Nguyên tác: Peste Et Choléra
Số lần đọc/download: 1280 / 46
Cập nhật: 2017-05-20 08:52:16 +0700
Cuộc Đời Đích Thực
C
ũng như tất cả chúng ta, Yersin kiếm tìm hạnh phúc.
Chỉ có điều, ông đã tìm được.
Sau Bombay, thế là hết. Cầu cho cả đám y khoa mắc dịch hạch. Ở tuổi ba lăm, Yersin muốn hưởng thụ đặc quyền được rút khỏi chính trị và lịch sử. Anh chọn sự cô độc, thuận tiện cho thi ca và nghiên cứu khoa học. Anh đang ở độ tráng niên. Chòm râu đen và cặp mắt xanh. Rốt cuộc, đi biền biệt cũng không hẳn là sống. Giờ đây chính những dịch chuyển không ngừng lại làm anh mệt mỏi. Anh đã dùng đủ liều. Cái đó bắt đầu làm anh bực bội. Anh biết đến thiên đường, Nha Trang, và không muốn rời khỏi nó nữa, làm cho nó đẹp thêm, lập ra một Viện Pasteur ở đây, và dứt điểm với công việc chắp vá thủ công từng khiến Pesas mất mạng.
Ngồi trong phòng làm việc trên một chiếc ghế mây, trước mặt là đống tạp chí khoa học, Yersin nghiên cứu kiến trúc và biến mình thành nhà xây dựng. Anh bỏ căn nhà gỗ ở Xóm Cồn, vẽ một ngôi nhà hình lập phương bằng gạch cao ba tầng, chạy vòng quanh là một hành lang bán lộ thiên dưới những mái vòm rộng hai mét. Dưới là bếp, trên tầng là phòng ngủ, tầng cao nhất có phòng làm việc và thư viện đầy chặt các tạp chí khoa học. Từ trên cao có thể nhìn bao quát vẻ đẹp chói lòa, những thuyền câu tối tối lại xuôi theo dòng sông, ra khơi, những ngọn đèn treo trên các cây sào. Lúc bình minh, gió mang chúng về. Tôm cá trút đầy lên bãi biển, ngay gần công trường nơi những người thợ mộc đang ghép bè mới. Hương hoa và mùi đất sau cơn mưa rào thoảng lên đến tận phòng làm việc, nơi giờ đây Yersin đang vẽ những ngôi nhà cho các bác sĩ thú y và cánh nhân viên phòng thí nghiệm, tường quét vôi và gỗ ốp tường màu xanh lục tươi, ngói nâu và các hàng hiên, theo phong cách những tòa biệt thự ven biển vùng Normandie mà anh từng thấy ở Cabourg.
Nằm xa bờ biển, Viện Pasteur được xây lên, dài năm mươi mét, rộng mười mét, ở đó sẽ đặt các phòng thí nghiệm, các phòng để chích máu lũ vật, ngay sát là các dãy chuồng trại, bò và ngựa đang được tiêm phòng để miễn nhiễm với nhiều loại bệnh dịch. Dự án có được sự hỗ trợ của bạn anh, Paul Doumer, vẫn đang là toàn quyền, đứa con mồ côi ở Aurillac, người lập ra Đà Lạt. Yersin thuê nhân công và mã phu, đẩy mạnh chăn nuôi và nông nghiệp để nuôi gia súc. “Con đang xây một cái cối xay gió để lấy nước.”
Ngồi trong phòng làm việc trên một chiếc ghế mây, trước mặt là đống tạp chí khoa học, Yersin nghiên cứu vật lý, cơ học, điện. Anh đặt một cái tủ sấy và một lò đốt, một tủ làm nước đá chạy khí ga mác Pictet, từ Paris, do tàu của Hãng Đường biển chuyển tới. Một máy bơm nước và một tuốcbin sẽ cấp điện cho Viện và cả làng chài. Anh tìm cách giảm chi phí bằng tự mình vào việc, và đó cũng là những cái diều của anh nữa: “Phần này của vật lý vẫn luôn thu hút con, và con có hiểu biết khá đủ, để tự mình có thể lắp đặt mà chẳng cần nhờ đến một kỹ sư điện chuyên môn.” Anh đặt nhà sản xuất Serpollet một chiếc ôtô theo mô hình chạy bằng hơi nước đầu tiên của ông ta, một chiếc Serpollet 5 mã lực vận tốc có thể đạt hai lăm cây số một giờ.
Yersin là đấng sáng thế của một giấc mơ thức mà anh đang biến thành hiện thực. Sắp tới, anh mua được ở Suối Giao, giờ là Suối Dầu, một mành đất rộng 500 hécta. Khi ấy nơi đó là một bãi hoang vu toàn bụi rậm nằm cách bờ biển chừng hai chục cây số. Một dòng sông hợp lưu với con sông chảy vào Biển Đông ở đoạn ngay trước nhà anh, bởi vậy có thể đến đó bằng xuồng tam bản. Họ khai hoang, làm đất chăn thà và trồng ngũ cốc. Yersin tạo ra một tiểu hành tinh tự cung tự cấp, một hoán dụ của thế giới, một con tàu cứu rỗi, một Vườn Địa đàng không chứa chấp những con virút bị đày xuống địa ngục. Họ làm cỏ để dọn sạch các đầm lầy. Sắp tới sẽ có hàng trăm con bò, trâu, ngựa, bò cái, ba trăm cừu và cũng ngần ấy dê. Bọn thú được chia ra sống trong các khu biệt lập, mỗi khu chừng 50 con, được bảo vệ khỏi thú dữ và vi khuẩn bởi một vành đai hai lớp được canh giữ.
Sứ mệnh mới mà anh trao cho mình là sứ mệnh của nhà bác học tối cao, số nhân của tiến bộ. Vây quanh anh là những đứa con trai dân chài đã trở thành môn đệ Pasteur, cùng cánh Pasteur từ Paris và từ Sài Gòn đến. Trong các phòng thí nghiệm, họ tiến hành nghiên cứu về sài đẹn, uốn ván, than, bệnh lở miệng, trực khuẩn que. Yersin đặt mua từ Thụy Sĩ nhiều thùng chuông, được chuyển đến qua đường Marseille. “Kể từ khi lũ bò cái được đeo chuông, hổ đỡ vồ hẳn, nó có vẻ chuyển sang săn đuổi lũ ngựa của bọn con.” Và rồi cứ thế, thật nhẹ nhàng, người ta chuyển thế kỷ.
Bước vào thế kỷ 20, người ta vẫn còn chưa biết đó sẽ là thế kỷ tệ hại nhất với những man rợ vô chừng, nó đến sau thế kỷ của những giác mơ về một sự tiến bộ vô chừng. Tuy nhiên, nó được khai trương ồn ào. Đó là Thời kỳ Tươi đẹp (La Belle Époque: là một thời kì kéo dài từ cuối thế kỷ 19 đến đầu Thế chiến thứ nhất (1914) khi châu Âu rất phát triển về kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa. Thuật ngữ này xuất hiện sau Thế chiến thứ nhất. Trong từ “tươi đẹp”, phải hiểu là có một phần thực tế (phát triển, vô lo âu, có niềm tin vào khoa học)), vẫn còn nguyên đây sự lạc quan của khoa học kỹ thuật và của bệnh tật bị trừ tiệt, những đợt tiêm vắcxin phòng và chữa bệnh.
Ngồi trong phòng làm việc trên một chiếc ghế mây, trước mặt là đống tạp chí khoa học, Yersin nghiên cứu nông học và hóa học. Anh tiến hành các thử nghiệm nhằm dùng lúa thay cho lúa mì làm thức ăn cho ngựa, làm ruộng bậc thang trên các ngọn đồi để vô hiệu hóa hoặc tận dụng các đới khí hậu. Sau thất bại với loại Arabica, họ trồng hai nghìn cây cà phê Liberia, các loại cây thuốc, trong số đó có một nghìn gốc Erỵthroxylum coca để làm cocain khi ấy vẫn được sử dụng trong ngành dược.
Sau sự lạnh lùng xảy ra bên Ấn Độ tiếp nối những thất thường về tính khí của anh, mối quan hệ với Paris đã được hâm nóng. “Calmette thân mến, thật không thể tin nổi nhưng lại đúng thế đấy: tôi đã nhận được một bức thư của Roux từ Ceyzérieu! Thật là một may mắn lớn đối với tôi, vì khi ông bạn Roux quyết định cầm bút thì luôn là để viết ra những điều thú vị.” Anh sang Paris. “Con đã tính đi tàu xuyên Siberia, nhưng con sợ lúc ấy trời vẫn còn quá lạnh.” Cày xới đất đai và bãi chăn thả không thuộc sứ mệnh hàng đầu của Viện Pasteur, cũng không phải hai nguồn sống của nó. Họ lập một hãng tư mang tên “Các ngài Yersin, Roux & Calmette”.
Với độ lùi thời gian, những trao đổi giữa họ sau khi anh quay về đôi khi giống như bản kê những cú điện thoại của một tập đoàn doanh nghiệp. Roux viết cho Yersin. “Sau khi anh đi, điều đầu tiên Bertrand làm là tìm a-xít tung-x-tích. Ông ấy tìm được nó bên Anh và chúng tôi đã đặt một tấn với cái giá rất tuyệt là sáu nghìn năm trăm franc. Không thể mua được rẻ hơn. Từ Hambourg, nó sẽ được gửi sang Sài Gòn. Axít sunfuric sẽ đi từ Marseille, cũng như silicat. Anh có thể thấy rằng chúng tôi đã vô cùng mạo hiểm. Cũng không thể nói được rằng trong hoàn cảnh như hiện nay cocain mang lại nhiều lợi nhuận. Nhất là khi một đối thủ cạnh tranh rất đáng gờm vừa xuất hiện trên thị trường, dưới hình thức một chất mới được làm từ phương pháp tổng hợp, stoviane, một thứ gây mê ít độc hại hơn cocain và nếu dùng gấp đôi liều lượng thì cũng có hoạt tính tương đương.” Một bức thư thật lạ, nó đã không cho biết người sáng chế ra stovaine, vài tháng trước bức thư này, cũng là một người trong nhóm Pasteur thuộc Viện, Ernest Fourneau, cũng là nhà hóa học giống như Pasteur.
Yersin đẩy mạnh sản xuất và tạo ra một chất cô lỏng, lẽ ra với nó anh đã có thể trở thành tỉ phú vì sáng chế ra một loại nước màu đen sủi bọt, nếu anh đăng ký bản quyền. Anh đặt cho nó cái tên Kola-Cannelle, có thề viết tắt lại thành Ko-Ca. Anh viết cho Roux từ Nha Trang. “Tôi đã gửi cho anh theo đường bưu kiện một chai Kola-Cannelle. Hãy lấy khoảng một xăngtimét khối rưỡi cho vào một cốc nước đường rồi uống lúc nào anh cảm thấy mệt. Tôi hy vọng ‘thuốc trường sinh’ này cũng tạo cho anh cảm giác hưng phấn giống như nó đã tạo ra cho tôi.”
Yersinia coca.
Họ cũng trồng cây thuốc lá, cũng sắp bị cấm, cùng sắn, ít bị đe dọa hơn. Tuy nhiên họ cũng vấp phải nhiều thất bại, chúng được Yersin viết lại vào một quyển sổ: vani, nhục đậu khấu, cây két và ngô trồng mãi vẫn chưa thấy lên. Cả khu gồm có một cộng đồng nông nghiệp và khoa học, một trạm xá cho dân làng. Tối tối, Yersin đóng sổ và tạp chí lại, nghĩ đến tương lai vương quốc yên bình và thịnh vượng của mình, lo trời sẽ mưa.
Anh biết là cánh đống hút nước ghê gớm khi có mưa rào.
Người ta nghĩ đến nhân vật chính trong tiểu thuyết Vàng của Cendrars, người đồng hương Thụy Sĩ của anh, tướng Sutter tại vương quốc của ông bên California. Đêm đến, khi Yersin buồn chán, anh vẽ sơ đồ một tháp nước. Và hôm sau, anh bắt tay vào dựng một tháp nước. Trong vòng bốn mươi năm, anh sẽ chọn ở mỗi nơi trên thế giới những gì đẹp nhất của thiên nhiên để đưa về Nha Trang, thảo mộc và thú vật, cây gỗ và hoa. Khi ấy các khoản thu nhập còn chưa bắt nguồn từ nông nghiệp. Những hoạt động đồn điền này hao tốn kinh khủng. Cũng không khác gì Pasteur với bệnh dại, Yersin vẫn chưa đăng ký sáng chế cho vắcxin của mình. Như các tu sĩ, những người đảm bảo nhu cầu cuộc sống vật chất của mình bằng cách chế ra một thứ rượu mùi, rượu chartreuse hay gentiane, ở đây huyết thanh chống dịch hạch ở bò cho phép họ có nguồn thu nhập vừa đủ để sống. Họ mau chóng bán được mười nghìn liều mỗi tháng cho đàn chăn nuôi.
Lâu lâu, Yersin lại gửi một bài viết cho Biên niên của Viện Pasteur, nhan đề bài lúc nào cũng rất ngắn gọn. Nghiên cứu về một số dịch bệnh động vật ở Đông Dương. Như một nhà thơ phái Thi Sơn đã rút lui nhưng vẫn gửi vài bài thơ cho các tạp chí. Ở Pháp, thơ hiện đại chủ nghĩa đã thế chỗ thơ alexandrin. Yersin không biết Apollinaire và Cendrars, cũng không biết những bài thơ của ông hình tháp Eiffel cao như các vì thiên thể. Anh không biết rằng ở Montparnasse không xa Viện là bao, Rivera và Soutine, Modigliani và Picasso sẽ sống gần nhau. Tất tật những thứ tầm phào hội họa văn chương, anh đều không biết tới, Yersin ấy. Anh tự nhốt mình ở Nha Trang, mắt chăm chú vào kính hiển vi, hoặc giả, cây gậy trên tay, anh rảo bước trên những đống cỏ.
Cũng như tất cả chúng ta, Yersin tìm cách biến đời mình thành một tổng thể đẹp và hài hòa.
Chỉ trừ một điều, ông làm được việc dó.