Số lần đọc/download: 240 / 24
Cập nhật: 2020-07-08 19:36:22 +0700
Chương 30 - Kim Cương Gửi Vào Ngân Hàng
K
hông có hy vọng nào cho Phillopolis ngay từ đầu. Vụ án chống lại gã rõ ràng và thảm hại đến mức, sau khi Thẩm phán nghe phần điều tra sơ bộ đã không ngần ngại cam kết đưa gã ra xét xử tại Old Bailey với mọi lời cáo buộc được chấp nhận, dù đó là phiên điều trần đầu tiên. Mọi vật phẩm bị đánh cắp từ doanh nghiệp chế tác kim cương được tìm thấy trong căn hộ của gã. Các chuyên viên điều tra đã đưa ra bằng chứng cho thấy gã đã bị nghi ngờ trong nhiều năm, rằng cách kiếm tiền của gã từ lâu đã là đối tượng điều tra của cảnh sát. Các bằng chứng trình bày tiếp, rằng gã được biết đến như là cộng sự của vài đối tượng tội phạm, và có hai lần, căn hộ của gã bị lục soát.
Người phụ nữ được coi là vợ gã không có điều gì tốt đẹp để nói về gã. Không phải cô tự đến khai báo với cảnh sát. Thực tế là họ tìm thấy cô bị giam cầm trong một phòng tầng trên. Phillopolis là loại người có tính cách bạo chúa, và vào cái ngày bị bắt, gã đã cãi nhau với người phụ nữ tội nghiệp ấy khi cô đe dọa sẽ báo cảnh sát vì gã vi phạm pháp luật. Gã đã đánh và nhốt cô vào một phòng ngủ phía trên, và hành động chuyên quyền này đã đặt dấu chấm cho ngày tàn của gã - nếu đó là sự thật, bởi Phillopolis thề sống chết rằng những vật phẩm được tìm thấy trong phòng gã đã được sắp đặt sẵn.
Đại tá không có mặt, cũng không có bất kỳ thành viên nào khác trong liên minh, ngoại trừ Selby thấp lùn được Đại tá triệu tập đến vào sáng sớm.
“Anh ta không có mảy may cơ hội,” Selby báo cáo. Người đàn ông này có quan hệ lâu đời với những tên tội phạm tầng lớp trung bình, và đã dành không ít thời gian trong tòa án, đảm bảo bằng chứng về đức hạnh của những người anh ta bảo hộ. “Nếu anh ta không lĩnh án mười năm thì tôi là một gã Hà Lan.”
“Phillopolis nói gì?”
“Anh ta thề rằng đống đồ không có trong căn hộ khi anh ta đi khỏi nhà vào tối hôm đó,” Selby nói, “nhưng nếu đúng là cài bẫy, thì việc ấy đã được thực hiện rất chu đáo. Các thám tử tìm thấy những hộp trang sức dưới đệm, giấu trong tủ, trên nóc kệ và một trong những món tốt nhất của lô chiến lợi phẩm - một chiếc vòng cổ bằng kim cương tuyệt đẹp - đã được phát hiện trong chiếc ủng của anh ta, dưới đáy hòm.”
Cuộc trò chuyện diễn ra ở Công viên Cây Xanh, là nơi giết thời gian yêu thích của Đại tá. Ông ta thích ngồi trên một chiếc ghế bên hồ, nhìn những đứa trẻ thả thuyền và những con vịt mẹ chăn đàn con. Ông ta im lặng. Đôi mắt ông ta đổ dồn vào một cậu bé đang nỗ lực đưa chiếc thuyền nhỏ bị ngập nước đến một bờ cát nông và dường như ông ta không có hứng thú nào khác.
“Làm một điếu xì gà đi, Selby,” cuối cùng ông ta nói. “Những tin tức trong thế giới của anh thế nào?”
Selby cẩn thận cắn đầu món quà của mình.
“Không có gì nhiều,” anh ta nói. “Hôm nọ, chúng tôi nhận được một số thư của bà Crombie-Brail. Con trai bà ấy đang gặp rắc rối tại Cape. Lew Litchfield đã lấy được chúng. Cậu ta đã làm việc ở Manchester.”
Lew Litchfield là một tay trộm trẻ tuổi sáng dạ mà Đại tá đã nghe tên, và ông ta biết loại ‘công việc’ mà Lew đã tham gia.
“Anh đã mua lại chúng?”
“Tôi đã trả với giá rẻ mạt,” Selby nói. “Tôi không nghĩ chúng có tác dụng gì.”
Đại tá lắc đầu.
“Đó không phải loại thư từ mang lại tiền,” ông ta nói. “Ta không thể hủy hoại một người mẹ vì con trai bà ta gặp rắc rối - ít nhất, không thể kém 100 bảng.”
“Gần đây, thư từ có vẻ khan hiếm,” người đại lý của ông ta nói với giọng chán chường. “Tôi nghĩ người ta đang dần từ bỏ việc viết hoặc lưu giữ thư từ.”
“Có lẽ,” Đại tá nói. “Dù sao đi nữa, tôi không gọi anh xuống để nói về chuyện thư từ. Tôi có việc cho anh đây.”
Selby trông có vẻ lúng túng, đó chính là một dấu hiệu đáng nản lòng. Thông thường, những tội phạm nhỏ ở miền Bắc luôn chào đón bất kỳ công việc nào với lòng nhiệt tình.
Đối với Đại tá, đó là bằng chứng không thể nhầm lẫn rằng ông ta đang mất dần tầm kiểm soát, rằng ma thuật của cái tên ông ta và tất cả những gì nó bao hàm về năng lực bảo hộ khỏi sự trừng phạt đã suy giảm đáng kể so với trước kia.
“Anh có vẻ không thoải mái,” ông ta nói.
Selby gượng cười.
“Vâng, Đại tá,” Selby nói, “tôi có cảm giác họ đang truy đuổi chúng ta, và tôi không muốn mạo hiểm.”
“Anh sẽ nhận vụ này,” Đại tá nói. “Có người cần bị loại bỏ.”
Người đàn ông liếm môi.
“À, tôi không muốn dính vào đâu,” anh ta nói. “Tôi đã lãnh đủ với vụ Hanson rồi.”
“Tôi nói ‘cần bị loại bỏ’ không có nghĩa là ám sát hay tra tấn,” Đại tá nói, “vả lại, đó là một trong những người của chúng ta.”
Nhưng ngay cả sự đảm bảo này cũng không làm người kia hài lòng.
“Tôi không muốn làm,” anh ta nói. “Họ nói với tôi rằng tên Jack…”
“Anh hãy bỏ Kẻ Hành Pháp sang một bên, và nghĩ về bản thân đi,” Đại tá gắt. “Anh đã kiếm cả mớ tiền, giờ anh thấy nước Anh đang trở nên dễ phỏng tay hay sao?”
“Quả thực thế,” người kia nhiệt tình đáp. “Ông biết đấy, Đại tá, tôi đang nghĩ một chuyến sang Hoa Kỳ có lẽ cũng không tồi.”
“Có vô số chỗ để đi, ngoài Hoa Kỳ,” Đại tá nói. “Tôi đã nói với anh rằng tôi không định làm hại Lollie.”
“Lollie?” Selby ngạc nhiên và thể hiện cảm xúc rõ ràng. “Cô ấy chưa từng…”
“Tôi không biết cô ta đã làm gì, nhưng tôi nghĩ đã đến lúc cô ta phải đi,” Đại tá nói. “Theo như tôi phán đoán, anh cũng phải đi thôi, Selby. Tôi không biết liệu Lollie có phản bội chúng ta hay không, và có lẽ tôi đang đối xử bất công với cô ta,” ông ta nói tiếp, “nhưng nếu tôi gợi ý rằng cô ta nên rời khỏi đất nước, có lẽ cô ta sẽ từ chối. Anh biết phụ nữ hay ngờ vực như thế nào rồi đấy. Ý tưởng duy nhất tôi nghĩ ra là dọa cho cô ta sợ và khiến cô ta bỏ chạy thật nhanh, ngay lập tức, và tôi muốn anh cung cấp phương tiện.”
Selby đang chờ đợi.
“Tôi đã mua một chiếc thuyền máy, một trong những chiếc thuyền máy nhanh nhất mà Chính phủ sử dụng trong chiến tranh. Tôi để nó tại Twickenham và anh có thể chất tất cả của cải của mình lên tàu và đi…”
“Đi đâu?” Selby hỏi.
“Bất cứ nơi nào anh muốn,” Đại tá nói, “Hà Lan, Đan Mạch, nơi nào cũng tốt. Đó là một chiếc thuyền đi biển. Anh thấy đấy, ý tưởng của tôi là thế này. Nếu tôi nghĩ Lollie đang đàm phán tố cáo chúng ta, tôi có thể dọa cho cô ta sợ hãi, điều đó sẽ khiến cô ta nhảy lên bất cứ phương tiện nào để rời khỏi nước Anh bằng con đường nhanh nhất và ngắn nhất. Anh có thể đi cùng và trông nom cô ta cho đến khi rắc rối đã qua.”
Ông ta nhìn vẻ mặt người đàn ông và diễn giải nó chính xác.
“Tôi không lo lắng về việc anh qua mặt tôi,” ông ta nói. “Ngay cả khi anh ở nước ngoài. Tôi có đủ bằng chứng buộc tội khiến anh bị dẫn độ trở lại.” Ông ta cười khi Selby sa sầm mặt. “Anh thấy đấy, Selby, không điều gì trên thế giới có thể coi là ngoại lệ. Tôi thậm chí còn chưa biết Lollie có từ chối đi theo cách thông thường hay không, nhưng tôi phải chuẩn bị.”
“Đây là một gợi ý hợp lý,” Selby nói sau khi cân nhắc vài phút. “Tôi sẽ làm chuyện này, Đại tá.”
“Tốt hơn anh nên đưa vài người đến London, những người có thể quản lý Lollie nếu cô ta gây rắc rối - à không, không,” Đại tá giơ tay phản đối. “Không thế có chuyện bạo lực. Làm sao có thể? Anh sẽ chịu trách nhiệm tất cả, và Lollie được đối xử thế nào hoàn toàn tùy thuộc vào anh.”
Cho đến một tiếng đồng hồ sau, Selby mới nghĩ ra tại sao Đại tá biết rằng sở thích của ông ta là chơi thuyền máy, nhưng lúc đó, Đại tá đã đi mất.
Sự thật là, như Boundary nói, rằng toàn bộ băng đảng đang sợ hãi và sợ hãi đến kinh hoàng. Một sự thật khác là họ chỉ cần một người bị tống vào tù là đủ để mỗi người bọn họ chỉ còn nghĩ cho mình. Ngay cả các thành viên thấp bé cũng đã chuẩn bị tẩu tán. Đèn đỏ đã cháy rực trước mắt. Nhưng không ai biết rằng Đại tá dễ dàng nhận ra các dấu hiệu này, và bất chấp triết lý rõ ràng và tính cách coi thường nguy hiểm của mình, chính ông ta, hơn bất kỳ ai khác, đang chuẩn bị cho sự tan vỡ không thể tránh khỏi.
Ông ta tự nhủ, Kẻ Hành Pháp đã chơi trò chơi của hắn tốt hơn ông ta từng làm. Vụ bắt giữ Phillopolis đã loại bỏ một trong những người có thể là nhân chứng bất tiện chống lại ông ta. White đã chết, Raoul đã chết. Ông ta đã lên kế hoạch cho sự biến mất của Selby, người nguy hiểm nhất và Lollie Marsh, một phụ nữ thậm chí còn nguy hiểm hơn, và sẽ chỉ còn lại Pinto và Crewe.
Sau khi rời khỏi người đại lý, Đại tá đi bộ đến Westminster và lên một chiếc xe chở ông ta dọc theo bờ kè đến Blackfriars. Ông ta có thể đã bị theo dõi, có lẽ vậy, nhưng việc đó không khiến ông ta lo lắng. Ông ta đi ngang qua rạp xiếc Ludgate, lên phố St. Bride đến Vườn Hatton và rẽ vào văn phòng của Myglebergs.
Ông Mygleberg, một quý ông lịch thiệp và sang trọng, tiếp đón và dẫn ông ta vào một phòng riêng. Người đàn ông Hà Lan sắc sảo này không hề ảo tưởng về sự trung tín của Đại tá, nhưng cũng không nghi ngờ gì về việc Đại tá có thể trả rất nhiều tiền cho bất cứ thứ gì mình mua.
“Tôi rất vui vì ông đã đến, Đại tá,” Mygleberg nói. “Tôi đã mong ông đến mấy ngày qua. Chúng tôi vừa có một lô đá tuyệt vời từ Amsterdam, và tôi nghĩ rằng một vài viên trong số đó rất phù hợp với ông.”
Ông ta biến mất và trở lại với một cái khay được phủ kín những viên kim cương đẹp nhất từng rời khỏi tay thợ cắt. Đại tá chậm rãi xem, kiểm tra và đặt một số viên được chọn sang một bên.
“Tôi lấy những viên này,” ông ta nói, và Mygleberg cười to.
“Chúng là những viên đẹp nhất,” ông ta cười thầm. “Tôi tin là ông luôn biết hàng nào tốt ngay khi nhìn thấy, Đại tá!”
“Tôi phải trả bao nhiêu cho những viên này?”
Mygleberg tính toán nhanh chóng và đưa ra các con số cho Đại tá Boundary.
“Đây là một cái giá cao,” Đại tá nói, “nhưng tôi không nghĩ rằng anh bán quá đắt. Hơn nữa, tôi luôn có thể bán lại chúng với cùng giá này.”
Mygleberg gật đầu.
“Tôi nghĩ ông rất khôn ngoan khi bỏ tiền vào kim cương, Đại tá,” ông ta nói. “Giá của chúng luôn tăng và không bao giờ giảm. Ông có thể mất những thứ khác. Nhưng kim cương dễ dàng mang theo và luôn có thể trao đổi. Tôi luôn nói với đối tác rằng nếu tôi trở thành triệu phú, tôi sẽ đầu tư từng xu vào đá quý.”
Đại tá trả tiền cho những viên đá quý bằng xấp tiền dày lấy từ chiếc túi đeo bên hông. Chúng chính là những tờ tiền mà Maisie White đã trao cho Đại tá đêm hôm trước. Ông ta đợi trong khi những viên đá được gói thành một gói nhỏ dài, được niêm phong kĩ càng khắc tên và địa chỉ của mình, sau đó bắt tay Mygleberg và đặt một cuộc hẹn tiếp theo. Ông ta đi khỏi Vườn Hatton, huýt sáo một bài hát và thể hiện sự mãn nguyện rõ ràng.
Ông ta cũng đã sẵn sàng cho việc chạy trốn. Đây là gói đầu tiên trong số nhiều gói mà ông ta dự định gửi vào két an toàn tại ngân hàng, sẽ đi cùng với đống trái phiếu vàng Hoa Kỳ có mệnh giá cao ngày càng đầy két sắt ấy. Trong nhiều tháng qua, Đại tá đã chuyển đổi tài sản của mình thành đô la. Chúng dễ dàng được trao đổi và ít bị truy nguồn gốc hơn tiền giấy Anh, và dễ sử dụng hon. Một số dư lớn trong sổ sách của ngân hàng, có thể theo thời gian, sẽ chuyển đổi thành tiền mặt. Sau đó, không ai ngoài ông ta biết tài khoản tín dụng ấy. Đại tá không phải chịu đựng những nhân viên ngân hàng tò mò hay một quản lý có thể bị cảnh sát tóm cổ. Trong vòng một phút thông báo, và không một ai hay biết, ông ta có thể yêu cầu rút toàn bộ két sắt và rời khỏi ngân hàng mà không ai biết rằng ông ta đã mang phần lớn tài sản của mình đi.
Ông ta bắt một chiếc taxi và đến ngân hàng. Người quản lý, Ferguson, ra đón ông ta.
“Xin chào, Đại tá,” anh nói. “Tôi vừa viết cho ông một lời nhắn. Ông biết rằng tài khoản của ông đang còn rất ít.”
“Phải vậy không?” Đại tá ngạc nhiên hỏi.
“Tôi nghĩ ông không để ý sự việc này,” Ferguson nói, “nhưng gần đây ông đã rút ra rất nhiều tiền.”
“Tôi sẽ điều chỉnh ngay,” Đại tá nói. “Không bị rút dưới định mức đấy chứ?” Ông ta bỡn cợt hỏi, và Ferguson mỉm cười.
“Ông có 80.000 bảng trong tài khoản B,” anh nói. “Tôi cho rằng ông không muốn động vào nó?”
Tài khoản B là tên gọi dễ nghe cho quỹ tài sản chung của tất cả các chủ xị trong liên minh Boundary.
“Nếu anh không lo lắng về việc tôi sẽ bị kết án vì tội lừa đảo lấy tiền từ công quỹ sang tài khoản riêng?” Đại tá nói với giọng hài hước. “Không, tôi sẽ điều chỉnh tài khoản của mình trong hôm nay. Trong thời gian chờ đợi…” ông ta chìa một gói hàng từ túi đeo bên hông, “tôi muốn món đồ này được cất vào két an toàn của mình.”
“Chắc chắn rồi,” Ferguson nói và rung chuông. Một nhân viên trả lời cuộc gọi. “Đưa Đại tá Boundary xuống hầm. Ông ấy muốn ký gửi một vật vào két sắt của mình,” anh nói, “hay ông muốn tôi làm thay ông, Đại tá?”
“Tôi sẽ tự mình làm việc đó.”
Ông ta đi theo nhân viên ngân hàng xuống cầu thang xoắn ốc đến hầm kho được thắp sáng, và cầm chiếc chìa khóa mà người đàn ông đưa, ông ta mở két an toàn số 20. Nó được chia thành hai ngăn, bên trái bao gồm một ngăn kéo sâu, ông ta kéo ra ngoài. Nó chứa đầy một nửa tiền đô la Mỹ do chính tay ông ta đếm, phân loại gọn gàng và được đóng gói cẩn thận.
“Tôi thường tự hỏi, Đại tá Boundary,” cậu nhân viên ngân hàng quan tâm, “tại sao ông không sử dụng két của ngân hàng. Khi một khách hàng giữ két an toàn riêng, ông biết đấy, chúng tôi không chịu trách nhiệm cho bất kỳ tổn thất nào của người đó.”
“Tôi biết điều đó,” Đại tá thân thiện nói. “Người ta vẫn nên thử mạo hiểm.”
Ông ta đặt gói hàng lên trên xấp tiền, đóng ngăn kéo, khóa két và đưa chìa khóa cho chàng trai.
“Tôi nghĩ ngân hàng đã chấp nhận đủ rủi ro, không nên yêu cầu họ chấp nhận thêm nữa,” ông ta nói, “và bên cạnh đó, đôi khi tôi muốn mạo hiểm một chút.”
“À, tôi cũng đã nghe như vậy,” cậu nhân viên vô tư nói, và Đại tá liếc nhìn cậu ta đầy nghi vấn.