You know you've read a good book when you turn the last page and feel a little as if you have lost a friend.

Paul Sweeney

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Hữu Mạnh
Upload bìa: Son Vo Di
Số chương: 29
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 7242 / 68
Cập nhật: 2016-04-22 16:44:13 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 29: Tiếng Gọi Của Núi Mặt Trời
ai cúp, đuôi quặp và lê thê trên đất, thân sau gần quị xuống, như sói sợ chạy trốn trước hiểm nguy, Kazan chạy, như bay, bên tai văng vẳng tiếng rên của Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ. Chạy được đến hơn một dặm nó mới chịu dừng lại.
Lúc ấy, lần đầu tiên sau bao tuần lễ, nó mới ngồi xuống rống hắt lên trời một tiếng kêu dài và rung rung, được nhiều âm vang nhắc lại xa xa.
Không phải tiếng Sói Xám đáp lại, mà là tiếng của con Đan Mạch to. Giáo sư Pôn Uây-man đang cúi xuống cái xác bất động của Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ, chợt nghe thấy tiếng rống của con chó sói. Ông lắng tai nghe xem tiếng gọi có được lặp lại không. Nhưng Kazan đã nhanh chóng chạy tiếp.
Không khí lạnh buốt từ Bắc Cực đến với Kazan qua những vùng Ba-ren bao la; ngàn vạn vì sao lấp lánh trên đầu giữa bầu trời lộng, niềm hạnh phúc lấy lại được tự do, đã làm cho nó yên tâm trở lại và càng kích thích sức mạnh dẻo dai.
Nó cứ chạy thẳng trước mặt, như một con chó theo vết chân thú, không có gì làm chuyển hướng.
Đi vòng qua thành phố Vàng, và quay lưng lại Đại Hồ Nô Lệ, nó băng qua rừng, qua bụi, qua đồng cỏ, đầm lầy và các mỏm đá lởm chởm, hướng về phía sông Mắc Phac-lan. Đến đó, nó lập tức cứ chạy ngược dòng sông đến bốn mươi dặm. Trước đây Sói Xám vẫn thường chờ nó nên nó cứ đinh ninh rằng Sói Xám lúc này vẫn thường chờ nó, ở chỗ ấy, trên bờ sông nơi mà nó đã bị bắt.
Trời vừa sáng thì nó đến đích, đầy hy vọng và tin tưởng. Nó nhìn quanh, tìm cô bạn, vừa rên rỉ vừa ve vẩy đuôi. Sói Xám không có ở đó.
Nó ngồi xuống, hắt lên không trung một tiếng gọi. Không một tiếng nào đáp lại. Nó liền cố công đánh hơi và tìm kiếm khắp nơi.
Hàng nghìn đường mòn chồng chéo lên nhau. Suốt ngày, nó lần lượt lần theo hết đường này đến lối khác. Vẫn không có kết quả. Vì thế nhiều lần nó lại cất tiếng gọi.
Một sự việc y hệt sự việc đã xáy đến với Sói Xám nảy ra trong đầu óc Kazan. Người bạn nó đang tìm kiếm và nay đã biến mất, chắc chắn nó sẽ gặp lại tại một trong những nơi mà cả hai đã sống.
Thoạt tiên nó nghĩ đến cái cây rỗng, bên cạnh đầm lầy mến khách, nơi đã tôi qua mùa đông trước. Và khi đêm sương vừa tràn ngập đất trời, nó lại cắm đầu chạy. Ô-xơ-ki, vị Thần vĩ đại, đang cúi xuống với nó và hướng dẫn bước chân của nó.
Ngày đêm, dưới nắng thu cũng như dưới ánh trăng sao, nó chạy không nghỉ, vượt núi băng đồi. Thỉnh thoảng, kiệt sức và đói lả nó giết một con thỏ, ăn vài ba miếng, rồi ngủ một hai giờ, để rồi lại dậy chạy tiếp.
Đêm thứ tư, nó đến được chỗ thung lũng dẫn xuống đầm lầy.
Nó lần theo dòng nước và đi qua, không thèm để ý, cạnh đoàn hải ly thứ nhất. Nhưng khi đến gần cái cư xá thứ hai, do Răng Sứt và quân của nó xây dựng thì nó hoàn toàn ngỡ ngàng thất vọng. Nó không còn nhận ra được tí gì.
Răng Sứt và thợ thuyền của nó đã làm xong và hoàn thiện công trình. Cái ao mới tạo phủ ngập đầm lầy đã tăng thêm diện tích và cái cây rỗng, tổ êm ấm chống các trận sương muối, đã hoàn toàn biếnmất. Đến quang cảnh nơi đó nó cũng còn không nhận ra được nữa.
Kazan đứng bật động và ngẩn ngơ trước toàn cảnh torời nước mênh mang đó, lẳng lặng đánh hơi không khí, làn không khí đượm mùi tanh lợm của lũ chiếm đoạt.
Thế là, nó mất hết can đảm, sức dẻo dai tuyệt diệu của nó sụp đổ. Chân cẳng nhức nhối ê ẩm vì chuyến đi dài ngày, vất vả. Xương sườn, gầy tọp vì thiếu ăn, hằn rõ. Suốt ngày, nó đi quanh hồ, tìm kiếm. Lông lưng nằm rạp, hai vai sệ xuống, đôi mắt nháo nhác và lo lắng, khiến nó tựa như một con vật đang bị săn đuổi. Cả ở đây nữa, cũng không có Sói Xám.
Tuy vậy, Sói Xám cũng có đi qua đây. Khi đánh hơi dọc dòng nước hơi ngược lên phía trên cái ao, Kazan phát hiện thấy một mới vỏ trai vỡ. Đấy là những gì còn thừa của một bữa ăn của con Sói mù.
Kazan hít đi hít lại mãi cái mùi đã bay gần hết của Sói Xám, rồi chui xuống một hốc cây mục vừa ngủ vừa khóc. Nỗi buồn của nó vẫn tăng trong giấc mê. Kazan vừa ngủ vừa rên rỉ như một đứa bé. Rồi nó lại dịu đi, một hình ảnh khác chợt thoáng qua óc, và khi bình minh vừa xuất hiện nó lại cắm đầu chạy, thẳng phía trước mặt.
Cũng trong thời gian ấy, dưới ánh nắng vàng của mặt trời mùa thu, một người đàn ông và một người đàn bà, cùng với một đứa bé, ngồi trên một chiếc thuyền ngược về phía Núi Mặt Trời. Chẳng bao lâu ở một khuỷu sông họ thấy hiện ra phía trên các ngọn bách, cái đỉnh rậm rì của ngọn núi dốc đứng mà họ quá quen thuộc.
Ngườithiếu phụ có hơi xanh và gầy, đôi má nàng đã mất cái vẻ rạng rỡ xưa kia và mới hơi bắt đầu lấy lại vẻ hồng hào tươi mát, nhờ ảnh hưởng của không khí ngoài trời. Văn minh và cuộc sống sáu tháng ở thành phố đã làm cho nàng thiếu máu như vậy.
- Joan - người đàn ông nói – em Joan yêu quí, anh nghĩ rằng thầy thuốc đã nói đúng khi khuyên anh nên đưa em đi theo một mùa săn nữa. Em cần đến với cảnh thiên nhiên vừa đẹp đẽ vừa hoang dã này. Nơi đây em đã trải qua thời tuổi trẻ với ba em. Thiếu nó em không thể nào sống nổi! Giờ đây em có sung sướng không?
Người thiếu phụ duyên dáng mỉm cười.
Và, khi chiếc thuyền đi qua một bán đảo cát trắng nhô từ bờ ra và vươn dài ra sông, nàng nói:
- Anh nhớ không, chính tại đây, anh bạn chó sói đã bỏ chúng mình, Aem còn cnhớ rõ chỗ này. Cô bạn đường của nó, con sói mù, bị bỏ rơi, nằm kia, trên cát, gọi nó. Thế là nó chúi đầu nhảy xuống nước… Không rõ, từ ngày đó chúng đã đi đâu… Còn chúng mình, chẳng mấy lúc nữa, chúng mình sẽ đến nơi.
Cái chòi cũ vẫn còn đó, y hệt lúc vợ chồng Joan ra đi. Chỉ có cây nho hoang dại và những dây leo khác phủ kín nó. Cửa ván và cửa ra vào vẫn đóng kín, với những thanh ngang vít đinh kỹ. Xung quanh cỏ dại um tùm.
Mở cửa bước vào chòi, vợ chồng Joan không khỏi xúc động. Trong khi chồng lo bốc dỡ hành lý và các thứ bẫy từ thuyền lên, Joan đã bắt đầu sắp đặt quét dọn nhà cửa, và bé Joan đã trở thành một cô bé xinh xắn, tung tăng chạy nhảy, liến thoắng.
Thấy hoàng hôn đang xuống và bé Joan, đi đường nhọc, đã ngủ say, hai vợ chồng Joan liền ra ngồi ở ngưỡng cửa tranh thủ hưởng cảnh đẹp tuyệt vời của những ngày cuối thu mà mùa đông khắc nghiệt chẳng bao lân sẽ tiếp tới.
Bỗng hai người giật mình.
- Em nghe thấy gì không? - người chồng vừa nói với thiếiu phụ, vừa vuốt mới tóc vàng óng của nàng.
- Có, em cũng nghe… - nàng đáp.
Và giọng nàng run run.
- Không phải giọng nó đâu. Đó là giọng của con kia, vẫn cái tiếng gọi của con sói mù thốt lên ngày ấy trên dải cát.
Người đàn ông gật đầu tán thành.
Joan run rẩy nắm lấy cánh tay chồng, nói tiếp:
- Chắc chắn là chúng nó vẫn ở đấy, hay là chúng cũng như ta, đã quay trở lại? Anh nghe em nhé, anh yêu! Anh có đồng ý hứa với em là mùa đông này, anh đừng săn bắn, cũng đừng bẫy sói không? Nếu tai hoạ rơi vào hai con vật đáng thương ấy, thì em ân hận suốt đời.
Người đàn ông đáp:
- Ý em cũng hợp ý anh đấy…. Được, anh hứa với em!
Đêm dâng nhanh, tràn ngập bầu trời lúc này đang lấm tấm các vì sao.
Lần thứ hai, tiếng gọi thảm thiết lại vang lên. Không nghi ngờ gì nữa. Tiếng gọi từ Núi Mặt Trời đến thẳng đây.
- Nhưng, còn nó, - Joan nói khẽ, có phần lo lắng – nó ở đâu?
Giữa lúc ấy thì một hình dáng mờ mờ nhảy trong bóng tối.
- Chính nó! - thiếu phụ reo lên – Chính nó! Nó kia rồi!
Kazan đã ở bên nàng, vừa sủa vừa nhảy cẫng lên, cái đuôi vung vẩy.
- Nó còn nhớ em, bảo đảm thế! - người chồng vừa nói vừa cười – và nó vẫn mến em như thế!
Joan mừng quá, vuốt ve con vật, lùa bàn tay vào lớp lông cứng, ôm ấp vỗ về cái đầu to bù trong đôi cánh tay mình.
Thình lình tiếng gọi thảm thiết như từ Núi Mặt Trời lại vọng đến. Lập tức, y hệt bị một ngọn roi quất, Kazan giật nảy mình và vùng ra, thình lình thoát khỏi vòng tay quấn quít của Joan. Chỉ lát sau, nó đã biến mất.
Người thiếu phụ vô cùng xúc động. Gần như hổn hển, nàng ngoảnh về phía chồng cũng đang đăm chiêu suy nghĩ.
- Anh xem – nàng nói với chồng – có chúa Sơn Lâm, một đấng đã ban cho cả loài dã thú một tâm hồn. Trong cảnh bao la hoang vắng của vùng Tuyết Trắng mênh mông, muôn thú là anh em của chúng ta. Và bởi thế mà Chúa bảo chúng ta: “Ngươi không được giết!”.
- Anh tin lời em nói, em Joan yêu quí ạ - người đàn ông nói khẽ - chúng ta phải biết quí trọng cuộc sống… Trừ những lúc, thật đáng tiếc, để bảo vệ và nuôi dưỡng cuộc sống của ta. Tại đây, đứng trước thiên nhiên và bầu trời lồng lộng, mọi vật đối với ta đều khác hẳn khi ta sống trong những thành phố lớn.
Đêm tối đã xuống hẳn. Ánh sao phản chiếu trong mắt Joan, nàng trìu mến ngả đầu vào ngực chồng.
- Thế giới hoang dã này đẹp thật! – nàng nói – Anh bạn cũ không quên chúng mình, và vẫn luôn luôn chung thuỷ với cô bạn. Em tin rằng thỉnh thoảng nó sẽ đến thăm chúng mình như trước đây.
Mi mắt nàng từ từ nhắm lại. Xa xa, chốc chốc, lại nghe tiếng rống, tiếp theo những phút im lặng đi.
Đấy là Kazan đang săn mồi, vai kề với Sói Xám, dưới ánh trăng ngà vừa mọc, toả ánh sáng mát dịu xuống khắp đồng rộng rừng sâu.
----------END----------
Kazan (Ca Dăng) Kazan (Ca Dăng) - James Oliver Curwood Kazan (Ca Dăng)