Tôi luôn cố gắng làm những gì tôi chưa biết và nhờ đó, tôi có thể làm được những điều tưởng như ngoài khả năng của mình.

Pablo Picasso

 
 
 
 
 
Tác giả: Kathryn Stockett
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Help
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 37
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3240 / 157
Cập nhật: 2015-07-29 11:17:31 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 28
ác máy xong, tôi đi ra đứng ngoài hiên nhà và trân mắt nhìn cảnh vật mùa đông. Tôi mệt rã rời, đến mức còn không nhận thấy xe của bác sỹ Neal đang đỗ trước nhà. Chắc ông ấy đã đến lúc tôi còn ở bưu điện. Tôi tì người lên lan can và chờ ông ra khỏi phòng mẹ. Cuối hành lang, qua cánh cửa trước rộng mở, tôi thấy cửa phòng mẹ đang đóng kín.
Một lát sau, bác sỹ Neal nhẹ nhàng đóng cửa lại sau lưng và bước ra ngoài hiên. Ông đứng bên cạnh tôi.
“Ta vừa cho mẹ cháu ít thuốc để làm dịu cơn đau,” ông nói.
“Cơn... đau ạ? Sáng nay mẹ cháu có bị nôn không ạ?”
Bác sỹ Neal già xọm nhìn tôi đăm đăm qua đôi mắt xanh mờ đục. Ông nhìn tôi rất lâu và trân trối, như đang cố gắng quyết định điều gì đó liên quan đến tôi. “Mẹ cháu bị ung thư, Eugenia ạ. Ở thành dạ dày.”
Tôi lẩy bẩy lần tường để vịn. Tôi sốc lắm, nhưng chẳng phải tôi đã biết điều đó từ trước rồi còn gì?
“Bà ấy không muốn cho cháu biết.” Ồng lắc đầu. “Nhưng vì bà ấy không chịu nhập viện, nên cháu cần phải biết. Mấy tháng tới sẽ... rất khó khăn.” Ông nhướng chân mày nhìn tôi. “Đối với bà ấy và cả với cháu nữa.”
“Mấy tháng? Chỉ... còn ngần ấy thôi ư?” Tôi đưa tay bịt chặt miệng và nghe thấy chính mình rên rỉ.
“Có khi lâu hơn, hoặc nhanh hơn, con ạ.” Ông lắc đầu. “Nhưng với tính tình mẹ cháu như thế,” ông đưa mắt liếc về phía ngôi nhà, “bà ấy nhất định sẽ chiến đấu quyết liệt đến hơi thở cuối cùng
Tôi đứng đó trong nỗi bàng hoàng, không nói nên lời.
“Cần thì gọi ngay cho bác nhé, Eugenia. Ở văn phòng hay ở nhà cũng được.”
Tôi bước vào nhà, trở lại phòng mẹ. Bố đang ngồi trên chiếc ghế tràng kỷ nhỏ kê cạnh giường, đôi mắt nhìn mông lung. Mẹ ngồi dựng thẳng lưng. Nhìn thấy tôi, mẹ đảo mắt.
“Chắc ông ấy nói cho con biết rồi nhỉ,” mẹ nói.
Nước mắt chảy dài xuống cằm tôi. Tôi cầm tay mẹ.
“Mẹ biết từ lúc nào?”
“Chừng hai tháng.”
“Ôi, mẹ.”
“Thôi nào, Eugenia. Tránh làm sao được hả con.”
“Nhưng liệu con có thể... con không thể ngồi đây nhìn mẹ...” Tôi thậm chí không nói nên lời. Mọi từ ngữ đều quá khủng khiếp.
“Dĩ nhiên con không thể ngồi đây được rồi. Carlton sắp trở thành luật sư còn con...” Mẹ dí ngón tay lúc lắc trước mặt tôi. “Đừng tưởng sau khi mẹ đi rồi, con muốn quăng quật cái thân mình thế nào cũng xong. Chỉ cần vào được đến bếp, mẹ sẽ gọi ngay đến tiệm Fanny Mae để lên lịch hẹn làm tóc cho con tới hết năm 1975.”
Tôi ngồi phịch xuống tràng kỷ và bố vòng tay ôm tôi. Tôi gục đầu vào vai bố khóc nức nở.
Cây thông Noel Jameso trồng tuần trước đã khô nỏ khô nang và buông những chiếc lá kim tả tơi mỗi lần có người bước vào phòng nghỉ. Còn sáu ngày nữa mới tới Giáng sinh, nhưng chẳng ai buồn tưới nước cho nó. Mấy món quà lèo tèo mẹ đã mua và gói ghém từ hồi tháng Bảy nằm chỏng chơ dưới gốc cây, một gói cho bố, hiển nhiên là một chiếc cà vạt để đi lễ nhà thờ, một gói nho nhỏ vuông vuông cho Carlton, một hộp nặng trĩu cho tôi, tôi ngờ đó dễ là một quyển Kinh Thánh mới. Giờ đây khi mọi người đều đã biết về bệnh ung thư của mẹ, dường như mẹ đã buông tay khỏi vài mối chỉ ít ỏi giúp giữ mẹ đứng thẳng. Những sợi dây rối đã đứt, và ngay cả đầu mẹ nom cũng lỏng lẻo trên cổ. Cố gắng lắm mẹ cũng chỉ gượng dậy để vào phòng vệ sinh hoặc ngồi ngoài hiên chừng vài phút
Buổi chiều, tôi mang thư đến cho mẹ, tạp chí Good Housekeeping, báo của nhà thờ, bản cập nhật tin tức DAR.
“Mẹ thấy trong người thế nào?” Tôi vuốt tóc mẹ ra sau gáy và mẹ nhắm mắt lại như muốn tận hưởng cảm giác ấy. Giờ mẹ là con, còn tôi là mẹ.
“Mẹ ổn.”
Pascagoula bước vào. Cô đặt khay nước dùng xuống bàn. Mẹ hầu như không lắc nổi đầu khi cô đi ra, mắt mẹ nhìn mông lung ra ngưỡng cửa trống tanh.
“Ôi, không,” mẹ nói, mặt nhăn nhó. “Mẹ không ăn đâu.”
“Mẹ à, mẹ không cần ăn ngay đâu. Để lát nữa cũng được.”
“Với Pascagoula, mọi thứ chẳng được như trước nữa, con nhỉ?” Mẹ nói.
“Không,” tôi nói. “Không giống trước kia.” Đây là lần đầu tiên mẹ nhắc đến Constantine sau cuộc nói chuyện kinh khủng của hai mẹ con.
“Người ta vẫn nói tình yêu đích thực, người giúp việc tốt mà. Cả đời chỉ gặp có một lần thôi.”
Tôi gật đầu, thầm nghĩ mình nên ghi lại câu đó, rồi đưa nó vào cuốn sách. Nhưng, tất nhiên, muộn quá rồi, nó đã được gửi đi. Tôi chẳng thể làm gì khác, tất cả mọi người trong chúng tôi đều không thể làm gì khác, trừ chờ đợi những gì sắp tới.
ĐÊM GIÁNG SINH BUỒN, mưa và nóng. Cứ nửa tiếng một, bố lại ra khỏi phòng mẹ và nhìn ra cửa sổ trước nhà hỏi, “Nó về chưa?” dù chẳng có ai để nghe bố nói. Tối nay anh Carlton sẽ lái xe từ trường luật LSU về, cả hai bố con tôi đều mừng vì sắp được gặp anh ấy. Suốt ngày hôm nay, mẹ không ngừng nôn mửa và thở khan. Mẹ hầu như không mở mắt ra nổi, nhưng cũng chẳng ngủ được.
“Charlotte, chị phải nhập viện thôi,” bác sỹ Neal vừa nói lúc chiều. Tôi không thể nhớ nổi ông ấy đã nói câu này bao nhiêu lần trong suốt tuần vừa qua. “Ít ra chị cũng phải để tôi cho y tá sang đây trông chị chứ.”
“Charles Neal,” mẹ nói, đầu thậm chí chẳng ngóc lên nổi, “tôi không hề có ý định sống nốt những ngày cuối cùng trong bệnh viện, hay biến chính nhà tôi thành một cái bệnh viện.
Bác sỹ Neal chỉ thở dài, rồi đưa cho bố thêm thuốc, một loại mới, và dặn dò cách dùng.
“Nhưng nó có giúp được bà ấy không?” Tôi nghe tiếng bố thì thào ngoài hành lang. “Nó có làm bà ấy khá lên không?”
Bác sỹ Neal đặt tay lên vai bố. “Không, Carlton.”
Sáu giờ tối hôm ấy, cuối cùng anh Carlton cũng dừng xe trước cửa, rồi vào nhà.
“Chào em, Skeeter.” Anh ôm chặt tôi vào lòng. Đầu bù tóc rối sau cuốc xe dài, anh ấy trông thật đẹp trai trong chiếc áo len vặn thùng đồng phục trường. Hơi gió còn vương trên người anh ấy mát rượi. Cảm giác có thêm một người nữa ở đây thật dễ chịu. “Lạy Chúa, sao trong nhà nóng thế?”
“Mẹ lạnh,” tôi khẽ nói, “lúc nào mẹ cũng thấy lạnh.” Tôi cùng anh vào sâu trong nhà. Thấy anh ấy, mẹ ngồi nhỏm dậy, dang đôi cánh tay gầy guộc ra. “Ôi Carlton, con về rồi đấy ư,” mẹ nói.
Carlton đứng sững lại. Rồi anh ấy cúi xuống ôm mẹ, thật nhẹ nhàng. Anh liếc mắt nhìn tôi và tôi thấy vẻ bàng hoàng hiển hiện trên khuôn mặt anh. Tôi chặm miệng lại để khỏi bật khóc, vì không thể dừng được. Nét mặt của Carlton đã cho tôi biết nhiều hơn mức tôi muốn biết.
Khi Stuart ghé qua vào đúng ngày Giáng sinh, tôi không đẩy anh ra khi anh cố hôn tôi. Nhưng tôi nói với anh, “Em chỉ để anh làm thế vì mẹ em sắp chết thôi.”
“EUGENIA,” tôi nghe thấy tiếng mẹ gọi. Giờ là đêm giao thừa và tôi đang đứng trong bếp pha trà. Giáng sinh đã qua, Jameso đã bỏ cái cây đi từ sáng sớm. Lá thông vẫn rải rác khắp nhà, nhưng tôi đã gỡ xong hết đồ trang trí và cất lại vào kho. Đó là một công việc mệt mỏi và bực bội, phải cố gắng gói ghém từng món lắt nhắt theo đúng cách mẹ muốn, để chuẩn bị sẵn sàng cho năm sau. Tôi không cho phép bản thân thắc mắc về sự vô ích của nó.
Tôi vẫn chưa nhận được tin tức gì từ bà Stein, thậm chí còn chẳng biết cuốn sách có đến kịp hạn không. Tối hôm qua, tôi mất hết kiên nhẫn và gọi cho Aibileen để nói tôi chưa nghe được tin tức gì, chỉ vì muốn có cảm giác khuây khỏa khi được nói về nó với một ai đó. “Tôi toàn nghĩ ra thêm những chi tiết mới để đưa vào sách thôi,” Aibileen nói. “Tôi phải tự nhắc mình là ta đã gửi nó đi mất
“Tôi cũng vậy,” tôi nói. “Khi nào biết tin tôi sẽ báo cho vú ngay.”
Tôi vào trong nhà. Mẹ đang ngồi tựa lên mấy chiếc gối. Tác dụng của trọng lực khi ngồi thẳng giúp kéo cơn buồn nôn xuống, chứng tôi vừa mới biết điều đó. Chiếc chậu sứ trắng đật bên cạnh mẹ.
“Mẹ,” tôi nói. “Mẹ có cần con lấy gì cho mẹ không?”
“Eugenia, đừng mặc cái quần thụng đấy đi ăn tiệc năm mới bên nhà Holbrook.” Khi mẹ chớp mắt, mắt mẹ nhắm lại lâu hơn. Mẹ đã kiệt quệ lắm rồi, một cái khung xương trong bộ váy trắng với những dải ruy băng cầu kỳ đến vô lý cùng những đường ren hồ bột cứng đanh. Cổ mẹ bơi giữa đường cổ áo như một con thiên nga bốn mươi cân. Mẹ chỉ ăn được qua ống hút. Mẹ mất hoàn toàn khứu giác. Nhưng mẹ có thể nhìn ra, từ một phòng khác hẳn, rằng áo xống của tôi có vấn đề chỗ nào.
“Bữa tiệc bị hủy rồi mẹ ạ.” Có lẽ mẹ sực nhớ đến bữa tiệc ở nhà Hilly năm ngoái. Theo như Stuart nói với tôi, tất cả các bữa tiệc đều bị hủy do cái chết của Tổng thống. Mà đằng nào tôi cũng sẽ không được mời. Tối nay, Stuart sẽ ghé qua để xem Dick Clark trên tivi.
Mẹ đặt bàn tay xương xẩu, nhỏ xíu lên tay tôi, gầy guộc tới mức từng đốt xương nhô hẳn lên da. Hồi mới lên mười một tuổi tôi đã mặc vừa váy của mẹ.
Mẹ nhìn tôi từ đầu đến chân. “Mẹ nghĩ con nên đưa quần thụng vào danh sách ngay đi.”
“Nhưng mặc cái này thoải mái lắm, lại ấm và...”
Mẹ lắc đầu, nhắm mắt lại. “Mẹ rất tiếc, Skeeter.”
Vậy là không bàn cãi gì nữa. “Vâng,” tôi thở dài.
Mẹ luồn tay dưới tấm trải giường rút ra một cuốn sổ, gài trong chiếc túi kín mẹ đã may vào từng miếng ga, đó là nơi mẹ trữ thuốc chống nôn, khăn giấy. Những danh sách cấm đoán nhỏ xíu. Dù mẹ đã yếu rệu, song tôi vẫn không khỏi sửng sốt bởi những nét bút chắc chắn của mẹ khi mẹ viết vào danh sách “Không Được Mặc”: “Quần màu xám may theo kiểu cách dành cho đàn ông, dáng lụng thụng.” Mẹ mỉm cười hài lòng.
Nghe có vẻ rùng rợn, nhưng khi mẹ nhận ra rằng sau khi mất, mẹ sẽ không thể chỉ bảo tôi nên mặc cái gì được nữa, thế là mẹ nghĩ ra hệ thống răn dạy sau khi chết tài tình kia. Mẹ cho không bao giờ tự ý đi mua những thứ quần áo mới, không thích hợp. Có lẽ mẹ nghĩ đúng.
“Mẹ vẫn chưa bị nôn lần nào à?” Tôi hỏi, vì bây giờ đã là bốn giờ và mẹ đã húp hai bát nước dùng và vẫn chưa buồn nôn một lần nào suốt cả ngày hôm nay. Bình thường cứ đến tầm này mẹ đã phải oẹ ra ít nhất ba lần.
“Chưa một lần nào cả,” mẹ nói nhưng sau đó mẹ nhắm mắt lại và chỉ trong chớp mắt, mẹ đã chìm vào giấc ngủ.
NGÀY ĐẦU TIÊN CỦA NĂM MỚI, tôi xuống nhà nấu món đậu mắt đen để ăn lấy may. Pascagoula đã bỏ đậu ra ngâm từ tối qua, đồng thời hướng dẫn tôi cách cho đậu vào nồi và bật lửa, rồi bỏ chân giò vào ninh cùng. Bất quá đó chỉ là một quy trình hai bước, nhưng xem ra ai cũng lo lắng ra mặt khi thấy tôi động vào bếp núc. Tôi vẫn nhớ hồi xưa Constantine luôn đến vào ngày mồng Một tháng Một và nấu món đậu may mắn cho cả nhà tôi, mặc dù hôm đó là ngày nghỉ của bác. Bác nấu cả một nồi to nhưng sau đó chỉ xúc ra một hạt đậu vào mỗi đĩa rồi mang ra cho từng người trong nhà và theo dõi đến khi chúng tôi ăn hết mới thôi. Lắm lúc bác ấy mê tín lắm. Xong xuôi bác rửa sạch bát đĩa và về nhà. Nhưng Pascagoula không đề nghị đến trong ngày nghỉ, vì nghĩ rằng cô còn có gia đình riêng nên tôi cũng không dám mở lời.
Cả nhà đều buồn vì Carlton phải đi luôn từ sáng nay. Có anh trai ở bên cạnh để nói chuyện thật dễ chịu. Những lời cuối cùng anh ấy dành cho tôi, trước khi ôm tôi và lên đường về trường, là “Đừng đốt trụi cả ngôi nhà.” Rồi anh ấy đế thêm, “Mai anh sẽ gọi xem tình hình mẹ thế nào nhé.”
Sau khi tắt bếp, tôi bước ra ngoài hiên. Bố đang tì lên lan can, mân mê nhúm hạt bông trong tay. Bố đăm đăm nhìn những cánh đồng trống trải sẽ không được gieo trồng gì cho tới sau một tháng nữa.
“Bố ơi, bố vào ăn trưa đi?” Tôi hỏi. “Món đậu sẵn sàng rồi đấy.”
Bố quay lại, nụ cười của bố thật yếu ớt, thiếu lẽ sống.
“Thứ thuốc họ cho mẹ...” Bố săm soi nắm hạt trong tay. “Bố nghĩ nó đang phát huy tác dụng đấy. Mẹ bảo thấy trong người khá lên nhiều.”
Tôi lắc đầu không tin. Ngay cả bố cũng không thực sự tin nổi chuyện này.
“Đã qua hai ngày mà mẹ chỉ bị nôn có
“Ôi, bố. Không... chỉ là... bố, mẹ vẫn còn bệnh.”
Nhưng trong mắt bố chỉ còn lại một khoảng không trống rỗng, tôi tự hỏi không biết bố có nghe thấy tôi nói gì không.
“Skeeter, bố biết con còn nhiều chỗ vui hơn để đi.” Mắt bố ầng ậng nước. “Nhưng chẳng có ngày nào qua mà bố không cảm ơn trời vì đã có con ở nhà với mẹ.”
Tôi gật đầu, trong lòng day dứt vì bố nghĩ đó thực sự là lựa chọn của tôi. Tôi ôm bố, nói, “Con cũng mừng được ở đây, bố ạ.”
KHI CÂU LẠC BỘ MỞ CỬA LẠI vào tuần đầu tiên của tháng Một, tôi mặc váy và xách vợt đi. Tôi bước qua quầy bán đồ ăn nhẹ, phớt lờ Patsy Joiner, cô bạn chơi tennis đã bỏ rơi tôi, cùng ba cô gái khác, tất cả đều đang ngồi hút thuốc lá bên chiếc bàn sắt đen. Họ cúi xuống và xì xào với nhau khi tôi lướt qua. Tôi sẽ bỏ cuộc họp Hội tối nay, và mãi mãi. Tôi đã đầu hàng và gửi một lá thư kèm đơn từ chức từ ba hôm trước.
Tôi vụt bóng vào mặt ván, cố hết sức để không nghĩ đến bất cứ chuyện gì. Gần đây tôi thường bắt gặp chính mình đang cầu nguyện, trong khi tôi chưa bao giờ là một kẻ sùng đạo. Tôi thấy mình lẩm nhẩm những câu dài liên tu bất tận với Chúa, cầu cho mẹ nguôi ngoai cơn bệnh, van nài Chúa đem đến những tin tức tốt lành về cuốn sách, thậm chí đôi khi tôi còn xin ít điềm báo để giúp tôi biết phải làm gì với Stuart. Tôi thường nhận ra mình đang cầu nguyện khi chính tôi cũng không biết mình đang làm việc đó.
Khi tôi rời câu lạc bộ về tới nhà, bác sỹ Neal đỗ xe lại sau xe tôi. Tôi đưa ông vào phòng của mẹ, nơi bố đang chờ sẵn, và họ đóng cánh cửa lại sau lưng. Tôi đứng thơ thẩn ngoài hành lang như một đứa bé con. Tôi hiểu tại sao bố lại níu lấy tia hy vọng này. Đã bốn ngày nay mẹ không nôn ra đờm xanh. Ngày nào mẹ cũng ăn hết phần cháo yến mạch của mình, thậm chí còn xin thêm.
Khi bác sỹ Neal bước ra, bố ngồi lại trên chiếc ghế kê cạnh giường còn tôi theo bác sỹ Neal ra ngoài hiên.
“Mẹ cháu bảo bác chưa ạ?” Tôi hỏi. “Chuyện mẹ cháu thấy trong người khá hơn ấy?”
Ông gật, nhưng rồi lại lắc đầu. “Đưa mẹ cháu đi chụp X - quang cũng chẳng ích gì. Thứ đó quá nặng đối với mẹ cháu.”
“Nhưng...u thế nào? Có phải tình hình của mẹ cháu đang cải thiện không?”
“Eugenia, bác đã từng chứng kiến những trường hợp như thế rồi. Đôi khi người bệnh có một luồng sinh lực rất mạnh mẽ. Đó là một món quà của chúa, bác nghĩ vậy. Nhờ thế họ có thể sống tiếp để hoàn thành những công việc còn dang dở. Nhưng chỉ có vậy thôi, cháu ạ. Đừng kỳ vọng những thứ to tát hơn.”
“Nhưng bác không thấy thần sắc của mẹ cháu sao? Trông bà tươi tắn hơn nhiều, bà còn giữ được thức ăn trong bụng cơ mà...”
Ông lắc đầu. “Cố gắng để mẹ cháu được thoải mái nhé.”
ĐẾN NGÀY THỨ SÁU ĐẦU TIÊN của năm 1964, tôi không thể chờ đợi thêm nữa. Tôi kéo điện thoại vào kho chứa thức ăn. Mẹ đã ngủ, sau khi ăn hết bát cháo yến mạch thứ hai. Cửa phòng mẹ hé mở để tôi có thể nghe thấy tiếng mẹ, phòng khi mẹ gọi.
“Văn phòng của Elaine Stein.”
“Chào chị, tôi là Eugenia Phelan, đang gọi điện đường dài tới đây. Cho phép tôi gặp chị ấy được không ạ?”
“Tôi rất tiếc, thưa cô Phelan, nhưng bà Stein không nhận bất cứ cuộc gọi nào liên quan đến vấn đề tuyển chọn bản thảo.”
“Ồ. Nhưng... xin chị có thể cho tôi biết chị ấy đã nhận được nó chưa ạ? Tôi gửi đi ngay trước hạn chót và...”
“Xin cô chờ một chút.”
Đầu dây bên kia im bặt, và chừng một phút sau cô ta quay lại.
“Tôi có thể xác nhận là chúng tôi đã nhận được bưu phẩm của cô vào một ngày nào đó trong đợt nghỉ lễ. Sẽ có người ở văn phòng thông báo cho cô sau khi bà Stein đưa ra quyết định. Cảm ơn cô đã gọi.”
Tôi nghe thấy điện thoại bên kia dập đánh cạch.
VÀI TỐI SAU, sau một buổi chiều chỉ cắm đầu vào trả lời thư của cô Myrna, Stuart và tôi ngồi trong phòng nghỉ. Tôi mừng vì được gặp anh và rũ bỏ bầu không khí câm lặng chết chóc của ngôi nhà, dù chỉ trong chốc lát. Chúng tôi ngồi lặng lẽ xem tivi. Quảng cáo thuốc lá Tareyton, với cô gái hút thuốc có đôi mắt đen nhánh, cứ ra rả Chúng tôi, dân hút thuốc lá Tareyton, thà chiến đấu còn hơn phải đổi loại thuốc.
Đến nay Stuart và tôi đã gặp nhau mỗi tuần một lần. Chúng tôi đi xem phim một lần sau Giáng sinh và đi ăn tối một lần trong thị trấn, nhưng thường thì anh đến thẳng nhà tôi vì tôi không muốn rời mẹ. Anh khá ngập ngừng khi ở bên tôi, gần như e dè kính trọng. Đôi mắt anh ánh lên vẻ nhẫn nại giúp đẩy lùi nỗi hoảng sợ tôi vẫn giữ đối với anh trước đây. Chúng tôi không nói về thứ gì ghê gớm. Anh kể cho tôi những mẩu chuyện về mùa hè, khi còn đang học đại học, anh đã tham gia tìm vỉa dầu ở Vịnh Mexico. Nước tắm là nước mặn. Biển khơi xanh ngắt như pha lê, nhìn rõ đến tận đáy. Những người khác phải làm công việc nhọc nhằn này để nuôi sống gia đình trong khi Stuart, một thằng nhóc giàu có với bố mẹ giàu có, còn phải về học tiếp đại học. Anh nói, đó là lần đầu tiên anh phải làm việc; vất vả thật sự.
“Anh cũng mừng vì hồi đấy khoan trúng vỉa dầu. Chứ bây giờ thì anh chịu, không đi làm việc đó được,” anh nói, như thể chuyện đã xảy ra cách đây hàng thế kỷ chứ không phải là mới năm năm trước. Dường như anh già hơn mức tôi còn nhớ.
“Sao bây giờ anh lại không làm được?” Tôi hỏi, vì tôi đang tìm kiếm một tương lai cho riêng mình. Tôi thích được nghe về viễn cảnh của những người khác.
Anh nhíu mày nhìn tôi. “Vì anh không thể xa em được.”
Tôi giấu kín nó trong lòng, e ngại không dám thú nhận rằng cảm giác được nghe những lời ấy thật ngọt ngào.
Phần quảng cáo kết thúc và chúng tôi xem bản tin. Có một cuộc giao tranh ở Việt Nam. Có vẻ như gã phát thanh viên cho rằng nó sẽ được giải quyết tương đối nhẹ nhàng.
“Em nghe này,” Stuart cất lời sau một khoảng im lặng giữa hai chúng tôi. “Trước đây anh đã không muốn lôi chuyện này ra nhưng… anh biết mọi người trong thị trấn đang xì xào những gì. Về em. Và anh không quan tâm. Anh chỉ muốn em biết thế.”
Suy nghĩ đầu tiên của tôi là cuốn sách. Anh ấy đã nghe được điều gì đó. Toàn thân tôi căng ra. “Anh nghe nói những gì?”
“Em biết rồi mà. Về vụ em chơi xỏ Hilly ấy.”
Tôi thở phào đôi chút. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với ai về vụ này, trừ chính Hilly. Tôi không biết Hilly đã bao giờ gọi cho anh như cô từng đe dọa
“Anh có thể thấy rõ mọi người nhìn nhận chuyện này thế nào, họ nghĩ em giống một phần tử rồ dại mang tư tưởng tự do, rồi có dính líu đến mấy trò lùm xùm kia.”
Tôi săm soi đôi bàn tay mình, vẫn cảnh giác trước những gì anh ấy có thể nghe được, và cũng ít nhiều giận dữ. “Làm sao anh biết là em có dính líu đến cái gì?” Tôi hỏi.
“Vì anh biết em, Skeeter,” anh dịu dàng nói. “Em quá thông minh để bị lôi kéo vào những chuyện như vậy. Anh cũng bảo họ thế.”
Tôi gật đầu, cố mỉm cười. Bất chấp những gì anh tưởng rằng anh “biết” về tôi, tôi không thể không cảm kích khi vẫn còn một người đủ quan tâm lo lắng để đứng lên bảo vệ tôi.
“Chúng ta không cần nói đến chuyện này thêm một lần nào nữa,” anh nói. “Anh chỉ muốn em biết thế. Vậy thôi.”
TỐI THỨ BẢY, tôi chúc mẹ ngủ ngon. Tôi khoác chiếc áo choàng dài để mẹ không nhìn thấy tôi đang mặc gì. Tôi tắt đèn đi để mẹ không thể bình luận về mái tóc của tôi. Tình hình sức khỏe của mẹ chuyển biến rất ít. Dường như mẹ không yếu đi thêm - những đợt nôn trớ đã chững lại - nhưng da mẹ thì xanh trong xanh lọc. Tóc mẹ cũng lác đác rụng. Tôi cầm tay, vuốt nhẹ lên má mẹ.
“Bố, nếu cần con việc gì, bố cứ gọi đến nhà hàng nhé?”
“Bố sẽ gọi, Skeeter. Con đi vui vẻ nhé.”
Tôi ngồi vào xe của Stuart và anh đưa tôi đến Nhà hàng Robert E. Lee ăn tối. Gian phòng lòe loẹt chói mắt với những váy đầm, hoa hồng đỏ, dao nĩa bạc chạm nhau lanh canh. Bầu không khí tràn ngập niềm phấn khích, cảm giác rằng cuộc sống hầu như đã trở lại bình thường kể từ ngày Tổng thống Kennedy mất; 1964 là một năm tươi mới. Những ánh nhìn lia về phía chúng tôi nhiều không đếm xuể.
“Trông em... khác quá,” Stuart nói. Tôi dám chắc anh đã kìm nén lời bình luận đó trong lòng suốt buổi tối hôm nay, và dường như anh ngỡ ngàng hơn là ấn tượng. “Cái váy này, nó... ngắn quá.”
Tôi gật đầu và gài tóc ra phía sau. Như anh đã từng làm.
Sáng nay, tôi nói với mẹ tôi sắp đi mua sắm. Nhưng trông mẹ nhọc lắm, tôi lập tức đổi ý. “Thôi con không đi
Nhưng tôi đã lỡ nói ra mất rồi. Mẹ bắt tôi đi lấy cho mẹ quyển sổ séc lớn. Khi tôi quay lại, mẹ xé ra một tờ séc trắng, sau đó đưa tôi thêm tờ một trăm đô la mẹ đã gấp lại nhét trong ngăn bên chiếc ví của mình. Dường như chỉ riêng mấy chữ mua sắm cũng đủ khiến mẹ thấy phấn chấn lên.
“Đừng tiết kiệm làm gì. Và nhớ là không quần thụng quần thiếc gì đâu đấy. Con phải nhờ bà LaVole tư vấn nhé.” Mẹ ngả đầu xuống gối. “Bà ấy biết rõ các cô gái trẻ nên ăn mặc thế nào.”
Nhưng tôi không thể chịu được ý nghĩ bàn tay nhăn nheo của bà LaVole rờ rẫm trên cơ thể mình, phải ngửi mùi cà phê và băng phiến sực lên. Tôi lái xe xuyên qua khu trung tâm và lên đường cao tốc 51, thẳng hướng New Orleans. Tôi lái xe xuyên qua nỗi cắn rứt vì sẽ rời xa mẹ trong ngần ấy thời gian, tôi biết chiều nay bác sỹ Neal sẽ ghé qua còn bố luôn túc trực bên mẹ.
Ba tiếng sau, tôi bước vào trung tâm mua sắm Maison Blanche trên phố Canal. Tôi đã đến đây vô số lần với mẹ và hai lần với Elizabeth và Hilly, nhưng vẫn ngây ngất choáng ngợp trước những mặt sàn lát đá cẩm thạch rộng mênh mông, hàng dặm mũ và găng tay cùng những cô gái mặt hoa da phấn trông thật hạnh phúc, thật khỏe mạnh. Khi tôi còn chưa kịp mở miệng hỏi ai, một người đàn ông gầy nhom đã nói, “Mời cô đi với tôi, chúng tôi có đủ tất cả mọi thứ trên tầng,” và kéo tọt tôi vào thang máy lên thẳng tầng ba, đến một gian đề biển PHỤC TRANG CHO PHỤ NỮ HIỆN ĐẠI.
“Cái gì đây?” Tôi hỏi. Trong sảnh đã có hàng chục phụ nữ cùng nhạc rock-and-roll nổi lên rộn ràng, có cả rượu champagne và những ánh đèn lấp lánh rực rỡ.
“Emilio Pucci, cưng ạ. Có thế chứ!” Anh ta bước lùi lại và hồi, “Không phải cô đến đây dự lễ ra mắt hay sao? Cô có giấy mời chứ?”
“À ờ, đâu nhỉ,” tôi nói, nhưng anh ta lập tức mất kiên nhẫn khi thấy tôi sục tay vào túi xách.
Khắp bốn phía quanh tôi, quần áo trông như vừa đâm rễ và bừng nở trên mắc treo. Tôi nghĩ đến bà LaVole và cười phá lên. Không có chỗ cho những bộ âu phục trứng Phục sinh ở đây. Hoa lá! Những đường kẻ sọc lớn sặc sỡ! Và những đường gấu váy phơi ra cả chục phân da đùi. Tất thảy đều sôi sục, lộng lẫy, và choáng ngợp. Cái ông Emilio Pucci này hẳn phải cắm ngón tay vào ổ điện mỗi sáng sớm chứ chẳng chơi.
Với tờ séc trắng trong tay, tôi mua đủ quần áo để nhồi kín băng ghế sau của con Cadillac. Sau đó trên phố Magazine, tôi bỏ ra mươi lăm đô-la để nhuộm sáng, tỉa và ép thẳng mái tóc. Sau một mùa đông, nó đã dài thêm ra và có màu hao hao nước rửa bát bẩn. Đến bốn giờ, tôi đã phóng xe qua cầu Hồ Pontchartrain, đài đang phát bài hát của một ban nhạc tên Rolling Stones còn gió thổi tung mái tóc suôn bóng mượt của tôi và tôi thầm nghĩ, Tối nay, mình sẽ trút bỏ toàn bộ lớp áo giáp và phô bày mọi sự thật trước Stuart.
STUART VÀ TÔI ăn bít tết Chateaubriand, cười và nói chuyện. Anh nhìn sang các bàn khác, bình phẩm về những người mình biết. Nhưng không ai đứng dậy để ra chào chúng tôi.
“Mừng sự khởi đầu mới,” Stuart nói và giơ cao ly rượu mạnh.
Tôi gật đầu và bỗng dưng muốn nói với anh rằng mọi khởi đầu đều mới cả. Nhưng thay vào đó, tôi mỉm cười và nâng cốc với ly rượu thứ hai. Tôi chưa bao giờ thực sự thích đồ uống có cồn, cho đến hôm nay.
Sau bữa tối, chúng tôi đi ra sảnh chờ và thấy Nghị sĩ cùng bà Whitworth ngồi ở một bàn, đang uống rượu. Những người xung quanh họ cũng đang uống rượu và chuyện trò. Stuart đã kể với tôi trước đó, hai ông bà về chơi nhà cuối tuần, lần đầu tiên kể từ ngày họ chuyển lên Washington.
“Stuart, bố mẹ anh kìa. Ta ra chào một câu đi?”
Nhưng Stuart xoay tôi về hướng cửa, và đẩy tôi ra ngoài theo đúng nghĩa đen.
“Anh không muốn mẹ nhìn thấy em mặc cái váy ngắn thế này,” anh nói. “Ý anh là, tin anh đi, cái váy này hợp với em lắm, nhưng...” Anh nhìn xuống gấu váy. “Có lẽ đó không phải lựa chọn tối ưu cho đêm nay.” Trên cuốc xe trở về nhà, tôi nghĩ đến Elizabeth, đầu cuốn đầy lô, lo sợ hội bài sẽ trông thấy tôi. Tại sao luôn có một ai đó cảm thấy hổ thẹn vì tôi?
Đến khi chúng tôi về tới Longleaf, lúc ấy đã là mười một giờ đêm. Tôi vuốt phẳng vạt váy, thầm nghĩ Stuart nói đúng. Nó ngắn quá. Đèn phòng ngủ của bố mẹ đã tắt, chúng tôi bèn ngồi xuống sofa.
Tôi dụi mắt và ngáp dài. Khi tôi mở mắt ra, anh đang cầm một chiếc nhẫn trong tay.
“Ôi... lạy Chúa.”
“Anh định làm lúc ở nhà hàng nhưng...” Anh cười rạng rỡ. “Ở đây hay hơn.”
Tôi chạm vào chiếc nhẫn. Nó lạnh băng và đẹp mê hồn. Ba viên đá ruby được cẩn xung quanh một viên kim cương. Tôi ngước lên nhìn anh, bất chợt thấy trong người nóng như thiêu như đốt. Tôi lắc chiếc áo len khoác trên vai xuống. Tôi tươi cười nhưng miệng lại chực bật khóc.
“Em phải nói với anh một chuyện, Stuart,” tôi buột miệng. “Anh hứa sẽ không nói với ai nhé?”
Anh nhìn tôi chằm chằm và bật cười. “Gượm đã, em đã nói vâng chưa?”
“Vâng, nhưng...” trước hết tôi phải biết một chuyện đã. “Anh hứa với em đi?”
Anh thở dài, mặt lộ vẻ thất vọng vì tôi nỡ phá hỏng giây phút này. “Được, anh hứa.”
Tôi vẫn chưa hết sốc bởi lời cầu hôn của anh nhưng tôi vẫn cố gắng giải thích rõ ràng hết mức có thể. Nhìn thẳng vào mắt anh ấy, tôi trình bày những sự việc và các chi tiết tôi có thể an tâm tiết lộ về cuốn sách và những gì tôi đã làm suốt năm vừa qua. Tôi không hề đả động đến tên một người nào hết, tôi hơi sững lại khi nhận ra ý nghĩa của hành động đó, tôi biết nó chẳng hay ho gì. Dù anh đã ngỏ lời xin làm chồng tôi, tôi vẫn chưa đủ hiểu anh để đặt niềm tin trọn vẹn vào anh.
“Đó là thứ em đã viết suốt mười hai tháng qua ư? Không phải... Chúa Jesus ư?”
“Không, Stuart. Không phải... Jesus.”
Khi tôi kể Hilly tìm thấy cuốn các điều luật Jim Crow trong túi tôi, cằm anh lập tức xệ xuống, tôi có thể thấy mình vừa xác nhận một chuyện Hilly đã nói với anh về tôi - một chuyện mà do niềm tin ngây thơ, anh đã không tin.
“Những lời đồn đại… trong thị trấn. Anh đã nói rằng họ hoàn toàn sai lầm. Nhưng họ đã... đúng.”
Khi tôi kể về những người giúp việc lũ lượt kéo nhau lướt qua trước mặt tôi sau buổi cầu nguyện tập thể, tôi bỗng thấy trong lòng trào dâng một niềm tự hào về những việc chúng tôi đã làm. Anh chỉ cắm mắt nhìn xuống cốc rượu đã sạch trơn.
Rồi tôi kể rằng tập bản thảo đã được gửi lên New York. Rằng nếu họ quyết định xuất bản, tôi đoán sách sẽ ra trong sáu tháng nữa, có khi sớm hơn. Vào tầm đấy, tôi thầm nghĩ với chính mình, một lời hứa hôn sẽ biến thành một đám cưới.
“Tên tác giả được đặt là vô danh,” tôi nói, “nhưng với con mắt của Hilly, thì vẫn có khả năng rất cao mọi người sẽ biết đó là em.”
Nhưng anh không gật đầu hay gài lọn tóc của tôi ra sau tai và chiếc nhẫn của bà nội anh nằm chỏng chơ trên chiếc ghế sofa bọc nhung của mẹ như một hình ảnh ước lệ nực cười. Cả hai chúng tôi đều im lặng. Mắt anh thậm chí còn không chạm mắt tôi. Chúng dừng lại cách bên phải khuôn mặt tôi đúng năm phân.
Sau một phút, anh nói, “Anh... anh không hiểu tại sao em lại làm việc này. Tại sao em lại... quan tâm đến nó, Skeeter?”
Người tôi cứng đơ, mắt nhìn xuống chiếc nhẫn, nó mảnh và sáng quá.
“Ý anh... không phải như vậy,” anh nói chữa. “Ý anh là, mọi chuyện đều đang tốt đẹp thế. Tại sao em lại muốn làm rối lên?”
Từ giọng nói của anh, tôi biết chắc anh thật tâm chờ đợi một câu trả lời từ phía tôi. Nhưng biết giải thích thế nào đây? Stuart, anh ấy là một người đàn ông tốt. Dù tôi biết những gì mình làm là đúng đắn, tôi vẫn hiểu cảm giác hoang mang ngờ vực của anh.
“Em không gây rắc rối. Rắc rối đã có từ trước rồi.”
Nhưng rõ ràng, đó không phải là câu trả lời anh đang tìm kiếm. “Anh không hiểu em.”
Tôi nhìn xuống, chợt nhớ chỉ mới vài phút trước đây thôi, tôi đã có ý nghĩ hệt như vậy. “Em nghĩ chúng ta còn có cả phần đời còn lại để khắc phục vấn đề đó kia mà,” tôi nói, cố nở nụ cười.
“Anh không... cho rằng anh có thể cưới một người mình không hiểu.”
Tôi hít vào một hơi. Miệng tôi mở ra nhưng trong phút chốc tôi không thể nói nổi lời nào.
“Em phải nói với anh,” tôi nói, với chính mình hơn là với anh. “Anh cần phải biết.”
Anh nhìn tôi một lúc. “Anh hứa. Anh sẽ không nói với ai,” anh nói, và tôi tin anh. Stuart, anh ấy có thể là nhiều thứ, nhưng không phải là một kẻ nói dối.
Anh đứng dậy và đưa mắt nhìn tôi một lần cuổi, một cái nhìn đau đớn. Rồi anh nhặt chiếc nhẫn lên và bỏ đi.
ĐÊM HÔM ĐÓ, sau khi Stuart bỏ đi, tôi lang thang hết phòng nọ đến phòng kia, miệng khô, cổ cháy, lạnh buố. Lạnh buốt là thứ tôi đã ngày đêm cầu ước khi Stuart rời xa tôi lần đầu tiên. Lạnh buốt là thứ tôi đã nhận được.
Nửa đêm, tôi nghe tiếng mẹ gọi vọng ra từ phòng ngủ.
“Eugenia? Phải con đấy không?”
Tôi đi xuống cuối hành lang. Cửa mở hé và mẹ đang ngồi thẳng dậy trong chiếc váy ngủ trắng hồ bột cứng. Tóc mẹ buông xoã quanh vai. Tôi sững sờ, mẹ đẹp quá. Đèn hiên sau nhà vẫn bật, rọi một luồng sáng trắng xoá lên toàn thân mẹ. Mẹ tươi cười và bộ răng giả mới vẫn còn trong miệng, bộ răng bác sỹ Simon đã đúc cho mẹ khi răng mẹ bắt đầu mòn đần vì chất axit trong dạ dày. Nụ cười của mẹ trắng hơn, đều hơn, hơn cả trong những tấm ảnh chụp hồi mẹ đoạt vương miện hoa khôi.
“Mẹ, con lấy gì cho mẹ nhé? Mẹ có đau không?”
“Eugenia, vào đây con. Mẹ có điều này muốn nói với con.”
Tôi nhẹ nhàng bước đến bên mẹ. Bố vẫn chìm sâu trong giấc ngủ, lưng quay về phía mẹ. Và tôi thầm nghĩ, tôi có thể kể cho mẹ nghe một phiên bản hay ho hơn về buổi tối nay. Tất cả chúng tôi đều biết thời gian còn lại rất ít ỏi. Tôi có thể giúp mẹ vui vẻ trong những ngày cuối đời, vờ như đám cưới sắp tới.
“Con cũng có chuyện muốn nói với mẹ,” tôi nói.
“Thế à? Con nói trước đi.”
“Stuart vừa cầu hôn con,” tôi nói, và cố nở một nụ cười thật tươi. Nhưng tôi bỗng hoảng, khi nghĩ hẳn mẹ sẽ đòi xem chiếc nhẫn.
“Mẹ biết rồi,” mẹ nói.
“Mẹ biết rồi sao?”
Mẹ gật đầu. “Dĩ nhiên. Hai tuần trước nó đến đây và xin bố mẹ cho cưới con.”
Hai tuần trước? Tôi suýt bật cười. Dĩ nhiên mẹ phải là người đầu tiên được biết một chuyện hệ trọng đến thế. Tôi mừng vì mẹ đã có ngần ấy thời gian để tận hưởng cái tin ấy.
“Me cũng có chuyện cần nói với con,” mẹ nói. Vầng hào quang bao quanh mẹ thật huyền ảo, lấp lánh như lân tinh. Đó là ánh sáng từ ngọn đèn ngoài hiên, nhưng tôi tự hỏi tại sao mình chưa thấy bao giờ. Mẹ nắm chặt tay tôi giữa không khí bằng cái siết tay mạnh mẽ một bà mẹ dành cho cô con gái mới được hứa hôn. Bố giật mình, rồi ngồi bật dậy.
“Sao thế?” Bố hốt hoảng. “Em mệt à?”
“Không, Carlton. Em không sao. Em bảo rồi.”
Bố ậm ù gật đầu, nhắm mắt lại, và đã kịp say ngủ trước cả khi đặt mình xuống giường.
“Chuyện của mẹ là gì thế?”
“Mẹ vừa nói chuyện với bố con rất lâu và mẹ đã đi đến một quyết định.”
“Ôi trời ơi,” tôi thở dài. Tôi đã thấy ngay cảnh mẹ kể lể giải thích với Stuart khi anh hỏi cưới tôi. “Có phải về tài khoản tiết kiệm không ạ?”
“Không phải,” mẹ nói và tôi thầm nghĩ, Vậy chắc là việc gì đó liên quan đến đám cưới, không chỉ vì đến lúc đó mẹ đã nhắm mắt xuôi tay lâu rồi, mà còn vì sẽ không có đám cưới nào hết. Thế nhưng, tôi vẫn cảm thấy một nỗi khuây khỏa tội lỗi khủng khiếp rằng tôi sẽ không phải trải qua sự kiện đó cùng mẹ.
“Mẹ biết con đã nhận thấy tình trạng của mẹ mấy tuần vừa rồi có sáng sủa hơn,” mẹ nói. “Và mẹ cũng biết bác sỹ Neal nói gì, rằng nó giống như một thứ lực tàn, một thứ...” Mẹ ho sù sụ và cả thân hình gầy gò của mẹ cong lên như một cái vỏ sò. Tôi đưa mẹ một tờ khăn giấy và mẹ nhăn mặt, chặn nó lên miệng.
“Nhưng như mẹ nói đấy, mẹ đã quyết rồi.”
Tôi gật đầu, lắng nghe, với vẻ đờ đẫn hệt như bố tôi mới cách đây vài phút.
“Mẹ đã quyết định sẽ không chết.”
“Ôi... mẹ. Trời ơi, con xin mẹ...”
“Muộn quá rồi,” mẹ nói, đoạn gạt tay tôi ra. “Mẹ đã quyết thế nào thì nó là như thế.”
Mẹ xoa xát hai lòng bàn tay vào nhau, như muốn đẩy lui căn bệnh ung thư. Nhìn mẹ ngồi ngay ngắn nghiêm trang trong bộ áo ngủ, luồng sáng rực rỡ ngời lên quanh mẹ, mắt tôi không khỏi trố ra. Sao tôi dốt thế nhỉ. Tất nhiên trước cái chết, mẹ sẽ vẫn ương ngạnh bướng bỉnh, như mẹ vẫn luôn thế đối với từng tiểu tiết trong cuộc đời mình.
° ° °
HÔM ẤY LÀ THỨ SÁU, ngày 18 tháng Một năm 1964. Tôi mặc một chiếc váy chữ A màu đen. Móng tay tôi đã được gặm sạch. Tôi thầm nghĩ, mình sẽ nhớ từng chi tiết nhỏ của ngày này, đúng như cách mọi người nói họ sẽ không bao giờ quên loại bánh kẹp mình đang ăn, hay bài hát đang phát trên đài, khi họ biết tin Kennedy bị bắn chết.
Tôi bước vào nơi đã trở thành điểm đến quen thuộc với mình, khoảng giữa gian bếp nhà Aibileen. Bên ngoài trời đã tối sập và chiếc bóng đèn vàng dường như rực rỡ hẳn lên. Tôi nhìn Minny và cô nhìn tôi. Aibileen xen vào giữa chúng tôi như muốn chặn cái gì đó.
“Harper and Row,” tôi nói, “muốn xuất bản cuốn sách.”
Tất cả đều nín lặng. Ngay cả lũ ruồi cũng thôi vo ve.
“Cô đùa tôi đấy à,” Minny thốt lên.
“Tôi vừa nói chuyện với bà ta chiều nay.”
Aibileen rú lên một tiếng tưởng như tôi chưa từng nghe thấy từ bác ấy bao giờ. “Trời thần ơi, thật không thể tin nổi!” Bác hét lên, và chúng tôi ôm chầm lấy nhau, Aibileen và tôi, rồi Minny và Aibileen. Minny nhìn về phía tôi.
“Thôi thôi, mọi người ngồi xuống cả đi!” Aibileen nói. “Cô kể đi, bà ta nói gì? Ta phải làm gì bây giờ? Trời thần ơi, tôi còn chưa kịp pha cà phê!”
Chúng tôi ngồi xuống và cả hai đều nhìn tôi chằm chặp, người chúi hẳn về phía trước. Mắt Aibileen mở to. Tôi đã chờ đợi ở nhà cùng cái tin này suốt bốn tiếng. Bà Stein nói rất rõ với tôi, rằng đây là một cuộc giao dịch rất hẻo. Nên giữ kỳ vọng giữa mức thấp và không có gì. Tôi cảm thấy mình có nghĩa vụ phải chuyển tải lời nhắc nhở này đến Aibileen để về sau bác không thất vọng. Thậm chí đến tôi cũng không biết bản thân mình phải cảm thấy thế nào về việc này.
“Mọi người nghe đã, bà ta nói không nên háo hức quá. Rằng số lượng ấn bản họ định in ra sẽ rất, rất nhỏ.”
Tôi chờ Aibileen cau mày, nhưng bác chỉ cười khúc khích. Bác cố đưa tay lên che miệng.
“Có lẽ chỉ được vài nghìn cuốn.”
Aibileen áp bàn tay trên miệng chặt thêm.
“Thảm hại... bà Stein nói thế.
Da mặt Aibileen càng sẫm màu hơn. Bác lại khúc khích cười dưới mấy đốt ngón tay. Hiển nhiên bác chưa hiểu nổi chuyện này.
“Và bà ta nói đó là một trong những khoản nhuận bút còm cõi nhất mà bà ta từng thấy...” Tôi cố lấy giọng nghiêm trang nhưng không tài nào làm được vì rõ ràng Aibileen sắp bật tung ra. Nước dâng lên tận mắt bác.
“Còm... đến đâu?” Bác cất tiếng hỏi sau kẽ tay.
“Tám trăm đô-la,” tôi nói. “Chia cho mười ba người.”
Aibileen lăn ra cười ngặt nghẽo. Tôi không nhịn được cũng cười phá lên. Nhưng chẳng có lý nào. Vài nghìn cuốn và 61,50 đô-la cho mỗi người ư?
Nướt mắt chảy dài trên khuôn mặt Aibileen, cuối cùng bác chỉ gục mặt xuống bàn. “Tôi không hiểu tại sao mình lại cười nữa. Tự nhiên thấy nó buồn cười quá.”
Minny đảo mắt nhìn chúng tôi. “Tôi biết hai người đều điên mà. Cả hai người.”
Tôi cố gắng hết sức để thuật lại cho họ từng chi tiết. Lúc nói chuyện trên điện thoại với bà Stein, tôi cũng chẳng khá hơn bao lăm. Bà ta nói bằng giọng hờ hững, gần như vô cảm. Vậy mà tôi đã làm gì? Tôi có giữ cung cách xã giao nghiêm túc và hỏi những câu thích đáng không? Tôi có cảm ơn bà ta vì đã tiếp nhận một đề tài mạo hiểm đến thế không? Không, thay vì cười, tôi lại lắp bắp trong điện thoại, rồi khóc om sòm như một con bé con vừa bị tiêm một mũi vắc xin ngừa bại liệt.
“Bình tĩnh nào, cô Phelan,” bà ta nói, “cuốn này khó thành sách bán chạy lắm,” nhưng tôi vẫn khóc tu tu trong khi bà ta thông báo những chi tiết mới. “Chúng tôi chỉ ứng trước bốn trăm đô-la và sẽ thanh toán nốt bốn trăm đô-la khi sách đã hoàn thành... cô có... đang nghe không đấy?”
“Vâ-vâng, tôi có.”
“Và chắc chắn còn rất nhiều phần cần biên tập. Chương về Sarah là tốt nhất,” bà ta nói, và tôi kể lại cho Aibileen trong những tiếng sụt sịt, khúc khích của bác.
Aibileen khịt mũi, chùi mắt, và mỉm cười. Rốt cuộc chúng tôi cũng bình tĩnh lại và uống cà phê mà Minny đã phải đích thân đứng dậy và đun cho chúng tôi.
“Bà ta cũng thích Gertrude lắm,” tôi nói với Minny. Tôi cầm tờ giấy lên và đọc lại câu nóihi lại để khỏi quên. “Gertrude là cơn ác mộng của mọi phụ nữ da trắng ở miền Nam. Tôi ngưỡng mộ cô ta.”
Trong khoảnh khắc, Minny thực sự nhìn thẳng vào mắt tôi. Mặt cô giãn ra thành một nụ cười trẻ con. “Bà ta nói thế thật ư? Về tôi ư?”
Aibileen cười lớn. “Cứ như bà ta có thể nhìn thấu cháu dù cách xa năm trăm dặm đường ấy nhỉ.”
“Bà ta nói ít nhất phải sáu tháng nữa sách mới ra. Tầm tháng Tám.”
Aibileen vẫn tươi cười, hoàn toàn không chút nao lòng trước bất kỳ điều gì tôi nói ra. Và thành thực mà nói, tôi rất mừng. Tôi biết bác ấy sẽ sung sướng lắm, nhưng tôi đã sợ rằng bác cũng sẽ thất vọng ít nhiều. Nhìn bác như thế khiến tôi nhận ra, tôi không hề thất vọng. Tôi chỉ thấy hạnh phúc thôi.
Chúng tôi ngồi nói chuyện thêm vài phút nữa, uống cà phê và trà, cho tới khi tôi nhìn đồng hồ. “Tôi đã bảo bố là sẽ quay về sau một tiếng.” Bố đang ở nhà với mẹ. Tôi đành liều để lại số điện thoại nhà Aibileen cho bố để phòng trường hợp khẩn cấp, và nói rằng tôi đi thăm một người bạn tên Sarah.
Cả hai cùng tiễn tôi ra cửa, cử chỉ này hoàn toàn mới với Minny. Tôi bảo Aibileen tôi sẽ gọi cho bác ngay khi nào nhận được thư của bà Stein.
“Vậy là sáu tháng nữa, chúng ta sẽ biết chuyện gì sẽ xảy ra,” Minny nói, “tốt, xấu, hoặc không gì cả.”
“Có thể sẽ là không gì cả,” tôi nói, tự hỏi không biết có ai thèm mua sách không.
“À, tôi thì nghiêng về hướng tốt nhiều hơn,” Aibileen nói.
Minny khoanh tay lại trước ngực. “Thế thì tôi nên nghiêng về hướng xấu. Cũng phải có người lo khoản đấy chứ.”
Trông Minny không có vẻ gì lo lắng về số lượng sách bán ra. Cô lo lắng về những gì sẽ xảy đến khi đám phụ nữ ở vùng Jackson này đọc được những gì chúng tôi đã viết về họ.
AIBILEEN
Người Giúp Việc Người Giúp Việc - Kathryn Stockett Người Giúp Việc