Reading means borrowing.

Georg Christoph Lichtenberg, Aphorisms

 
 
 
 
 
Tác giả:  M. L. Stedman
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Light Between Oceans
Dịch giả: Hồ Thị Như Mai
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 38
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Iii.5
ại sao anh bảo vệ cô ấy?”
Ralph lo lắng hỏi Tom từ phía bên kia song sắt. “Việc rõ như ban ngày. Tôi mà nhắc đến Isabel thì anh lạ hẳn, nói năng vô lý.”
“Đáng ra cháu phải bảo vệ cô ấy tốt hơn. Bảo vệ cô ấy khỏi cháu.”
“Đừng nói vớ vẩn.”
“Bác rất tốt với cháu, Ralph à. Nhưng có nhiều chuyện của cháu mà bác chưa biết hết đâu.”
“Nhưng tôi biết cũng khá nhiều đó, con trai à.”
Tom đứng dậy. “Máy thuyền có sửa được không? Bluey kể là đang bị hư.”
Ralph nhìn Tom thật kỹ. “Chắc là không ra gì.”
“Cũng bao năm rồi.”
“Đúng vậy. Tôi luôn tin tưởng nó, không bao giờ nghĩ có ngày nó làm tôi thất vọng. Fremantle giờ còn muốn dẹp luôn.”
Lão nhìn vào mắt Tom. “Ai rồi cũng chết cả. Anh là ai mà đi vứt bỏ tuổi xuân của mình như vậy?”
“Tuổi xuân của cháu đã chết từ lâu rồi, Ralph à.”
“Nói vớ vẩn, anh biết rõ vậy mà! Giở anh phải đứng dậy và làm gì đó! Lạy Chúa, anh tỉnh lại đi chứ!”
“Vậy bác nghĩ cháu nên làm gì hả bác Ralph?”
“Tôi khuyên cậu nên nói ra sự thật, có là gì đi nữa cũng nói ra. Nói dối chỉ có dẫn tới tai họa thôi.”
“Nhưng đôi khi nói thật cũng chỉ có vậy... Người ta chỉ chịu được tới chừng đó, bác Ralph à. Lạy Chúa, hơn ai hết cháu hiểu điều đó. Izzy là một cô gái hạnh phúc, bình thường trước khi dính đến cháu. Những chuyện này hẳn đã không xảy ra nếu cô ấy không phải ra Janus. Cô ấy cứ nghĩ Janus là thiên đường. Cô ấy không biết cái gì đang chờ mình. Đáng ra cháu đừng bao giờ để cô ấy ra đảo.”
“Isabel đâu phải là đứa bé.”
Anh nhìn người hoa tiêu, lựa chọn những lời tiếp theo. “Ralph à, cháu đáng phải bị như vậy. Cuối cùng phải đền tội.” Anh thở dài, nhìn lên mạng nhện nơi góc nhà giam, mấy con ruồi dính lơ lửng trên đó như mấy món đồ trang trí Giáng Sinh bị bỏ quên. “Đáng ra cháu đã chết từ nhiều năm trước. Có Chúa mới biết, cháu đã tránh đạn, tránh lưỡi lê cả hàng trăm lần. Cháu đang sống nhờ đời của người khác.” Anh nuốt khan. “Izzy không có Lucy đã đủ khổ rồi. Cô ấy sẽ không chịu được... Ralph, đây là điều duy nhất cháu có thể làm cho cô ấy. Cháu chỉ có thể bù đắp đến vậy thôi.”
***
“Không đúng mà.” Đứa nhỏ cứ lặp đi lặp lại mấy từ đó, không phải bằng giọng rên rỉ mà như đang cầu viện đến lý lẽ. Gương mặt nó giống với một người đang cố nói tiếng Anh với người ngoại quốc. “Không đúng mà. Con muốn đi về nhà.”
Đôi khi Hannah cũng dỗ được con bé khoảng vài tiếng. Làm bánh với nó. Cắt búp bê giấy. Bỏ vụn bánh mì cho đám chim hồng tước, đợi mấy con chim nhỏ xinh đến ngay cửa, nhảy nhót loạn xạ bằng những đôi chân mảnh như sợi thép, mổ liên tục xuống những mẩu bánh mì thiu. Grace cứ nhìn chúng mê mẩn.
Sau khi cô thấy gương mặt Grace vui hẳn lên lúc tình cờ nhìn thấy con mèo mướp trên đường, Hannah đi hỏi quanh thị trấn xem nhà ai có mèo con. Rồi một con mèo đen bé xíu, chỉ có mặt và chân trắng được mang về nhà.
Grace tỏ ra quan tâm, nhưng ngờ vực. “Của con đó, là của con thật đó,” Hannah nói, khẽ đặt con mèo vào tay Grace. “Giờ đây con phải chăm sóc cho cậu bé này nhé. Con nghĩ nên đặt tên gì cho cậu ấy?”
“Lucy,” đứa trẻ đáp, không chút chần chừ.
Hannah cãi lại. “Mẹ nghĩ Lucy là tên bé gái, không phải tên mèo,” cô gợi ý, “mèo thì phải tên gì nhỉ?”
Vậy là Grace nói ra cái tên mèo duy nhất mà nó biết. “Tabatha Tabby.”
“Vậy thì đặt là Tabatha Tabby,” Hannah đáp, cố không sửa lại rằng cái tên không hợp vì con mèo không phải là mèo mướp[1], lại không phải là mèo cái. Thôi thì con bé cũng chịu nói.
[1] Tabby trong tiếng anh nghĩa là mèo mướp (ND)
Ngày hôm sau khi Hannah rủ, “Giờ cho nó ăn nhé?”, Grace trả lời, tay vân vê lọn tóc, “Nó không thích cô. Nó chỉ thích con thôi.”
Không hề ác ý gì. Chỉ giải thích một sự thật.
***
“Có lẽ chị nên để con bé gặp Isabel Sherbourne,” Gwen gợi ý sau một trận chiến nữa giữa mẹ và con chỉ vì chuyện mang giày.
Hannah kinh hãi thốt lên. “Gwen!”
“Em biết chị không muốn nghe chuyện đó. Nhưng em nghĩ rằng chị là bạn của nó thì sẽ đỡ hơn.”
“Bạn của mẹ nó! Làm sao em nói vậy được! Hơn nữa, em biết bác sĩ Sumpton đã nói gì rồi. Nó càng sớm quên cô ta đi càng tốt!”
Nhưng Hannah không thể phủ nhận rằng con gái cô đã ghi dấu sâu sắc hai người cha mẹ đó, cuộc đời đó. Khi họ đi dạo trên bãi biển, Grace vùng chạy về phía nước. Hàng đêm, trong khi những đứa trẻ chỉ cần chỉ ra được mặt trăng, Grace có thể chỉ đến ngôi sao sáng nhất trên trời rồi gọi, “Sao Thiên Lang! Và dải Ngân Hà,” giọng vô cùng tự tin, khiến Hannah thấy lo lắng, lập tức vội vả kéo nó vào nhà, “Đến giờ ngủ rồi. Đi vào thôi.”
Hannah cầu Chúa cho mình hết hận thù, hét căm ghét, “Lạy Chúa, con đã được ban phước cho con gái trở về, Xin Chúa chỉ đường cho con đi.” Nhưng ngay lập tác cô lại hình dung ra Frank, bị ném xuống huyệt mộ không hề đánh dấu trong tấm vải bạt. Cô nhớ lại vẻ mặt anh khi lần đầu tiên ôm đứa con gái trong tay, cứ như cô vừa mang đến cho anh cả đất trời gói gọn trong tấm chăn hồng đó.
Đâu còn là chuyện của cô nữa. Tom phải được xử theo luật. Nếu tòa quyết rằng anh ta phải đi tù, thì mắt đền mắt, Kinh thánh đã dạy. Cô chỉ để công lý lên tiếng. Nhưng rồi cô nhớ lại người đàn ông đã đến cứu cô khỏi nỗi kinh hoàng đó, trên chuyến tàu nhiều năm trước. Cô nhớ lại mình đã yên lòng biết bao khi anh ta xuất hiện. Sự oái ăm đó giờ đây lại khiến cô thấy khó thở. Làm sao biết được lòng dạ con người? Cô từng thấy anh ta dằn mặt tên say rượu ra sao. Hay anh ta cho rằng mình đứng trên cả luật? Nhưng cô nghĩ đến hai lá thư và dòng chữ viết tay đẹp đẽ: “Hãy cầu nguyện cho tôi”. Vậy là cô trở lại cầu nguyện, cô cầu nguyện cho cả Tom Sherbourne: rằng anh ta sẽ được xử công bằng, mặc dù phần nào đó trong cô vẫn muốn anh ta phải trả giá cho những việc đã làm.
***
Chiều hôm sau Gwen khoác tay cha, hai người đi dạo trên bái cỏ. “Con nhớ nơi này lắm, cha biết không,” cô nói, quay đầu nhìn tòa nhà bằng đá vôi hoành tráng phía sau.
“Nó cũng nhớ con lắm, Gwenny à,” cha cô đáp. Vài bước sau, ông nói, “Giờ đây Grace đã về với Hannah rồi, có lẽ cũng tới lúc con về với cha...”
Gwen mím môi. “Con muốn vậy lắm. Con thực muốn vậy. Nhưng...”
“Nhưng gì kia?”
“Con nghĩ Hannah vẫn chưa tự xoay xở được.” Cô bước ra, nhìn cha. “Con không muốn nói điều này chút nào, cha à, nhưng con nghĩ Hannah sẽ không bao giờ chịu được. Còn con bé tội nghiệp nữa! Con chưa thấy đứa trẻ con nào khổ tới vậy.”
Septimus chạm lên má con gái. “Cha biết một cô bé ngày xưa cũng khổ như vậy. Làm cha đau lắm, con đó. Hàng tháng trời sau khi mẹ con qua đời.” Ông dừng lại, ngửi một đóa hồng nở đã lâu, không còn căng mịn tươi tắn nữa. Ông hít một hơi thật sâu rồi đặt tay ra sau lưng, đứng thẳng lại.
“Nhưng buồn là ở chỗ đó,” Gwen khăng khăng. “Mẹ của con bé đã chết đâu. Cô ta ở ngay Partageuse.”
“Đúng vậy. Hannah ở ngay đây, ở Partageuse!”
Gwen biết rõ cha mình, biết đủ để không cãi nữa. Họ tiếp tục đi bộ trong im lặng. Septimus ngắm các bồn hoa, Gwen cố gắng không nhớ đến tiếng khóc vật vã của đứa cháu gái, cứ hằn in trong tâm trí cô.
Đêm đó, Septimus nghĩ thật lâu. Ông cũng biết đôi chút về những bé gái mất mẹ. Ông còn biết cách thuyết phục người khác. Khi đã quyết xong việc sẽ làm, ông gật gù chìm vào giấc ngủ, không mộng mị.
***
Sáng hôm sau ông lái xe đến nhà Hannah, tuyên bố ngay. “Được rồi. Sẵn sàng chưa? Hôm nay mình sẽ đi phiêu lưu một chuyến. Grace cũng phải tập quen với Partageuse, để biết quê quán chứ.”
“Nhưng con vẫn còn đang vá rèm cửa. Cho nhà thờ. Con hứa với Cha Norkells...”
“Cha sẽ đưa con bé đi. Không sao đâu.”
Chuyến “phiêu lưu” bắt đầu ở xưởng cưa gỗ của nhà Potts. Septimus còn nhớ lúc còn nhỏ Hannah và Gwen rất thích cho mấy con ngựa giống Clydedales ăn táo và đường viên. Giờ đây người ta vận chuyển gỗ bằng xe lửa nhưng xưởng cưa vẫn giữa lại vài con ngựa kéo, phòng khi mưa cuốn trôi mấy đoạn đường xe lửa trong rừng.
Septimus đập tay lên một con ngựa, “Con này, Grace à, tên là Arabella. Con nói ‘Arabella’ được không?”
“Cột xe vào đi chú em,” Septimus nói với tay nài ngựa, anh ta làm ngay. Chỉ một lát sau anh nài ngựa dẫn Arabella vào sân, kéo theo một chiếc xe nhỏ.
Septimus đặt Grace lên ghế rồi leo lên ngồi cạnh con bé. “Đi một vòng chơi, Grace nhỉ?” ông nói, giật cương con ngựa già.
Grace chưa bao giờ thấy con ngựa lớn như vậy. Nó cũng chưa bao giờ được đi vào một khu rừng thật sự – lần gần nhất là cuộc phiêu lưu đứng tim trong khu rừng cây thấp đằng sau ngôi nhà của ông bà Graymarks. Từ trước giờ nó hầu như chỉ biết hai cây thông Norfolk trên đảo Janus. Septimus đi theo lối chở gỗ cũ, qua những tán cây bạch đàn karri, thi thoảng lại chỉ cho con bé chuột túi kangaroo, rồi cả con nhông ở đây đó. Đứa bé như hút vào thế giới thần tiên đó. Đôi lúc nó chỉ một con chim hay chuột túi wallaby, rồi nói. “Con gì vậy?” Và người ông sẽ nói tên con vật đó ngay.
“Nhìn kìa, kangaroo con,” nó nói, chỉ tay về phía một con vật có túi đang chậm chạp nhảy gần lối đi.
“Không phải đâu Grace à. Con đó là chuột túi quokka. Giống kangaroo vậy nhưng bé xíu. Nó chỉ lớn được tới chừng đó thôi.” Ông xoa đầu con bé. “Thấy con cười ông mừng quá. Ông biết con buồn lắm... Con nhớ cuộc sống trước đây.” Septimus ngẫm nghĩ một lúc. “Ông biết mà, vì khi nhỏ ông cũng như con vậy.”
Vẻ mặt đứa bé bối rối, không hiểu. Septimus nói tiếp. “Ông phải tạm biệt mẹ của ông, phải vượt biển, đi tàu tới Fremantle. Khi đó ông chỉ lớn hơn con một chút thôi. Khó hình dung quá phải không con. Nhưng ông tới đây rồi có cha mẹ mới, tên là Walt và Sarah. Từ đó cha mẹ chăm sóc ông. Cha mẹ thương ông như mẹ Hannah thương con vậy. Nhiều khi trong đời mình đâu chỉ có một gia đình.”
Nhìn mặt Grace ông không thể biết nó nghĩ gì về câu chuyện vừa rồi, vậy là Septimus đổi hướng. Con ngựa thong thả bước đi, thi thoảng ánh mặt trời chiếu loang lổ qua những cành cây cao. “Con thích cây cối không?”
Grace gật đầu.
Septimus chỉ mấy cây non. “Con thấy không, cây non đó, đang lớn. Mình đốn cây già đi, mấy cây mới này lại thế chỗ. Mọi thứ đều mọc trở lại, nếu ta kiên nhẫn. Khi nào con bằng tuổi ông, cái cây kia sẽ như người khổng lồ. Sẽ có ích.” Một ý nghĩ chợt đến. “Một ngày nào đó khu rừng này sẽ là của con. Của riêng con.”
“Của riêng con?”
“Hiện giờ nó là của ông, một ngày nào đó sẽ là của mẹ con và dì Gwen, rồi sẽ là của con. Con thấy sao?”
“Cho con giựt dây con ngựa được không?”, con bé hỏi.
Septimus bật cười. “Đưa tay đây cho ông rồi mình cùng giữ cương”.
“Con bé về rồi đây rồi, không sao hết,” Septimus nói, trả Grace lại cho Hannah.
“Cảm ơn cha.” Cô cúi xuống hỏi con bé. “Con đi chơi vui không?”
Grace gật đầu.
“Con có được vỗ lên ngựa không?”
“Có.” con bé khẽ nói, lấy tay dụi mắt.
“Mệt rồi hả cưng? Giờ đi tắm rồi đi ngủ.”
“Ông nói cho con cả khu rừng,” Grace nói, nụ cười thoáng qua. Hannah nghe tim mình lỡ một nhịp.
Tối hôm đó khi đã tắm cho Grace xong, Hannah ngồi trên giường con bé. “Hôm nay con đi chơi vui, mẹ mừng quá. Kể mẹ nghe con thấy gì đi. “
“Chuột túi quotta.”
“Gì hả con?”
“Con quotta nhỏ biết nhảy.”
“A, chuột túi quokka! Tụi nó dễ thương quá phải không con. Còn gì nữa?”
“Một con ngựa to. Con lái nó đi.”
“Con nhớ nó tên gì không?”
Đứa bé suy nghĩ một lúc. “Arabella.”
“Arabella, đúng rồi. Nó đáng yêu lắm. Nó có nhiều bạn ở đó – Samson này, Hercules này, cả Diana nữa. Arabella cùng khá già rồi, con biết không. Nhưng mà vẫn còn mạnh lắm. ông có cho con xem xe chở gỗ mà nó kéo không?”
Đứa bé trông bối rối. Hannah giải thích, “Mấy chiếc xe lớn đó, chỉ có hai bánh lớn thôi. Ngày trước người ta dùng xe như vậy để chở gỗ đã đốn ra khỏi rừng”. Đứa bé lắc đầu, Hannah nói tiếp, “Cưng của mẹ, mẹ muốn dẫn con đi xem thật nhiều. Con sẽ rất thích khu rừng đó. Mẹ hứa đó”.
Khi Grace chìm vào trong giấc ngủ, Hannah ngồi cạnh nó, lên kế hoạch. Cô sẽ dẫn nó đi xem đồng hoa dại khi mùa xuân đến. Cô sẽ mua cho nó một con ngựa nhỏ – ngựa lùn Shetland chẳng hạn, để hai mẹ con có thể cùng cưỡi qua mấy con đường mòn hẹp trong rừng. Viễn cảnh của hàng chục năm tới mở ra trong trí tưởng tượng của Hannah, cô dám nghĩ tới những điều xa xôi. “Mừng con đã về nhà”, cô thì thầm với con gái đang ngủ, “Mừng con cuối cùng đã về nhà, con yêu của mẹ”. Rồi cô đi làm nốt việc nhà tối hôm đó, vừa làm vừa khe khẽ hát.
Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương -  M. L. Stedman Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương