhau nấu bữa tối, như họ vẫn làm phần lớn những đêm cả hai cùng ở nhà, mà phần lớn là như thế. Họ luân chuyển bếp, vài ba bữa thì ở nhà Michael, vài ba bữa khác (như hôm nay) lại sang bếp nhà Hagen. Có những thay đổi thấy rõ nơi Connie trong hai năm qua kể từ khi nàng ngưng cố gắng làm thành viên phi hành đoàn phản lực của hàng không dân dụng, vi vu khắp đó đây, sống như một góa phụ nhởn nhơ yêu đời, sẵn sàng tình cho không biếu không với bất kỳ anh nào trông vừa mắt, để về nhà phục vụ cho ông anh - giống như những người thân không chồng (chị, em gái hay con gái... ) đi theo với vai trò Đệ nhất Phu nhân cho các vị Tổng thống góa vợ hoặc độc thân. Theresa có tác động không nhỏ trong sự thay đổi hoàn toàn của Connie. Nàng đã trở thành người chị lớn mà Connie chưa từng có -dầu hay cãi nhau lặt vặt, đúng vậy, nhưng rõ ràng họ yêu mến nhau. Vì Theresa, Connie đã nảy sinh hứng thú về nghệ thuật và đang giúp Theresa huy động vốn để thành lập một dàn hợp xướng giao hưởng ở Hồ Tahoe. Cả hai giữ nhiệm sở trong Liên minh Đầu phiếu Phụ nữ. Chừng khoảng năm rồi Connie còn bắt đầu ăn mặc theo phong cách bảo thủ hơn. Họ sử dụng cùng nhà thiết kế mà vị Đệ nhất Phu nhân thực sự đang sử dụng.
Trong văn phòng của Tom Hagen, nơi căn nhà bằng đá phía sau nhà chính, Tom và Michael đang nghỉ ngơi thư giãn đợi bữa ăn tối. Mấy đứa con của Connie làm Michael say mê, ngay cả con đỡ đầu của anh, Mickey Rizzi, đã sáu tuổi mà vẫn hay khóc nhè. Connie trông coi mọi việc nhà, nhưng Michael có thể thuê người để làm mọi chuyện. Có con cái của người khác sống trong nhà mình lại càng khiến cho anh nhớ Tony và Mary, anh nghĩ, nhiều hơn là nếu anh lòng vòng quanh nhà một mình. Đó là chưa kể đến mấy đứa con của Hagen, nhà ngay kế bên. Gianna Hagen và Mary cùng tuổi, đi học chung trường và là bạn thân thiết với nhau. Không thể nhìn vào Gianna mà không cảm thấy một chút khát khao mong ước cái thú vui giản dị đọc một câu chuyện trước khi ngủ cho con gái mình.
Anh và Tom cũng còn có công việc để bàn luận, tất nhiên rồi. Tom đã nói với ông Đại sứ về chuyện cho Billy có trách nhiệm nhiều hơn trong công việc của chàng ta ở Bộ Tư pháp; ông Đại sứ cho rằng mình đã nói với anh Danny, Tổng chưởng lí rồi, nhưng Tom hãy còn ngờ lắm. Hình như Billy vẫn còn bị cách ly khỏi những gì trong nhiệm sở mà có thể khả dụng cho nhà Corleones.
Cũng còn có vấn đề về lí do căn bản được bịa ra của Vincent Forlenza để giết tay consigliere bị trục xuất từ lâu của ông ta và lời Geraci gửi đến, rằng anh ta cần trao đổi với Michael Corleone, trực tiếp giữa hai người thôi.
“Geraci có nói là về chuyện gì không?” Michael giả định là có liên quan đến việc khử Sal Narducci. “Hắn không nói,” Tom trả lời. “Hắn chỉ nói là hắn có thể đến đây nếu chú sẵn lòng tiếp, à, thì vậy đó.”
Trên bãi cỏ xanh bên ngoài văn phòng của Tom, Victor Rizzi - đứa cháu mười hai tuổi của anh, vừa mới bị cho thôi học vì đánh nhau và uống rượu - đã thực hiện một thế gạt với Andrew Hagen, lớn hơn
nó đến bảy tuổi và sắp bắt đầu năm dự bị đại học ở Notre Dame. Andrew - một sinh viên thần học, đã dự định trở thành linh mục - có lẽ không phải là đứa chủ mưu. Victor tiến đến, di động qua lại, nhún nhảy. Andrew gạt công việc vặt vãnh qua một bên và ghìm chặt Victor xuống bãi cỏ.
Michael nhướng một hàng lông mày lên.
“Đừng quan tâm,” Tom nói. “Andrew biết cách xử lí mà.” “Tôi không lo lắng về Andrew đâu.”
Con chó chăn cừu trung thành và tinh khôn của nhà Hagens chạy nhanh đến cửa sau của căn nhà và sủa lên. Một lát sau, Connie đến, chạy ra với một cái tạp dề bẩn, gọi lớn tên Victor. Andrew lợi dụng đôi cánh tay dài của mình đẩy Victor về phía bà mẹ đang giận dữ của hắn.
“Có nhắc chú nhớ đến ai không?” Tom nói.
Michael biết ắt là Tom có ý chỉ hoặc mình, hoặc Fredo, nhưng dường như không có gì thuộc về họ đã được làm. Và cả anh ta lẫn Tom cũng không bao giờ nhắc đến tên của Fredo. Có những việc cần phải làm, và bạn làm những việc đó. Gặp thời thế thế thời phải thế. Xong việc thì thôi, đừng bao giờ nhắc lại làm chi. Cũng chẳng cần phải cố công biện minh chúng. Đơn giản là... bởi chúng không thể được biện minh, dầu bằng cách nào đi nữa, hay dầu bạn có giỏi hoa ngôn xảo ngữ đến đâu, bạn có giỏi lô - gích học đến đâu, bạn có tài hùng biện đến cỡ nào thì cũng không thể cả vú lấp miệng em được. Như chuyện Michael xử Fredo chẳng hạn. Dứt khoát là chẳng có đạo lí nào có thể biện minh. Chỉ có vấn đề tương quan giữa quyền lực và sự sợ hãi. Ta làm việc đó vì ta thấy cần phải làm việc đó. Đứa nào léo nhéo, bắn bỏ!
“Anh muốn chỉ tôi?” Michael hỏi bằng tia mắt dễ khiến quỉ kiến sầu và giọng nói dễ làm cho người ta... té đái vãi phân! “Khi nào tôi đã từng”
Tom đảo tròn mắt. Vậy ra đây chính là mưu đồ của hắn muốn nói về Fredo. “Khi nào chuyện đó trở thành mốt được ưa chuộng của anh vậy?”
Tom lắc đầu, một cách trầm trọng. “Lẽ ra tôi không nên nói bất kỳ chuyện gì. Tôi già cả lẩm cẩm mất rồi.” Chà, cái anh chàng này khôn đáo để, biết cách minh triết bảo thân đấy!
Chỉ vài thoáng sau Michael nhận ra rằng Tom không có ý chỉ Fredo. Anh ta muốn nói đến Carmela, người đã gây ra rất nhiều vụ đánh nhau lặt vặt đối với láng giềng.
“Dầu sao,” Tom nói,” muốn Geraci đến đây cũng phải mất một ít thời gian. Anh ta phải hoặc lái ô-tô hoặc đáp tàu hỏa.”
“Tôi dự định đi thăm mấy cháu vào tuần sau nữa...”
“Nếu chú dự định làm điều đó,” Hagen nói,” Tôi nghĩ đó là thời điểm thích hợp. Thế nhưng” “Tôi sắp làm điều đó.”
“Có thể là một cái bẫy. Đặc biệt là ở New York, tôi nghĩ thế.”
“Không sao,” Michael nói. “Tôi sẽ thận trọng, chắc chắn thế. Al đã bố trí mọi đề phòng cần thiết.”
“Điều gì sẽ xảy ra khi bọn họ phát hiện rằng chúng ta đã cho người làm xong vụ khử Narducci trước khi bọn họ kịp ra tay?”
Sal Narducci không có vẻ giống loại người giữ vững được khí tiết nếu bị tra tấn. Michael đã không có được cơ hội để thử nghiệm. Họ có thể nghi ngờ bất kỳ điều gì họ muốn từ Narducci nhưng họ sẽ không thèm nghe từ cái mồm thối tha của lão. “Bằng cách nào họ phát hiện ra?” Michael nói. “Chúng ta tiếp xúc với cùng người mà họ đã tiếp xúc. Indelicato trông chờ nghe từ bọn họ, như chúng ta đã bảo lão ấy nên làm thế và sau đó lão cho người thực hiện công việc theo những yêu cầu biệt lệ của chúng ta.”
“Chú tin tưởng Cesare Indelicato đến thế? Đây là lần đầu tôi từng gặp nhân vật này. Lão ta đã làm việc với Geraci trong nhiều năm.”
“Lão đã làm ăn với Gia đình Corleone còn nhiều năm hơn nữa,” Michael nói. “Nếu không nhờ sự giúp đỡ của Bố trong thời chiến, Cesare Indelicato có lẽ hiện nay vẫn còn đi cướp giật mấy xe đẩy rau củ quả bán rong. Dầu sao, lão ta đâu có lợi gì khi cộng tác với người khác thay vì đích thân làm? Lão ta được tiếp xúc hai lần, nhận được hai khoản thưởng, mà chỉ phải làm có mỗi một việc đơn giản. Ngon ăn như vậy nên lão không hề lưỡng lự chút nào.”
“Sau bao nhiêu những chuyện thổi phồng thêu dệt về các hoạt động của Narducci ở Sicily mà Forlenza tung ra với Ủy ban,” Hagen nói,” tôi ngạc nhiên là Forlenza lại không phái chính thuộc hạ của mình đi làm công việc. Hoặc ít nhất là tiếp xúc với Don Cesare.”
“Forlenza sẽ chỉ cần nói rằng Geraci là từ Cleveland - nghĩa tử của lão, vv... - và sắp đi Sicily có công việc, chuyện này thì đúng. Cũng có mặt đáng ngờ, nhưng Don Forlenza không làm thành điều bí mật. Lão bảo với Ủy ban rằng đấy là cách lão sắp xử lí công việc. Nước cờ xuất sắc. Trông có vẻ như lão ta chẳng giấu giếm chuyện gì.”
“Và chú vẫn còn chắc rằng họ thực ra còn giấu điều gì đó.” Họ ở đây là Forlenza, Geraci và Russo.
“Có cái gì trong đời này mà chắc chắn đâu?” Michael nói. “Nhưng trong chuyện này thì tôi chắc... vừa đủ xài.”
“Nếu là người nào khác,” Hagen nói,” có lẽ tôi sẽ nói nên bảo trọng.”
Michael mỉm cười. “Nếu lời đó đến từ bất kỳ ai khác, tôi sẽ coi đó là sự xúc phạm.” “Tôi nghĩ tôi có ý tưởng này,” Tom nói, “về việc nên hành xử như thế nào với Russo.”
Anh bị ngắt lời vì Connie cố ý va đập mạnh chiếc kẻng báo cơm như thể nàng ta đang kêu cứu, chứ không phải sắp dọn bữa ăn chiều.
Khi họ đến bàn ăn, chính Victor - đã bị mẹ phạt đòn thâm tím - dẫn họ vào chỗ của từng người.
Francesca Van Arsdale đã dành trọn buổi sáng làm một bữa ăn trưa dã ngoại (picnic lunch) để gây ngạc nhiên cho chồng, nhưng khi nàng và nhóc Sonny xuất hiện ở văn phòng của anh chồng, Billy phàn nàn về tất cả các du khách trên Phổ Đi Bộ và chuyện thời tiết nóng bức trước khi cuối cùng chàng cám ơn nàng về cử chỉ yêu thương kia và đồng ý đi. “Không phải vì anh quá bận để đi xa đâu,” chàng nói.
Billy có lẽ đã bắt đầu làm việc ở Bộ Tư pháp với những cao vọng gần như phi thực tế, mặc dầu sau bảy tháng loay hoay với công việc chàng dường như vẫn chưa sẵn sàng để thừa nhận điều đó với chính mình, và càng ít hơn đối với vợ. Chàng mới rời trường Luật có hai năm, Francesca nhắc nhở chồng, nhưng điều đó chỉ càng đẩy chàng ta vào việc tuôn ra một dãy những cái tên mà nàng không biết - những con người, giống như Billy, từng là tổng biên tập tạp chí luật ở Harvard và chỉ hai năm sau hiện đang làm những công việc danh giá hoặc béo bở như thế nào.
“Đúng thế,” nàng nói, “và một ngày nào đó sẽ có người khác nào đó, những tổng biên tập trẻ hơn của tạp chí luật sẽ nêu tên anh trên cùng danh sách đó. Đại khái như 'Bạn có biết Thượng nghị sĩ Van Arsdale'.”
“Thôi mà, Francie.”
“ - đang làm gì sau hai năm rời trường Luật? Làm việc cho Bộ Tư pháp Mỹ, đấy, đấy, và không phải dưới trướng một tổng chưởng lí bất kỳ nào đâu nhé. Không phải đâu! Mà là dưới quyền Daniel Brendan Shea! Vị Tổng chưởng lí vĩ đại nhất trong lịch sử Huê kỳ và, bạn biết đấy, dưới trướng vị Tổng thống thứ ba mươi bảy của Mỹ.”
Sonny đang nô đùa nơi bãi cỏ của Phố Đi Bộ và cậu ta đang biểu diễn màn Múa Khỉ học được từ tiết mục Jojo, Mrs Cheese& Annie. Ngoại trừ cái mũ chơi bóng màu vàng lúc lắc nơi đầu cậu bé, quả là một ấn tượng sửng sốt về Jojo. Du khách dừng chân để thưởng lãm.
“Thằng bé học trò đó lúc nào vậy?” Billy thì thầm hỏi vợ.
“Từ trên Tivi,” nàng trả lời. Lẽ ra phải là từ nhiều tháng trước. Chàng cau mày, có thể là do bối rối hoặc có thể là để tỏ ý phản đối. Francesca không muốn biết là vì cái gì. Sonny kết thúc buổi diễn và khán giả vỗ tay tán thưởng cậu bé. Francesca kiên quyết bảo cậu không được đáp lại lòng ái mộ của khán giả bằng một màn diễn thêm như Jojo, vì đã đến giờ ăn rồi.
Họ ngồi xuống như một gia đình. Tại sao chàng lại không nhận ra giá trị của chuyện này? Nàng nghĩ. Tại sao chàng không thể chấp nhận chuyện nàynhư là điểm nhấn của cuộc sống và tìm thấy niềm vui trong đó? Giữa sự bất hạnh của chàng trong công việc mà lúc nào chàng cũng nói đến - và nỗi đau chung của hai vợ chồng về việc sớm mất đứa con - mà họ không bao giờ thực sự nhắc đến nữa - càng ngày nàng càng cảm nhận giống như họ phải thoát ra khỏi cái thành phố đã bị Chúa ruồng bỏ này. Billy đã rất ân cần chu đáo với nàng từ lúc nàng phát hiện ra cái sự vụ kia cho đến cái đêm họ mất đứa con sơ sinh, nhưng cũng từ đó chàng hiếm khi chạm đến nàng. Lần duy nhất từ đó đến nay mà họ cố gầy cuộc mây mưa, chàng đã không thể chạy về đích và nàng cũng quá đuối sức để giúp chàng mở tỉ số. Chàng lăn ra khỏi nàng, nằm ngửa, và dùng tay chơi bóng. Khi cuối cùng, trầy trật mãi, chàng cũng kết thúc được trận đấu bằng một bàn thắng trong thế việt vị và không được trọng tài công nhận là hợp lệ. Và nàng òa ra khóc vì ấm ức, mặc dầu cũng thấy được giải tỏa một cách lạ kỳ. Từ đó, hầu như một nửa số đêm, không có lí do rõ ràng nào, chàng qua đêm trên ghế xô-pha với chiếc remote Tivi trên tay.
“Em không hiểu đâu, Francie à,” Billie nói. “Chuyện có hơi phức tạp.” Chàng gấp nhiều tấm chăn để ngồi lên trên, ngay cả bên trên tấm nệm. “Suốt ngày anh phải dán mông mình lên ghế ở thư viện, để kiểm tra những dẫn chứng của người khác. Một vài trong số những luật sư viết ra những chuyện ấy cũng độ cỡ tuổi anh và hầu hết họ không biết lấy một câu tiếng Anh nghiêm túc nào từ - anh không biết, chương trình Nhảy Khỉ (Monkey Dance), nhưng”
“Monkey Dance!” Sonny reo lên, bỏ miếng sandwich xuống, cầm cái nón đánh bóng đội vào đầu, và đứng vụt lên, nhảy múa. Billy chẳng hề nhúc nhích hay thay đổi thái độ. Francesca đứng dậy, khống chế Sonny, và, với một nhượng bộ nhỏ là cho phép cu cậu giữ cái nón trên đầu, kéo cu cậu trở lại bữa ăn trưa.
“Khi anh phụ trách tờ tạp chí pháp luật,” Billy nói,” Anh có người làm loại công việc này cho anh.”
Nàng phải mất một giây để nhận ra chàng muốn chỉ công việc ở thư viện pháp luật, chứ không phải những cố gắng của nàng để khống chế đứa bé bốn tuổi với đầu óc bị điệu Múa Khỉ độc chiếm. Billy cũng có người làm việc đó: nàng, chứ còn ai khác! Một cu cậu bốn tuổi bình thường, khỏe mạnh thì tất nhiên là nó rất hiếu động và quậy phá tưng bừng rồi, chưa kể là còn phải đấu tranh với một ông chồng ưa ca cẩm phàn nàn, thế là quá đủ để phát mệt! Hồi xưa, bố nàng chết khi nàng mới lên mười một tuổi. Nàng biết là có lẽ mình đã xây dựng hình ảnh bố thành một nhân vật chưa từng có mặt trên đời, nhưng nàng cũng không hề có một hoài niệm nào, dầu mơ hồ nhất về bố mình từng cằn nhằn với vợ, một lần cũng không. “Nhưng mà, anh đâu còn phụ trách tạp chí pháp luật nữa,” Francesca nói,” đúng không nào?”
“Làm thế nào anh có thể nói với em về chuyện này? Em chưa học xong cao đẳng mà. Không ai trong gia đình em qua được bậc cao đẳng.”
“Chuyện buồn cười! Thím Kay này, và Bác Tom và Bác Theresa này.”
Billy cười. “Nhưng họ đâu phải máu mủ, đúng không? Ngoài Theresa, họ còn không phải là người Ý nữa.”
Francesca lẽ ra phải bắt chàng ta trả giá cho câu nói đó - ít ra là bằng lời lẽ - nếu như Sonny không ngồi ngay tại đó. “Người chị em sinh đôi của tôi đã tốt nghiệc Thạc sĩ và đang học lên bậc Tiến sĩ. Em trai tôi đang học hành tốt ở Notre Dame, và”
“Em trai Frankie của em chơi bóng. Môn học lí thuyết khó nhất mà cậu ta đã học qua là gì? Lí thuyết tổng quát về Thể dục Thể thao?”
“Thì đã sao?” Quả thật là Frankie theo môn chính là giáo dục thể lực và chưa bao giờ có thành tích tốt về chuyện học hành. Song nàng vẫn tự hào là cậu em đang học hành đàng hoàng ở bậc đại học và thể dục thể thao thì cũng tốt chớ sao. “Còn em lẽ ra cũng tốt nghiệp rồi nếu anh không” Sonny đang ngốn ngấu miếng sandwich, và Francesca không muốn nói điều gì không hay trước mặt con. “Anh biết mà.”
Billy nhún vai. “Phải có hai người mới nhảy điệu tango được chứ, em cưng” chàng ta nói.” Nếu em dành biệt lệ cho chuyện ấy, em có cơ hội làm cho nó được lưu ý đấy.”
Một tia nhìn hoảng sợ lướt qua khuôn mặt chàng; chàng lập tức nhận thức được mình vừa nói gì. “Làm cho nó được lưu ý!” nàng gằn giọng lặp lại lời chàng.
“Ồ, anh xin lỗi!” Chàng nghiêng người đưa tay về phía nàng, và nàng đẩy cánh tay chàng ra. Chàng dành phần lớn thời gian còn lại của bữa ăn trưa để xin lỗi. Chàng là kẻ lợi khẩu mà. Cuối cùng thì chàng cũng làm cho nàng hạ hỏa.
“Áp lực của công việc,” Billy nói. “Đến độ ảnh hưởng tới cách anh đối xử với em. Anh cần làm nhiều hơn để tạo sự khác biệt trong thế giới và anh sẽ không hạnh phúc cho đến khi làm được việc đó. Em hiểu cho anh chứ?”
Nàng bảo anh là nàng hiểu chứ, như nàng từng bảo anh trước đó và cho rằng anh thực sự cần nói với ngài Tổng chưởng lí cho ngài biết nỗi bất hạnh của mình, như nàng từng nói trong hàng bao tuần rồi. Nàng không hiểu tại sao chàng lại không chịu làm điều ấy.
Nàng đã được giáo dục để tin rằng nếu bạn có một vấn đề, bạn hãy đi đến nhân vật chủ chốt. Billy đã được nuôi dạy với tất cả những lợi thế vì vậy nàng nghĩ là chàng cũng tin vào điều ấy. Nàng chỉ có thể hình dung rằng có lẽ chàng ta bị khớp trước Daniel Brendan Shea, mặc dầu điều ấy cũng huyễn hoặc nàng. Danny Shea, một phiên bản có phần mờ nhạt và gầy nhẳng của ông anh, có phong cách đáng ngạc nhiên của một người mà đôi mắt kính vừa bị ai đó giật nhanh ra khỏi mặt, hoảng hốt, chớp mắt lia lịa, mặc dầu thật ra thị lực của anh ta, nếu không phải là tầm nhìn của anh ta, vẫn hoàn hảo.
Khi họ ăn xong, chàng ta hôn Sonny và rồi bảo Francesca rằng mình sẽ làm điều đó: nếu đó là điều nàng muốn, chàng sẽ đi thẳng đến văn phòng Tổng chưởng lí và xem liệu mình có thể nói chuyện với Danny Shea được không.
“Em chỉ muốn là anh hạnh phúc,” nàng nói, mà đó là... lời nói dối. Nàng đã bắt đầu muốn rất nhiều điều vượt qua những chân trời hạnh phúc của người chồng có địa vị, có chức tước của nàng. “Như anh từng nói.”
Họ cùng nhau đi về lại Bộ Tư pháp. Một tay chàng bế cậu con đang ngủ, tay kia cầm cái nón chơi bóng của cậu và vẫy gọi chiếc taxi để Francesca không phải bế con về nhà. Billy hôn từ giã nàng, nhưng với vẻ nồng thắm không nhiều hơn là một người bạn của gia đình. Chàng có nói “Cám ơn,” nhưng chàng hoàn toàn không nhớ ngày hôm ấy là ngày gì.
Chiếc taxi hòa lẫn vào dòng xe cộ lưu thông trên đường Lập hiến. “Kỷ niệm ngày cưới vui vẻ,” nàng thì thầm.
“Thưa bà, gì ạ?” người tài xế hỏi.
“Không có gì,” nàng nói, kéo Sonny sát hơn vào lòng, muốn mình đừng khóc. “Ồ, không có gì cả đâu.”
Chiều hôm đó, Billy thật sự có vào gặp Danny Shea. Theo những ghi nhận được viết tốc kí bởi cô thư kí của Tổng chưởng lí, những gì đã xảy ra là thế này:
Vào lúc 15:37, TCL [Tổng chưởng lí Daniel Brendan Shea] chấp thuận cho luật sư trẻ Bill V. Airdale (viết sai, lẽ ra là Arsdale) một cuộc gặp trong vòng mười phút trong lịch làm việc buổi chiều của ông đủ để BVA có thể tháp tùng TCL khi ông đi đến cầu thang máy của tòa cao ốc văn phòng nơi ông làm việc. BVA đồng ý.
BVA bàn về những phẩm chất của anh ta cho công việc nơi đây và ước muốn của anh ta được tham dự vào những vấn đề truy tố hơn, đưa đến hậu quả là có nhiều thời gian hơn ở tòa án và bớt thời gian ở thư viện. BVA thắc mắc là bằng tốt nghiệp đại học Harvard của anh ta có liên quan gì với sự phân nhiệm hiện tại của mình - mà anh ta rất không hài lòng, nhận thấy rằng nhiều quan chức hàng đầu trong văn phòng TCL xuất thân từ Princeton. TCL cương quyết phủ nhận mọi sự thiên vị kiểu đó, nêu tên nhiều người Do thái và Da đen từ các trường công lập nắm những chức vụ cao trong chính quyền, cũng như công việc với Thượng nghị sĩ [kiểm duyệt] mà TCL đích thân giúp hỗ trợ cho Cô [kiểm duyệt] từ Đại học Miami mà TCL nhắc đến như là”bạn gái” của BVA. BVA xin lỗi. TCL chấp thuận.
Tuy vậy BVA tỏ vẻ không vui với nhiệm sở hiện tại và thăm dò khả năng hoán chuyển. TCL khuyên BVA đến nói với cấp trên trực tiếp của anh ta. BVA biểu lộ thất vọng với vẻ miễn cưỡng của TCL không chịu đích thân can thiệp vào vấn đề, đặc biệt là [tiếp theo sau là nhiều dòng bị kiểm duyệt bôi đen chỉ còn chừa lại dòng chữ “Van Arsdale Citrus Co., được viết đúng chính tả, mặc dầu trước đó cẩu thả với tên của Billy].
TCL nói ông không hiểu BVA muốn nói gì.
BVA giải thích rằng bố mẹ anh ta [kiểm duyệt xóa hai dòng]
TCL biểu lộ ngạc nhiên, bởi cho đến bây giờ chưa hề có những yếu tố như thế xen vào quyết định của TCL trong việc tuyển dụng BVA. TCL chấp nhận rằng MCB [Mr. Corbett Shea, bố ông, cựu Đại sứ ở Canada] là người đầu tiên thúc giục TCL tuyển dụng BVA. Theo cách hiểu của TCL thì chuyện này trước tiên liên quan đến thành tích học tập xuất sắc ở Harvard nhưng cũng được bổ trợ bởi việc phục vụ hữu hiệu của BVA cùng với Cô [kiểm duyệt] đã nói trước đây trong suốt thời gian vận động tranh cử cho Tổng thống.
BVA, gần như hụt hơi và do vậy, gặp khó khăn để hiểu, dường như biểu lộ sự hoài nghi rằng những quan hệ gia đình đã không giữ vai trò nào và hiện nay không thể giữ vai trò nào.
TCL chấp nhận rằng điều này đúng, nhưng những quan hệ giữa MCS [Mr. Corbett Shea] và gia đình bên vợ của BVA, mà tên thời con gái là[kiểm duyệt].
BVA hỏi là phải chăng anh ta bị “gán ép” cho TCL.
TCL nói rằng chuyện phức tạp hơn thế. Trong khi nhắc nhở BVA về những trách nhiệm đã tuyên thệ của anh ta, đối với sự bảo mật, TCL nói rằng trong thực tế ông đang chuẩn bị một kế hoạch toàn diện nhằm [truy tố] [tên của gia đình bên vợ BVA, kiểm duyệt] và những kẻ giống như họ.
BVA trả lời rằng anh ta rất hân hoan hy vọng điều đó diễn ra, và chắc chắn là sẽ không rò rỉ thông tin này cho vợ mình hay bất kỳ thành viên nào của gia đình nàng.
TCL biểu lộ ngạc nhiên và hỏi điều ấy có thực sự là như thế chăng. Phiên thực tập hoàn tất.
BVA nói rằng anh ta cam kết làm “bất kỳ chuyện gì và tất cả mọi chuyện” để sao cho bất kỳ tội ác nào do gia đình bên vợ anh ta làm ra phải được truy tố theo mức độ đầy đủ của pháp luật và rằng nếu không thế thì tương lai chính trị của chính anh ta sẽ là... “phi hiện hữu” (otherwise his own political future would be nonexistent). BVA nói anh ta có hiểu biết đầu tay về những mặt bí mật trong các hoạt động phi pháp của gia đình bên vợ và hiểu biết đó có thể đắc dụng trong kế hoạch truy tố toàn diện của TCL.
TCL biểu lộ sự hài lòng khi nắm bắt được những thông tin này và nói rằng ông lạc quan rằng ông có thể tìm ra giải pháp đối với việc tái phân nhiệm BVA theo yêu cầu của anh. Ông trao cho BVA một khăn trắng mới và cám ơn anh ta về thời gian và tính bộc trực của anh dành cho ông. Cuộc hội kiến kết thúc lúc 15:47 EST (Eastern Standard Time, Thời gian Chuẩn phía Đông đối với Canada và Mỹ, chú thích của ND.).
Sân bay mà Michael Corleone sử dụng khi anh đến New York gần như nằm ở cuối Long Island. Xưa kia đây vốn là một sân bay tư nhân nhưng sau đó được đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền kể từ Đệ nhị Thế chiến. Năm bảy năm trước, Nick Geraci, người tất nhiên không còn dám bay nữa, đã trang bị cho sân bay này đầy đủ tiện nghi để cho những loại máy bay khác nhau do Gia đình Corleones sở hữu
hay vận hành có thể lên xuống nơi đấy.
Michael cho máy bay chạy về phía hangar nơi Geraci đang đứng đợi. Anh dừng lại cách đó khoảng năm mươi yards. Geraci đi ngang qua phi đạo một mình. Al Neri bước ra và lục soát anh ta. Geraci hít một hơi thở sâu và trèo lên cầu thang.
“Hãy để cửa đó mở,” Geraci nói với Neri.
Neri liếc mắt nhìn Michael, anh ta gật đầu. Neri để cửa mở và đứng ngay bên ngoài. “Giữa chúng ta bây giờ là như thế sao?” Michael nói.
“Như thế là sao?”
“Tôi đã sai lục soát bạn,” Michael nói, “còn bạn sẽ không hội kiến với tôi đàng sau những cánh cửa đóng.”
“Việc lục soát, tôi không thể nói gì,” Geraci nói,” mặc dầu tôi không có gì phàn nàn cả. Và bởi vì tôi chắc rằng Ông Al Nery rất dễ khương và rất tài năng đang đứng sát ngoài đây vẫn luôn thủ sẵn vài vũ khí chết người, tôi nghĩ rằng niềm tin của tôi vào ông vẫn kiên định như từ bao giờ. Chỉ có điều là... tôi không biết ông có nhận ra chuyện này không, nhưng đây là lần đầu tiên tôi lại vào bên trong một chiếc máy bay kể từ... ông biết rồi.”
Tất nhiên là Michael biết quá đi chứ. Anh ta không nói gì. Anh vạch ra kế hoạch bay cho chặng đường tới của hành trình.
“Ngay cả khi tôi đem con tôi tới Coney Island,” Geraci nói,’ nếu có chuyến bay rời mặt đất, nó sẽ rời đi mà không có tôi. Tôi sẽ coi đó là một ân huệ riêng cho mình nếu chúng ta có thể giữ cửa mở và, nếu ông không phiền lắm, trong khi ông đang ngồi ngay tại đó, ông có thể tắt máy được không.”
Michael đã nghe về những cơn run của Nick Geraci, nhưng đây là lần đầu anh chứng kiến hiện tượng đó. Cũng không quá tệ như anh từng tưởng tượng.
“Chúng ta sẽ phân li sự khác biệt nhé,” Michael nói, vừa hoàn tất mẫu đơn và ném cho Neri để anh chàng này cầm chạy đi đưa cho tháp kiểm soát không lưu. “Bạn giữ cửa mở còn tôi giữ động cơ nổ.”
Geraci có thực sự nghĩ rằng Michael sẽ bay lên mà không có Neri? Với cái cửa mở? Rằng Michael có thể khinh suất đến độ anh ta sẽ thử kéo một thứ như vậy vào một khoảng không gian phong kín với một cựu võ sĩ hạng nặng, người, mặc dấu có những cơn run, vẫn còn giữ được thể trạng tốt và trông chừng có thể dễ dàng gây cho Michael Corleone vài chấn thương sọ não, không cần nặng lắm, nhưng đủ để phải ỉa đái tại chỗ suốt phần đời còn lại?
“Được thôi,” Geraci nhất trí. “Cho phép tôi nói chuyện này và tôi sẽ đi. Chính là chuyện mà tôi muốn
ông biết rõ về. Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu vậy nên tôi cứ nghĩ sao nói vậy không phải sắp xếp mở đề thân bài kết luận gì cả nhé. Tôi đã vạch ra một cuộc thương lượng cho chúng ta để trở lại Cuba.”
Sự ngạc nhiên của Michael là thực sự mặc dầu không có gì trong những điều Geraci đang nói là tin tức mới lạ đối với anh. Không phải lời đề nghị từ điệp viên CIA một mắt gốc Do thái, không phải vụ đất đai phân lô ở New Jersey. Không phải hỗn hợp dễ cháy nổ gồm những tay đánh thuê người Sicily và những người Cuba xưa kia từng giàu có và nay bị chính quyền mới tước đoạt cho trắng tay nên sinh phẫn uất, quyết chí trả thù. Họ đã cố vượt qua những bất đồng (ngôn ngữ, văn hóa, động cơ để chiến đấu, tùy bạn đặt tên) và một biến cố bất hạnh đau nhói như dao đâm (nhiều người của Geraci đến nơi chưa làm được gì đã phải rút quân về Toledo, Ohio, trong tình trạng... hoang tàng phế tích!) và chỉ mới mấy tuần trước đây khi cố xâm nhập vào hòn đảo chết tiệt nọ, thành những đội biệt kích ám sát từ hai đến ba người, với hy vọng rằng việc giết một tay đầu sỏ lớn có thể tạo ra một số hệ quả đáng mong ước. Điều gây sốc cho Michael đó là Nick Geraci lại nói với anh tất tần tật những chuyện này.
“Khi bạn nói là bạn đã vạch ra một cuộc thương lượng cho chúng ta,” Michael nói khi Geraci vừa dứt lời, “tôi không chắc là bạn có ý chỉ gì.”
“Hãy để cho nó mang ý nghĩa mà ông muốn nó có ý nghĩa. Tôi biết là ông đứng ngoài và đó là chuyện nhỏ đối với ông, nhưng tôi không ở trong ngành kinh doanh sòng bạc như ông. Tôi nghĩ có lẽ ông quan tâm muốn biết trước về những cơ hội có thể đưa đến, và cũng muốn chắc rằng ông đã biết về sự cạnh tranh.”
Cạnh tranh? “Cạnh tranh vì cái gì?”
“À, thế này, nếu như tôi đã biết về mọi chuyện đang diễn tiến, tôi đã đến với ông ngay. Tôi từng nghĩ rằng chuyện của tôi ở Jersey là toàn bộ chiến dịch, nhưng tôi đã bắt đầu nghe được những chuyện khác. Tình cờ tôi phát hiện rằng, Sammy Drago ở Tampa cũng có cái gì giống y như thế, huấn luyện ngay trên bãi biển phía nam Miami. Điều đó không làm phiền tôi bằng một nửa khi tôi ngẫu nhiên biết rằng có khoảng năm mươi người đang được huấn luyện tại một địa điểm rất gần căn cứ hải quân ở Jacksonville mà tôi vẫn thỉnh thoảng sử dụng vào công việc làm ăn của mình. Tất cả những kẻ tôi có thể phát hiện ở căn cứ đó đều liên quan đến Carlo Tramonti và New Orleans, nhưng -” Anh ta xoay lòng bàn tay run của mình qua lại và cười gượng như một sự nhẫn nhục chấp nhận. “Tramonti chỉ là một con rối. Drago - mặc dầu mang cái tên oai phong thế (Drago nghĩa là Long, Rồng) - nhưng cũng chỉ là phường giá áo túi cơm. Gộp chung lại với nhau, viết thành chữ gì?” Geraci viết ra trên năm ngón tay trái của mình, như thể anh đang đếm. “R.U.S.S.O.”
Michael giả định rằng tình cờ tôi phát hiện và tôi ngẫu nhiên biết rằng chỉ là mánh khóe của Geraci để che đậy những nguồn hiển nhiên của anh ta cho toàn bộ vụ này - hoặc là Vincent Forlanza, vốn trải qua mùa đông ở Key Biscayne, hoặc từ chính Louie Russo cũng không chừng.
“Ngưng lại chỗ này đi,” Michael nói. “Tôi biết rằng bạn đang kể với tôi những chuyện này vì lòng quí mên đối với tôi và vì tình bạn của chúng ta, và tôi cám ơn bạn về điều đó. Nhưng bạn đã nói nhiều rồi.
Tôi không thể tham gia vào chuyện này. Tôi đánh giá đúng mức cái vị thế chông chênh mà bạn đang đặt chân vào, nhưng tất cả những gì tôi có thể nói với bạn đó là mặc dầu những gì bạn có thể nghe từ nghĩa phụ của bạn ở Cleveland, tôi đoan quyết với bạn tôi đang làm mọi việc trong khả năng mình để vận động sao cho bạn có thể ngồi vào chiếc ghế của tôi ở Ủy ban và đồng thời tôi có thể đi ra. Tôi đã đến gần rồi. Chúng ta đã gần sát đích rồi. Bạn và tôi cùng hướng đến những mục đích giống nhau. Lúc này mà gây ra nhiễu nhương với bất kỳ Gia đình nào khác cũng đều không hay.”
Michael không thể xác định là Geraci đang gật đầu hay đang run.
“Tôi biết tôi không cần lời chúc phúc của ông,” Geraci nói, đứng lên để từ biệt. “Tôi chỉ cố gắng để chắc rằng mình tránh được điều trái lại. Lời nguyền rủa của ông, tôi nghĩ là thế.”
Có lẽ Michael nghĩ rằng một nước đi phòng vệ mang vẻ hèn là không xứng với tầm cỡ một “đại lãnh tụ” như mình. “Chúc bạn và người của bạn may mắn ở Cuba,” Michael nói. “Gửi lời chào đến tất cả những gì đã rời xa chúng tôi. Chúng ta minh bạch với nhau cả rồi, đúng không?”
“Tôi sẽ làm như ý ông,” Geraci nói, bước xuống các bậc thang. “Vâng đúng thế.”
Một tuần lễ sau, Joe Lucadello một mình trở lại Hồ Tahoe, như đã hứa, trong một chiếc xuồng nhỏ tồi tàn, cột vào bến của nhà Corleone. Capra và Tommi Neri gặp anh ta và lần soát anh khá kỹ rồi báo cho Michael. Michael gọi Tom Hagen và bảo Joe đã đến rồi đợi cho đến khi Hagen sẵn sàng ra nơi đó trước khi đi xuống bãi cỏ thoai thoải để đến chiếc ghế nhôm ở cuối bến tàu, ngồi vào giữa.
“Tom không có vẻ muốn kể với tôi,” Joe nói. “Có lẽ bạn biết, Mike à. Ai đã nghĩ ra cái kế ém quân nơi các tiệm bánh pizza vậy? Diệu kế đấy, tôi phải nói như thế.”
Đó là ý tưởng của Geraci nhưng Michael không thể thấy có lợi gì mà nói chuyện đó với Joe. “Hãy cho tôi biết chuyện Fausto Geraci nói là đúng thật chứ,” Michael nói.
“Điều đó luôn làm tôi bối rối,” Joe nói. “Không ai khác gọi anh ta như thế.” Michael nhìn trừng trừng khiến anh bạn cũ phải chớp mắt.
“Đồng ý, đúng vậy,” anh nói. “Có những người khác. Có nghĩa là tôi chưa bao giờ nói là không có ai khác.”
“Anh đã biết về chuyện này, và”
“Không, tôi chưa từng biết. Lúc đầu thì chưa. Tôi càng tìm hiểu về... cái gọi là gì nhỉ -whaddayacallit
-,” Joe Lucadello nói. “À, truyền thống của các bạn. Tôi càng thấy nhiều điểm tương đồng. Những Hội kín, với lời thề giữ yên lặng và một bộ điển lệ danh dự và vân vân... (Secret Societies, with vows of silence and a code of honour, et cetera... ). Nhưng tình huống ở đây là... con đường tình mà chúng ta không chung lối! Các bạn hình như có những phương cách để phát hiện mọi điều các bạn cần biết,
nhưng trong tuyến đặc vụ của tôi thì không ai biết mọi điều về bất kỳ chuyện gì.” “Điều đó là không thể chấp nhận,” Michael nói.
“Tôi không đặt ra qui định. Tuy nhiên, thành thật mà nói, tôi không nghĩ là qui định này có ảnh hưởng tới các bạn. Các bạn là thành phần của dự án. Một khi bất cứ ai làm được việc, ta có thể nói rằng mọi người góp phần vào dự án đều sẽ nhận được một liều lượng Quà Giáng sinh đáng kể cho công sức của mình. Hơn nữa, cũng xin nói rõ rằng, chiến dịch của chúng tôi chưa phải là tối ưu. Họ không muốn mất một ít người, nếu cần, như là một phần trong cuộc chiến chống Cộng sản, và do việc huấn luyện quân sự, người của các bạn chính là những tráng sĩ mang con chủy thủ vượt muôn trùng luồng sóng dữ, vào nơi hiểm địa để diệt kẻ bạo tàn, điều này mang lại cho chúng ta một ưu thế rất lớn. Tôi không biết mọi đường đi nước bước của các kế hoạch khác, nhưng tôi từng được nghe nhiều câu chuyện. Họ có nói về chuyện xâm nhập đài phát thanh nơi “đích nhắm” của chúng ta ban bố những diễn từ cho dân Cuba, và đặt những bình phun trong không khí chứa dược chất gây ảo giác gọi là LSD sẽ khiến cho hắn ta nói năng như thằng khùng, hay đúng hơn, như một kẻ hoang tưởng vĩ cuồng, khiến ai cũng thấy là lố bịch và được một mẻ cười vỡ bụng! Làm được như thế chẳng khác nào bắn một quả đại pháo gồm hợp chất cứt đái nổ tung tóe vào cái vòng hào quang thần tượng trên mũ triều thiên của hắn và khiến cho mọi lời “đại hùng biện” của hắn từ đó về sau đều trở thành những trò chọc cười vô duyên của một tên hề loạn trí. Còn có những mưu đồ tẩm thuốc độc vào những điếu xì -gà của lão ta hay đánh bóng những đôi giày của ngài lãnh tụ với một hóa chất sẽ thấm vào da khiến tóc lão ta rụng hết chỉ còn trơ cái đầu trọc lóc, bộ râu xồm xoàm oai phong cũng trụi lủi, khiến mồm miệng lão trở thành trơ trẽn như một cái hĩm no hair! Thế là lão sẽ sượng sùng và ngại ngùng, hết còn tự tin để huênh hoang những lời đại ngôn như trước nay nữa! Họ đã giết hàng trăm con lợn và con lừa để trắc nghiệm tại hiện trường những viên thuốc được cho là tan ngay trong rượu daiquiris ướp lạnh (vốn là khẩu vị thưởng ngoạn của nhà lãnh tụ). Ý tưởng mới nhất mà tôi được nghe là đặc phái một chiếc tiềm thủy đỉnh rất nhỏ rải một số vỏ sò thật đẹp, thật bắt mắt trên rặng san hô nơi tên huênh hoang lòe bịp thích phô diễn trò lặn sâu với bình khí nén (scuba diving). Những vỏ sò đó sẽ được kết nối với một trái bom và khi lão chạm tay vào vỏ sò, lão sẽ trở thành món thịt băm hamburger! Nói cách khác là có vô số những trò nhí nhố mà không sợ ai cười, vì phương tiện nào cũng tốt miễn đạt được mục đích mà thôi! Riêng chúng ta bảnh hơn mấy đám kia ở chỗ chúng ta “hành chính đạo”(We’re taking a straightforward route). Chúng ta sẽ bắn thẳng vào mặt tên con hoang khốn nạn (the Commie bastard) đó.” [Vì lí do tế nhị, người dịch không thể dịch sát nhóm từ the Commie bastard mà phải dịch trai ra một tí như thế, mong bạn đọc thông cảm và lượng thứ].
Mấy người họ ngồi yên lặng trên chiếc ghế dài một thời gian dài.
“Vậy điểm mấu chốt của vụ này là ở đâu?” Joe nói. “Các bạn muốn châm ngòi nổ? Bởi vì những kẻ khác không dám tiên phong, tôi có thể nói với các bạn như thế.”
“Bạn có thể bảo đảm với chúng tôi rằng người của chúng tôi sẽ là những người đầu tiên bước chân vào?”
“Bảo đảm?” Joe lửng lơ. “Trông mình giống cái gì nào, Sears hay Roebuck đây? Tuy nhiên mình có
thể nói với bạn rằng anh chàng Geraci của bạn là nhân vật hảo hạng cho vụ này mà chúng tôi có được. Anh ta là người đầu tiên tạo dựng cơ sở sẵn sàng, và anh ta có đạo quân tinh nhuệ. Tôi biết được từ nguồn thượng đỉnh rằng đây là đạo quân sẵn sàng nhất để xung trận. Mình phải thành thật với bạn điều này là, mình đang băn khoăn không biết có phải mấy đám cạnh tranh với bạn ở đây chỉ lấy tiền đút túi mà chẳng có ý định làm cái quái gì cả hay không. Cho nên, vâng, mình tin tưởng là người của chúng ta sẽ là những người đầu tiên, nhưng mình không bảo đảm với bạn là sáng mai mặt trời sẽ vẫn mọc. Nếu và khi nào quân của Geraci được gửi đi, mình sẽ cho bạn biết. Một lời hứa, không phải là một sự bảo đảm.”
“Hiểu,” Michael nói.
Họ bàn luận những chi tiết về những gì có thể xảy ra khi quân của họ đến Cuba cho đến khi Michael thỏa mãn rằng anh sẽ đi đầu và để cho những gì sắp xảy ra xảy ra.
“Tôi không bao giờ nghĩ chúng ta sẽ có được những con người quyết liều chết như những kẻ chúng ta sắp đối đầu ở Cuba,” Joe nói. “Không phải vì người của chúng ta kém hơn - không hề - nhưng bởi vì người của chúng ta chỉ làm việc vì tiền. Nếu có gì trục trặc họ chỉ không được tiền thưởng, không được thăng chức, đại khái thế thôi. Nhưng những thuộc hạ mà tên khốn kia ở Cuba (nguyên văn: that SOB - viết tắt của son of a bitch - in Cuba) có, nếu họ làm hỏng việc, họ biết rằng hắn sẽ giết họ. Đó là cái khiến cho ngành tình báo của hắn rất hiệu quả. Nhưng người của bạn?” Joe gật gù tỏ ý ngưỡng mộ. “Với họ, chúng ta có được tinh hoa của cả hai thế giới.”
Michael không biết nói gì hơn là cám ơn anh ta. Joe đứng lên chuẩn bị đi.
“Nhân tiện, xin nói thêm rằng bất kỳ ai nghĩ ra kế ém quân nơi các tiệm bánh pizza,” anh ta nói trong lúc Hagen tháo dây buộc thuyền cho anh ta,” đúng là một ý tưởng quá hay. Tôi không chỉ nói điều mình đang nói mà còn muốn nói rằng chúng tôi cũng có một thứ giống như vậy. Mới đây thôi. Họ được gọi là Những Bằng Hữu Đặc Biệt Nhất (Most Special Fellows). Không sao cả nếu mình nói với bạn, bởi vì, tin tôi đi, bạn sẽ không bao giờ nghe chuyện này. Công ty gầy dựng cơ ngơi cho họ, bảo đảm cho họ thịnh vượng, nhưng đối với phần lớn chúng tôi để họ sống riêng trong nhiều năm cho đến khi chúng tôi cần họ làm điều gì đó. Tôi không dính dáng gì đến vụ này, nhưng hãy nhớ lời tôi, sẽ đến một thời khi Tổng thống Hoa kỳ sẽ là một Bằng Hữu Đặc Biệt Nhất. Tất nhiên bạn sẽ không biết được khi nào việc đó xảy ra và khi nó xảy ra bạn cũng không biết là như thế, trừ một số người - rất hạn chế - trong cuộc.”
Trong lúc Michael nhìn chiếc xuồng chạy ra xa, một thoáng nụ cười lăn tăn qua mặt anh. Anh đã biết ít nhất là ba Bằng Hữu kiểu đó, kể cả người thua Jimmy Shea trong cuộc bầu cử vừa rồi; người thứ nhì là con một Thượng nghị sĩ có trong bảng lương của Gia đình, hiện nay đang nghêu ngao vơ vẩn ở Texas trong vai trò một anh chàng bán xăng dầu, và người thứ ba là Ray, con của Pete Clemenza, nhà tài phiệt chủ chuỗi cửa hàng shopping.
“Đã đến lúc,” Michael nói với Hagen. “Đi gặp Russo. Chuyện này cho anh lí do.”
“Chú chắc như vậy?”
Michael gật đầu. “Người của Geraci sắp sửa hoặc là thành công hoặc là thất bại, và chúng ta phải giải ra một đáp án. Tin tức vừa rồi của Joe làm chúng ta khó nghĩ nhưng chúng ta cũng không nên lo lắng thái quá. Nó chỉ có nghĩa rằng chúng ta cần tiến lên. Điều duy nhất chưa sẵn sàng là con chim kim tước của chúng ta treo trong lồng son nơi Bộ Tư pháp, nhưng chúng ta biết Billy lợi dụng cơ hội để phản bội chúng ta như một phương tiện lấy lòng tin của Tổng chưởng lí. Hắn cần thêm ít thời gian ở đó trước khi hắn biết khá đủ đáng để chúng ta xoay chuyển hắn thành lợi thế cho chúng ta. Vậy nên, được rồi. Hãy bắt đầu với Russo. Anh sẵn sàng chứ?”
“Sẵn sàng.”
“Một nước đi quyết định đấy.”
“Tôi đã chờ đợi chuyện này,” Tom nói,” Tôi không biết bao lâu. Nhưng chắc là lâu.”
“Tốt, vậy, cứ thế nhé,” Michael nói, hôn lên má ông anh lớn và rồi đi ngược lên bồn cỏ về căn nhà trống vắng của mình.