Love is like a glass door… sometimes you don’t see it, and it smacks you right in your face.

 
 
 
 
 
Tác giả:  M. L. Stedman
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Light Between Oceans
Dịch giả: Hồ Thị Như Mai
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 38
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Iii.6
ứ Mũi chỉ có chừng đó người, chừng đó nơi chốn để người ta lui tới. Kiểu gì cũng gặp người mình cố tránh mặt.
Mất đến mấy ngày Violet mới thuyết phục được con gái ra khỏi nhà. “Thôi mà, đi với má một chút, má ghé chỗ ông Mouchemore. Cần thêm ít len sợi để làm cho xong tấm trải gường.” Violet không còn đan áo khoác len mềm mại. Cũng không còn may những chiếc đầm nhỏ xinh theo mẫu hoa Liberry nữa. Giờ đây bà trở lại đan móc chăn mềm cho những bệnh nhân khốn khổ cuối cùng còn sống lay lắt ở Nhà An dưỡng. Thì cũng để có việc làm luôn tay, ngay cả khi bà vẫn chưa thôi nghĩ ngợi.
“Má à thực con không muốn đi. Để con ở nhà cũng được.”
“Thôi mà con”.
Rồi hai người đi xuống phố, người ta cố không nhìn quá lộ liễu. Vài người còn cười lịch sự, nhưng không ai hỏi những câu như “Sao rồi Vi?” hay “Hẹn Chủ nhật ở nhà thờ nha?” Người ta không biết phải cư xử ra sao với nỗi đau tang tóc mà không đi sau một cái chết. Có người còn cố băng qua đường để tránh họ. Dân thị trấn đọc báo, cố tìm thêm ít thông tin nhưng gần đây sự việc cũng đã lắng lại.
Khi hai mẹ con Violet đi vào tiệm kim chỉ, Fanny Damley cũng vừa đi ra. Bà ta há hốc miệng, rồi đứng lại bên ngoài, mắt trố ra sững sờ nhưng có vẻ hứng thú.
Cửa hàng có mùi nước đánh bóng hoa oải hương và mùi mấy bông hồng khô từ giỏ hoa khô ở gần quầy tính tiền. Trên tường treo các súc vải đủ loại: lụa damask và muslin, vải lanh và vải bông. Những cuộn chỉ sắp cạnh nhau như những dải cầu vồng, mấy cuộn len tròn bồng bềnh như mây. Mấy mẫu ren quấn quanh bìa – từ dày, mỏng, ren Brussel đến ren Pháp trải khắp trên chiếc bàn nơi ông Mouchemore đang bán hàng cho một bà cụ. Trong tiệm có đặt mấy bộ bàn ghế cho khách ngồi nghỉ chân ở hai bên, tới tận quầy thu ngân.
Ở chiếc bàn gần đó có hai người phụ nữ đang ngồi quay lưng về phía Isabel. Một người tóc vàng, người kia tóc đen, đang mải mở một súc vải lanh màu vàng chanh nhạt ra xem. Một bé gái tóc vàng ngồi cạnh đó, mặt mày ủ rủ, loay hoay với con búp bê vải. Con bé mặc chiếc đầm xòe màu hồng mới tinh, mang tất trắng có viền ren.
Khi hai người phụ nữ còn đang xem vải, hỏi chuyện người bán hàng về giá cả và sổ lượng, con bé lướt mắt quanh cửa hàng xem ai vừa mới vào. Nó vứt con búp bê, leo ngay xuống ghế. “Má!” nó gọi, chạy ào đến Isabel. “Má! Má ơi!” Trước khi có ai kịp hiểu chuyện gì vừa xảy ra, Lucy đã vòng tay ôm chặt lấy chân của Isabel, bám nhanh như cua kẹp.
“Lucy!” Isabel nhấc bổng con bé lên, ôm nó vào lòng, để nó dụi dầu vào cổ cô. “Lucy cưng của má!”
“Má ơi cái cô người xấu đó bắt con đi! Còn đánh con nữa!” Đứa trẻ nhõng nhẽo mách mẹ, chỉ tay về phía Hannah.
“Tội nghiệp cưng quá, tội nghiệp cưng của má!” Isabel ghì chặt lấy con bé, thổn thức khi chạm vào nó, hai chân nó vòng ôm khít lấy eo cô, chiếc đầu nhỏ nép vừa vặn dưới cằm cô, như mảnh ghép hình cuối cùng. Cô không còn thiết đến những gì và những ai quanh đó nữa.
Hannah nhìn cảnh đó, tan nát: cô thấy tủi nhục và tuyệt vọng khi chứng kiến sức hút của Isabel đối với Grace. Lần đầu tiên, cô thấm thía tội trộm cắp của họ. Trước mắt cô là bằng chứng của những gì đã bị lấy mất. Cô thấy hàng trăm ngày, hàng ngàn cái ôm mà hai người từng có với nhau – thứ tình yêu bị tước đoạt ấy. Cô thấy chân mình run lên, cô sợ rằng mình sẽ ngã xuống mất. Gwen đặt tay cánh tay cô, không biết phải làm gì.
Hannah cố che đi sự hổ thẹn, và cả những giọt nước mắt theo đó. Người đàn bà và đứa trẻ con đan vào nhau, chỉ còn là một, ở một thế giới riêng không ai có thể bước vào. Hannah thấy buồn nôn khi cố đứng thẳng, gắng giữ thể diện. Cô cố giữ hơi thở bình tĩnh, cầm lấy túi xách từ quầy thu ngân rồi cố hết sức từ từ bước về phía Isabel.
“Grace con à,” cô thử gọi. Đứa bé vẫn vùi người vào Isabel, cả hai không hề cử động. “Grace à, tới giờ về nhà rồi”. Cô đưa tay chạm lấy đứa bé, nó hét lên: không phải một tiếng la oái mà là một tiếng hét giết chóc, mở hết họng ra mà hét, dội lại từ khung của sổ.
“Má ơi, biểu cổ đi đi! Má biểu đi!”
Mấy người đứng quanh tò mò nhìn, gưong mặt những đàn ông đầy bối rối còn đàn bà thì kinh hãi. Con bé méo xệch mặt mũi, tím tái. “Đi mà má ơi!” Nó nài nỉ, hai bàn tay bé xíu ôm lấy gương mặt Isabel, hét những lời đó như thể cô đứng ở xa lắm hoặc không thể nghe được. Isabel vẫn câm nín.
“Có lẽ mình...” Gwen chưa nói hết câu thì người chị đã cắt ngang.
“Thả con bé ra!” Hannah hét lên, cô vẫn không thể gọi tên Isabel. “Cô làm vậy đủ rồi,” cô hơi hạ giọng xuống, nhưng đầy chua chát.
“Làm sao chị có thể tàn nhẫn tới vậy?” Isabel thốt lên. “Chị cũng thấy nó ra sao rồi! Chị chẳng biết gì về nó, chẳng biết nó cần gì, chẳng biết chăm nó ra sao! Nếu chị không nhẹ tay được với nó thì cũng đừng vô lý vậy!”
“Thả con gái tôi ra! Thả ra ngay!” Hannah yêu cầu, giận run. Cô chỉ muốn ra khỏi cửa hàng, chỉ muốn phá vỡ sự gắn kết đó. Cô kéo đứa bé khỏi Isabel, bế nó ngang hông. Đứa bé vùng vẫy, la hét, “Má ơi! Con đi với má! Thả con ra!”
“Không sao con à,” Hannah nói. “Mẹ biết con đang buồn nhưng mình không ở lại đây được,” rồi cô nói tiếp, cố vừa dỗ dành con bé vùa giữ nó thật chặt để nó khỏi vùng chạy.
Gwen liếc nhìn Isabel, lắc đầu bất lực. Rồi cô quay sang đứa cháu gái. “Suỵt, yên nào cưng. Đừng khóc mà”. Cô lau mặt cho nó bằng một chiếc khăn mùi xoa ren mềm mại. “Về nhà rồi dì sẽ lấy kẹo cho con. Tabatha Tabby chắc là nhớ con lắm. Thôi mà, nín đi con.” Hannah và Gwen tiếp tục rủ rỉ dỗ dành con bé khi cả ba bước ra khỏi cửa hàng. Khi đến cửa, Gwen quay lại nhìn Isabel, nhìn sự tuyệt vọng trong đôi mắt cô.
Trong giây lát hết thảy đứng im. Isabel nhìn trân trân, không dám cử động, nhỡ mà mất đi dấu vết con bé. Mẹ cô đưa mắt nhân viên bán hàng, ngăn không cho họ lên tiếng. Cuối cùng cậu bé khi nãy phụ mở vải lanh cúi xuống nhặt súc vải lên, bắt đầu cuốn lại.
Larry Mouchemore như được ra hiệu, tiếp tục câu chuyện với bà khách hàng, “Bà chỉ mua hai thước thôi hả? Chỗ ren đó?”
“À ờ, chỉ hai thước thôi” bà ta đáp, cố tỏ ra bình thường nhưng lóng ngóng rút từ trong túi xách tay ra một chiếc lược thay vì mấy đồng bạc cắc để trả tiền.
“Đi nào con,” Violet khẽ nói. Rồi bà nói lớn, “Chắc lần này tôi sẽ lấy thứ len khác. Để tôi coi lại mẫu đan rồi quyết định sau.”
Fanny Darnley đang nhiều chuyện với một người đàn trên vỉa hè, khi thấy hai mẹ con Isabel đi ra thì đứng sững lại, chỉ biết đưa mắt nhìn theo tới cuối đường.
***
Knuckey đi dọc theo doi đất ở xứ Mũi, nghe tiếng sóng vỗ bờ từ cả hai phía. Thường sau bữa tối ông hay ra đây đi dạo cho nhẹ đầu. Ông đã lau sạch chỗ bát đĩa bà vợ vừa rửa. Ông vẫn còn nhớ ngày sắp nhỏ còn ở nhà, bày trò chơi lau đĩa với chúng. Giờ sắp thành người lớn hết rồi. Ông mỉm cưòi nhớ lại kỷ niệm về thằng Billy, mãi chỉ ba tuổi.
Hai ngón tay ông vân vê một cái vỏ ốc, mát lạnh và tròn trịa như đồng xu. Gia đình. Chúa mới biết nếu không có gia đình ông làm sao mà sống nổi. Với người đàn bà, mong con là chuyện tự nhiên nhất trên đời. Bà Irene vợ ông sẵn sàng làm tất cả để Billy quay lại. Bất kỳ việc gì. Khi đã nói đến con cái, cha mẹ chỉ còn có bản năng, có hy vọng. Và cả nỗi sợ hãi. Những quy tắc luật lệ đều trở thành vô ích, đáng bị vứt ra cửa sổ.
Luật là luật, nhưng con người vẫn là con người. Ông nghĩ đến cái ngày khởi đầu câu chuyện đau đớn ấy: Lễ Anzac năm đó ông bận đi Perth đám tang người dì. Nếu có nhà hẳn ông đã có thể đuổi bọn họ, đám đông hung hãn ấy, cả tay Garstone nữa. Tất cả những kẻ muốn trút hết đau khổ cho Frank Roennfeldt, dù chỉ trong lát. Nhưng biết đâu mọi sự sẽ còn tồi tệ hơn. Ta không thể bắt cả một thị trấn phải đối diện với nỗi nhục của riêng mình. Đôi khi chỉ có lãng quên mới giúp ta sống bình thường được.
Ông nghĩ đến phạm nhân đang bị giam giữ. Tay Tom Sherbourne đó thật khó hiểu. Kín miệng như hạt dẻ xứ Queensland. Không thể biết được bên trong anh ta ẩn dưới vỏ ngoài trơn tru, cứng rắn đó. Cũng không có điểm yếu để gây áp lực. Tay Spragg chết tiệt rất muốn thịt anh ta. Ông đã cố hết sức chặn Spragg lại nhưng cũng sẽ phải sớm cho hắn đến thẩm vấn Sherbourne. Ở Albany, ở Perth, ai mà biết người ta nghĩ gì. Với cung cách như hiện giờ, chính Sherbourne mới là kẻ thù ghê gớm nhất của bản thân mình.
Ít ra Knuckey cũng đã không để Spragg tới gần Isabel. “Anh biết là ta không thể ép buộc người vợ phải khai, vậy nên tránh xa cô ấy ra. Nếu anh gây áp lực, cô ấy sẽ ngậm miệng luôn. Anh có muốn vậy không?” Knuckey từng nói lói Spragg. “Vậy để cô ấy cho tôi.”
Lạy Chúa, sao mà rắc rối thế này. Một cuộc sống yên tĩnh trong thị trấn yên tĩnh, Knuckey chỉ mong có vậy. Mà giờ đây ông phải cố hiểu mớ rối ren đó. Một vụ án quái gở. Thật quái gở. Công việc của Knuckey là phải làm sao cho công bằng, thấu đáo. Và bàn giao lại cho Albany khi yêu cầu. Ông vứt vỏ ốc xuống biển. Chẳng có nước bắn dội lại, chiếc vỏ ốc chìm dưới tiếng sóng gầm gừ.
***
Hạ sĩ Spragg mồ hôi mồ kê nhễ nhại sau chuyến đi dài từ Albany. Anh ta phủi hắt chút sợi bông trên tay áo. Spragg chậm rãi quay lưng ra, nhìn đám giấy tờ trước mắt. “Thomas Edward Sherbourne. Sinh ngày 28 tháng Chín năm 1893.” Tom không lên tiếng đáp lại lời viên cảnh sát. Tiếng dế râm ran vọng lại từ cánh rừng, cứ như thể là âm thanh của sức nóng mùa hè.
“Đúng là anh hùng chiến tranh. Hai lần huy chương chữ thập. Tao đọc thành tích của mày rồi: tay không bắt sống nguyên đội súng máy giặc Đức. Đưa bốn đồng đội đến nơi an toàn dưới làn đạn bắn tỉa. Còn gì gì nữa.” Spragg dừng lại một lúc. “Chắc mày đã giết cũng khá nhiều.”
Tom vẫn im lặng.
“Tao nói,” Spragg chồm người qua bàn, lại gần Tom, “Chắc mày đã giết cũng khá nhiều.”
Nhịp thở của Tom vẫn đều đặn. Anh nhìn thẳng về phía trước, gương mặt không biểu cảm.
Spragg đập bàn. “Khi nào tao hỏi thì mày phải trả lời, hiểu không đồ khốn?”
“Khi nào anh hỏi, tôi sẽ trả lời,” Tom lặng lẽ đáp.
“Tại sao mày giết Frank Roennfeldt? Câu hỏi đó.”
“Tôi không giết anh ấy.”
“Có phải vì anh ta là người Đức không? Ai cũng nói là vẫn còn giọng Đức.”
“Lúc tôi gặp thì anh ta không có giọng gì cả. Anh ta chết rồi.”
“Trước đó mày giết nhiều đồng loại của anh ta. Thêm một đứa thì có sao đâu, phải vậy không?”
Tom thở ra một hơi dài, vòng tay lại.
“Đó cũng là câu hỏi.”
“Thực ra là chuyện gì vậy? Tôi đã nói với anh là tôi là người có tội giữ Lucy lại. Tôi đã khai là anh ấy đã chết khi thuyền dạt lên đảo. Tôi đã chôn cất anh ấy, cũng là tội của tôi. Anh còn muốn gì nữa?”
“Ôi chao anh ấy dũng cảm quá, trung thực quá, tốt quá, sẵn sàng đi tù,” Spragg giả giọng eo éo. “Tao không tin, mày hiểu chưa? Với tao thì nghe giống như mày đang tìm cách trốn tội giết người.”
Sự tĩnh tại của Tom khiến viên cảnh sát càng lồng lộn, hắn ta tiếp, “Tao đã thấy quá nhiều cái loại như mày rồi. Mà ta cũng gặp đủ mấy tay anh hùng chiến tranh rồi. Cứ trở về rồi nghĩ người ta phải cung phụng mình cả đời. Thấy ai chưa đi lính cũng khỉnh khỉnh. Chiến tranh hết rồi con ạ. Chúa mới biết có bao nhiêu thằng trở về rồi loạn cả trí. Sống trên ở một nước có luật pháp không như sống ở chiến trường, mày không thoát nổi đâu.”
“Việc này chẳng liên quan gì đến chiến tranh cả.”
“Phải có người đấu tranh cho sự tử tế ở đời. Ở đây tao là người làm việc đó.”
“Còn lý lẽ thì sao hả, thưa ông Hạ sĩ? Chúa ơi, anh nghĩ nếu muốn tôi đã phủ nhận hết. Tôi đã có thể khai rằng Frank Roennfeldt còn không ở trong thuyền nữa mà, các anh cũng chẳng cách gì biết. Tôi nói ra sự thật vì tôi muốn vợ anh ấy biết chuyện gì đã xảy ra, và vì anh ấy đáng được chôn cất tử tế.”
“Hoặc có thể mày chỉ nói nửa sự thật thôi vì lương tâm cắn rứt, nhưng vẫn muốn người ta đánh khẽ rồi tha bổng.”
“Tôi chỉ hỏi anh chuyện nào nghe có lý hơn.”
Viên hạ sĩ lạnh lùng nhìn anh. “Hồ sơ ghi rằng mày đã giết bảy người trong ổ súng máy đó. Với tao chuyện đó cho thấy mày là đứa khát máu. Giết người không ghê tay. Làm bộ anh hùng rồi mày cũng chết,” Spragg vừa nói vừa gom giấy tờ. “Bị treo cổ thì làm sao làm anh hùng nổi.” Viên cảnh sát đóng hồ sơ, gọi Harry Garstone đến giải người tù về nhà giam.
Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương -  M. L. Stedman Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương