"We will be more successful in all our endeavors if we can let go of the habit of running all the time, and take little pauses to relax and re-center ourselves. And we'll also have a lot more joy in living.",

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả:  M. L. Stedman
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Light Between Oceans
Dịch giả: Hồ Thị Như Mai
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 38
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Iii.4
ày tránh xa cái tay đó ra, nghe rõ chưa?”
“Nhưng con phải đi thăm ảnh, má à. Ảnh bị giam lâu lắm rồi! Là do con hết!” Bluey rên rỉ.
“Đừng nói vớ vẩn. Mày đã giúp cho mẹ con người ta đoàn tụ, lại chuẩn bị nhận thêm ba ngàn guinea tiền thưởng.” Bà Smart nhấc bàn ủi khỏi lò nóng, ủi tấm khăn trải bàn, cứ một nhát ủi lại nói một câu. “Nghĩ cho kỹ, nhóc á. Mày làm xong việc rồi, giờ thì tránh xa ra.”
“Ảnh sẽ còn gặp rắc rối nhiều hơn mấy người nhập cư hồi trước, má à. Con nghi vụ này ảnh sẽ không được để yên đâu.”
“Không phải chuyện của mày, con trai à. Giờ đi ra sau nhà nhổ cỏ trong bụi hoa hồng đi.”
Theo phản xạ, Bluey đứng dậy, bước một bước về phía cửa sau, vừa lúc bà mẹ lẩm bẩm. “Trời đất, cuối cùng cái đứa còn sống là cái đứa dở hơi!”
Cậu dừng lại, đứng thẳng người lên, khiến bà mẹ bất ngờ. “Thì tui chỉ là đứa dở hơi, nhưng tui không phải là thằng tồi. Tui cũng không phải là cái loại phụ bạn.” Cậu ta quay người, bước ra cửa trước.
“Mày tính đi đâu hả, Jeremiah Smart?”
“Đi ra ngoài!”
“Bước qua xác tao rồi đi!” bà gằn giọng, chặn đường Bluey.
Bà chỉ cao có thước rưỡi. Bluey cũng phải đến thước tám. “Xin lỗi má,” cậu ta nói, nhấc bổng bà lên như nhấc thanh gỗ đàn hương, rồi đặt bà xuống qua một bên. Bluey để mặc bà đứng đó, miệng há hốc, mắt long sòng sọc giận dữ. Cậu bước ra cửa, thẳng xuống lối đi trước nhà.
***
Bluey nhìn quanh. Căn phòng chật chội, chiếc xô bẩn đặt ở góc phòng, cái cốc thiếc trên chiếc bàn gắn chặt xuống nền nhà. Chừng đó năm quen biết Tom cậu chưa bao giờ thấy anh không cạo râu, chưa bao giờ thấy anh đầu bù tóc rối, hay mặc áo nhăn nhúm. Giờ đây dưới hai mắt anh thâm quầng, gò má hốc hác nổi rõ trên nét cằm vuông.
“Tom! Lâu ngày quá,” vị khách lên tiếng, câu chào hỏi quen thuộc khiến cả hai nghĩ ngay đến những ngày thuyền cập bến ở cầu tàu, những chuyến đi dài. Khi đó họ thực sự trông đến lúc gặp nhau.
Bluey cố nhìn gương mặt Tom nhưng bị mấy thanh sắt chắn ngang, nên lúc thì thấy mặt Tom nhòa đi, lúc thì thấy thanh sắt nhòa đi. Cậu ta ngẫm ngợi thêm một lúc rồi lên tiếng, “Chuyện sao rồi?”
“Khá là tệ.”
Bluey mân mê chiếc mũ trong tay cho tới khi lấy hết can đảm. “Tui sẽ không nhận tiền thưởng, anh Tom à,” Mấy lời nói lóng ngóng bật ra. “Chẳng ra gì cả.”
Tom nhìn qua một bên trong giây lát. “Tôi đoán hẳn phải ra làm sao thì cậu mới không được đi lính.” Giọng anh có vẻ thờ ơ hơn là giận dữ.
“Tui xin lỗi anh! Là do má tui ép tui đi báo. Đáng ra tui đừng nghe lời bả. Tui không bao giờ đụng vào món tiền đó đâu.”
“Thực ra cậu nhận tiền thì còn tốt hơn là người khác nhận. Cũng thay đổi được gì nữa đâu.”
Bluey không hề nghĩ rằng Tom sẽ dửng dưng đến vậy. “Rồi sẽ ra sao đây?”
“Tôi làm sao biết được hả Blue.”
“Anh có cần gì không? Cần tui đem gì cho anh không?”
“Một chút bầu trời và một chút đại dương, nếu cậu có lòng.”
“Tui nói thiệt mà.”
“Tôi cũng vậy.” Tom hít một hơi sầu, ngẫm ngợi một chuyện. “Cậu có thể giúp tôi một việc. Cậu có thể ghé qua xem Izzy ra sao rồi. Hiện giờ cô ấy đang ở nhà cha mẹ. Chỉ là để biết... cô ấy ổn cả. Hẳn sẽ khó khăn lắm. Lucy là cả thế gian với Isabel,” anh dừng lại, bắt đầu nghẹn ngào. “Cậu hãy nói với cô ấy là tôi hiểu. Chỉ có vậy thôi. Nói là tôi hiểu mà, được không Bluey.”
Mặc dù vô cùng bối rối, Bluey vẫn nhận nhiệm vụ đó như một thứ mệnh lệnh thiêng liêng. Cậu sẽ nhắn lại cho bằng được với Isabel, cứ như thể mạng sống của cậu phụ thuộc vào việc đó.
Khi Bluey đã ra về Tom nằm xuống giường rồi tự hỏi không biết giờ này Lucy ra sao, Isabel chống chọi thế nào rồi. Anh nghĩ liệu mình đã có thể làm cách nào khác hay không, kể từ cái ngày đầu tiên đó. Rồi anh nhớ đến lời Ralph, “chẳng ích gì khi cứ dằn vặt chuyện cũ”. Vậy là anh tự an ủi lòng bằng những điều xa xôi hơn: trong tâm trí anh vẽ lại trên trần nhà vị trí chính xác của những ngôi sao ngoài trời trong đêm đó, bắt đầu là sao Thiên Lang, lúc nào cũng sáng nhất; rồi đến sao Thập Tự Nam; rồi các hành tinh – sao Kim và sao Thiên Vương, hết thảy đều nổi rõ trên bầu trời ở đảo. Anh lần theo các chòm sao khi chúng di chuyển trên mái nhà của cả thế gian từ hoàng hôn đến bình minh. Tính chính xác và trật tự lặng lẽ của những vì sao mang đến cho anh một cảm giác tự do. Những chuyện anh đang trải qua đây, chẳng có gì mà những vì sao chưa từng thấy trước đó, ở một nơi chốn, thời điểm khác trên thế gian. Với thời gian, ký ức của những vì sao sẽ khép lại cuộc đời anh như miệng vết thương dần khép lành. Tất cả rồi sẽ bị lãng quên, mọi đau khổ đều sẽ xóa nhòa. Rồi anh nhớ đến tập thiên văn đồ và dòng chữ Lucy ghi trong đó: “mãi mãi và mãi mãi và mãi mãi,” nỗi đau đớn thực tại lại ào ạt tràn về.
Anh cầu nguyện cho Lucy. “Xin Chúa giữ cho con bé được bình yên. Cho nó cuộc đời hạnh phúc. Hãy để nó quên con đi.” Và cho Isabel, vẫn lạc lối trong bóng đêm, “Xin Chúa mang nàng về nhà, về với chính mình trước khi quá muộn.”
***
Bluey lóng ngóng đứng trước cửa nhà Graysmark, thầm thì dợt lại những lời sẽ nói. Cửa mở, Violet xuất hiện, gương mặt lo lắng.
“Tôi giúp gì được cho cậu?” bà hỏi, lời lẽ khách sáo như muốn ngăn chặn những phiền toái mới.
“Chào bà Graysmark.” Khi thấy Violet không có dấu hiệu gì đáp trả, Bluey nói tiếp, “Tui là Bl... Jeremiah Smart.”
“Tôi biết cậu là ai.”
“Tui không biết liệu... bà có thể cho tui nói chuyện vói chị Sherbourne được không?”
“Nó không muốn nói chuyện với ai cả.”
“Tui...” Bluey vừa định bỏ cuộc, nhưng nhớ lại gương mặt Tom, tiếp tục nài nỉ, “Tui sẽ không phiền chị lâu. Tui chỉ cần…”
Giọng Isabel vọng ra từ phòng khách tối om. “Má cứ để cậu ta vào”.
Violet cáu kỉnh. “Vậy thì cậu vào đi. Phiền cậu chùi chân giùm cho,” rồi bà nhìn chằm chằm xuống đôi giày của Bluey khi cậu chùi chân, rồi lại chùi lần nữa lên tẩm thảm xơ, trước khi đi theo bà vào nhà.
“Không sao mà má. Má không phải ngồi lại đâu,” Isabel nói, vẫn ngồi tại ghế.
Isabel trông cũng hốc hác như Tom, Bluey nghĩ thầm – da xám nhợt nhạt và gương mặt trống rỗng. “Cảm ơn chị... đã chịu gặp tui...” Cậu lúng túng, viền mũ cầm trong tay đã hơi ẩm ướt. “Tui đã gặp anh Tom.”
Vẻ mặt Isabeỉ chùng xuống, cô quay đi chỗ khác.
“Anh khổ lắm, chị S. à. Khổ thiệt đó.”
“Anh ta gởi cậu đến đây để nói vậy à?”
Bluey tiếp tục loay hoay với chiếc mũ trong tay. “Không. Anh nhờ tôi chuyển lời cho chị.”
“Vậy sao?”
“Ảnh nói là nhắn chị anh hiểu mà.”
Isabel không giấu nổi sự ngạc nhiên trên gương mặt. “Hiểu gì kia?”
“Ảnh không nói. Chỉ biểu tui nhắn chị như vậy thôi.” Đôi mắt cô dán vào Bluey nhưng cô không nhìn cậu ta. Một lúc lâu sau, khi Bluey đã ngượng chín mặt vì bị nhìn chằm chằm, Isabel lên tiếng, “Vậy thì cậu đã chuyển lời xong rồi đó.” Cô chậm rãi đứng dậy. “Để tôi tiễn cậu ra.
“Nhưng mà...” Bluey hỏi, thấy sốc.
“Nhưng gì kia?”
“Tui phải nói lại sao với ảnh đây? Ý tui là... chị không chuyển lời gì sao?” Cô không trả lời. “Ảnh lúc nào cũng tử tế với tui, chị S. à... cả hai người đều rất tốt với tui!”
“Đi lối này,” cô nói, dẫn Bluey ra đến cửa.
Khi Isabel đóng cánh cửa lại, cô úp mặt vào tưởng, run rẩy.
“Isabel con à!” bà mẹ thốt lên. “Lại đây nằm xuống đi con, ngoan mà,” bà nói rồi dìu cô về phòng.
“Con muốn nôn nữa,” Isabel nói rồi Violet lấy ra chiếc bình gốm cũ, vừa kịp đặt vào lòng cô con gái.
***
Bill Graysmark vẫn tự hào rằng mình biết nhìn người, là thầy giáo hiệu trưởng ông có kinh nghiệm quan sát cả quá trình hình thành nhân cách. Ông rất hiếm khi phán đoán sai rằng trò nào sẽ làm nên chuyện, trò nào sẽ chẳng ra gì. Ông không hề có linh cảm rằng Tom Sherbourne là kẻ dối trá, hay vũ phu. Chỉ cần nhìn anh ta chơi với Lucy cũng thấy đứa nhỏ chẳng hề có một chút sợ sệt. Ông đã tin tưởng giao phó con gái hoàn toàn cho Tom.
Nhưng giờ đây, mất đi đứa cháu duy nhất, Bill chỉ còn biết đến đứa con còn lại của mình. Giờ đây sự phán xét bằng linh cảm đó bị dẹp qua một bên: một giọt máu đào hơn ao nước lã – có Chúa mới biết giờ ông đã thấm thía câu đó như thế nào.
“Chuyện thật quá khủng khiếp, Vernon à. Khủng khiếp quá. Tội nghiệp Isabel giờ như cái xác không hồn,” ông nói, khi ngồi trong góc quán với viên cảnh sát.
“Chỉ cần con nhỏ đưa bằng chứng buộc tội Tom là được” Knuckey nói, “Isabel chẳng có gì phải lo cả.”
Bill nhìn ông cảnh sát, thắc mắc.
“Isabel không thể bị quy trách nhiệm với những việc bị anh ta ép làm, vậy nên chỉ cần khai ra thôi. Ở đây Isabel được xem là nhân chứng “đủ năng lực hành vi nhưng bị ức chế” ông cảnh sát giải thích. “Lời khai của Isabel vẫn được chấp nhận – Tòa sẽ nói là cũng có giá trị như lời khai của bất kỳ ai khác. Nhưng ta không thể ép người vợ đưa ra bằng chứng không có lợi cho người chồng. Mà đương nhiên anh ta cũng có quyền giữ im lặng. Ta cũng không thể bắt anh ta khai ra điều gì bất lợi cho Isabel, nếu anh ta không muốn, mà anh ta thì đã khẳng định sẽ không hé một lời.” Viên cảnh sát dừng lại. “Có khi nào anh thấy... Isabel không tự nhiên với đứa nhỏ chưa?”
Bill nhìn Vernon một cái. “Đừng có lạc đề nữa, Vernon.”
Knuckey bỏ qua, rồi triết lý, “Người gác đèn là vị trí rất được tin tưởng, anh biết đó. Cả nước ta, mà nói cả thế giới cũng được đều trông cậy vô họ: phải là người tử tế, thật thà, đứng đắn. Ta không thể để họ tự tung tự tác mà làm giả giấy tờ của nhà nước, rồi ép buộc vợ mình. Chưa kể là không biết anh ta đã làm chuyện gì với Frank Roennfeldt trước khi chôn cất.” Viên cảnh sát nhận ra sự hoảng hốt trên gương mặt Bill, nhưng vẫn nói tiếp, “Không. Phải ngăn chặn ngay những việc như vậy. Vài tuần nữa thẩm phán sẽ đến đây xử phiên sơ thẩm. Suy từ lời khai của Sherbourne cho tới giờ... có lẽ anh ta sẽ bị chuyển đến Albany, tòa nơi đó có quyền xử nặng hơn. Hoặc họ có thể làm thật mạnh tay, đẩy anh ta tới tận Perth. Tay Spragg đang lăm le tìm manh mối chứng minh rằng Frank vẫn chưa chết khi ra dến Janus.” Knuckey dốc cạn cốc bia, rồi nói. “Mọi sự đang rất tệ với Tom, Bill à, tôi chỉ biết nói với anh có vậy thôi.”
***
“Con có thích sách không hả cưng?” Hannah đánh liều hỏi. Cô đã thử mọi cách để xây chiếc cầu nối giữa mình và con gái. Hồi còn nhỏ cô rất yêu các câu chuyện, một trong những ký ức ít ỏi về mẹ cô mà cô vẫn còn nhớ được là được bà đọc cho nghe Câu chuyện về Thỏ Peter[1] vào một buổi chiều nắng đẹp trên bãi cỏ ở dinh thự Bermondsey. Cô còn nhớ chiếc áo màu xanh nhạt của mẹ, rồi cả mùi thơm – phảng phất hương hoa và rất lạ. Rồi nụ cười của mẹ nữa... thứ báu vật quý giá nhất. “Đây là từ gì hả con?” bà hỏi Hannah. “Con biết từ đó mà, đúng không?”
[1] The Tale of Peter Rabbit: một tác phẩm kinh điển của tác giả Beatrix Potter (1986 – 1943), nhà văn, họa sĩ người Anh chuyên sáng tác cho thiếu nhi (ND)
“Cà rốt”, Hannah dõng dạc đọc, rất hãnh diện.
“Hannah giỏi quá!” ngườỉ mẹ mỉm cười. “Thật là sáng dạ”. Tới đây ký ức đó nhạt nhòa đi, như kết thúc một câu chuyện, vậy là cô cứ nhớ lại từ đầu, lặp đi lặp lại.
Giờ đây cô cố gắng dỗ Grace bằng chính cuốn sách đó. “Con thấy không? Sách kể chuyện con thỏ này. Lại đây, lại đây đọc với mẹ”.
Nhưng đứa bé nhìn cô hờn dỗi. “Con muốn má con. Con ghét sách!”
“Thôi mà, con còn chưa xem qua nữa”. Cô hít một hơi sâu, cố thử lần nữa. “Một trang thôi cũng được. Thử đọc một trang, nếu con không thích mình sẽ không đọc nữa”.
Đứa bé giật lấy cuốn sách từ tay cô, rồi ném về phía cô, gáy sách sượt qua gò má Hannah, suýt nữa là đâm vào mắt cô. Rồi nó lao ra khỏi phòng, đâm sầm vào Gwen đang bước vào.
“Này cô kia!”, Gwen lên tiếng, “Con làm gì với mẹ Hannah vậy? Đi xin lỗi mẹ đi”.
“Để nó đi đi Gwen”, Hannah đáp. “Nó không có ý gì đâu. Chỉ là sơ suất thôi mà”. Cô nhặt cuốn sách, cẩn thận đặt lên giá. “Chị định tối nay sẽ nấu thử món súp gà xem sao. Ai cũng thích ăn súp gà, phải vậy không?” cô nói mà dường như không chắc mấy.
Vài tiếng sau, Hannah bò dưới sàn nhà, lau chùi chỗ súp con gái vừa ói ra.
***
“Nếu nghĩ lại, mình có biết gì về anh ta đâu chứ? Những chuyện ở Sydney – biết đâu là bịa đặt hết. Mình chỉ biết chắc anh ta không phải là người xứ Mũi”. Violet Graysmark nói với Bill khi con gái đã ngủ say. “Anh ta là cái loại người gì? Đợi cho đến khi con nhỏ không thể sống thiếu con rồi đem nó đi”. Mắt bà nhìn vào tấm hình lồng khung chụp đứa cháu gái. Bà đã lấy xuống từ bệ lò sưởi, giờ đây cất kỹ dưới lớp vải trong tủ đồ lót.
“Nhưng mình nghĩ gì hả Vi? Thực tình mình nghĩ sao?”
“Trời đất. Ngay cả khi anh ta không dí súng vào đầu bắt nó làm thì anh ta vẫn là người chịu trách nhiệm. Nó mất đến đứa thứ ba thì rõ là không thể nào bình thường được. Rồi còn đổ lỗi cho nó... Nếu anh ta muốn làm đúng luật lệ thì làm ngay lúc đó. Tại sao để bao nhiêu năm rồi quay ngược lại, khiến cho rất nhiều người phải chịu theo. Ta phải chịu trách nhiệm cho việc làm của mình, Bill à. Dũng cảm là vậy. Phải biết chấp nhận hậu quả.”
Bill không nói gì cả. Violet vừa sắp lại mấy túi thơm đựng hoa oải hương, vừa nói, “cứ như xát muối vào vết thương, chỉ vì lương tâm dằn vặt của anh ta mà làm khổ Isabel và Lucy và...” bà đặt tay lên tay ông, “cả vợ chồng mình nữa. Chẳng thèm nghĩ gì đến chúng ta cả. Cứ như từ trước giờ mình không có liên quan.” Mắt bà rớm ướt. “Đứa cháu nhỏ của mình, Bill... Biết bao nhiêu là tình thương...” Bà chậm rãi đóng ngăn kéo lại.
“Thôi mà Vi. Tôi biết mình khổ lắm. Tôi biết mà.”
Người chồng lên tiếng, ôm bà lại gần, để ý thấy tóc bà gần đã bạc nhiều. Hai người đứng một hồi lâu, Violet thổn thức, Bill nói. “Tôi thật là dại, vậy mà tôi cứ nghĩ đau khổ đã qua rồi.” Rồi ông nấc lên, ông ôm bà chặt hơn, như thế lầm vậy sẽ ngăn được thứ tai họa vừa giáng xuống gia đình mình.
***
Lau sàn xong, con gái cuối cùng cũng đã ngủ. Hannah ngồi bên chiếc giường nhỏ ngắm nó. Ban ngày cô không thể ngắm con bé. Grace giấu mặt đi nếu phát hiện ra có người đang nhìn. Nó quay lưng lại, hay chạy trốn vào phòng khác.
Giờ đây, bên ánh sáng của ngọn nến, Hannah có thể quan sát các nét của con bé; từ đường gò má tới đường chân mày, cô đều thấy Frank ở đó. Hannah thấy tim mình lan ra, cô gần như tin rằng nếu cô mở lời với đứa nhỏ đang ngủ kia thì Frank sẽ lên tiếng đáp lại. Ngọn lửa đèn đổ bóng lay lắt theo nhịp thở của con bé, thỉnh thoảng phản chiếu ánh vàng nơi tóc nó, hoặc ánh lên đường dãi li ti nơi khóe miệng hồng hào trong veo.
Hannah chỉ vừa chậm rãi nhận ra cái ước muốn đang lớn dần trong cô: giá mà Grace cứ ngủ vậy, qua nhiều ngày, nhiều năm nếu cần, cho đến khi mọi ký ức về những con người đó, về cuộc sống đó bị lùi lại thật xa phía sau. Cô lại thấy trống rỗng lạ kỳ trong sâu thẳm, như lần đầu tiên cô thấy vẻ đau khổ trên gương mặt đứa con vừa trở về. Giá như Frank ở đây. Anh ấy sẽ biết phải làm gì, phải làm sao để vượt qua chuyện này. Cuộc đời anh ấy gặp biết bao nhiêu chuyện, tưởng gục ngã nhưng lần nào anh ấy cũng tự đúng dậy, mỉm cười, không hề ai oán.
Hannah nghĩ miên man đến một hình hài còn bé bổng hơn – đứa con hoàn hảo của cô, khi đó chỉ vừa một tuần tuổi... Cô lại nghe tiếng Frank hát ru, “Schlaf, Kindlein, schla”, “Ngủ ngoan, con yêu, ngủ ngoan.” Cô nhớ lại cách anh nhìn vào trong nôi, thì thầm bằng tiếng Đức. “Tôi đang nói thầm những điều tốt lành, để con mơ đẹp, mình à,” khi đó anh giải thích “Chỉ cần trong đầu ta luôn có những điều tốt lành thì lúc nào ta cũng hạnh phúc. Tôi biết mà.” Hannah ngồi thẳng lưng. Chỉ cần nghĩ đến ký ức đó cũng cho cô đủ can đảm để đương đầu với ngày tiếp theo. Grace là con gái cô. Ắt hẳn trong tâm hồn con bé vẫn còn nhớ điều gì đó, rồi nó cũng sẽ nhận ra cô. Cô chỉ cần kiên nhẫn, tùng ngày một, như lời cha dặn. Sớm muộn gì đứa bé cũng sẽ lại là con của cô, lại cho cô niềm vui như ngày nó ra đời.
Cô khẽ thổi cây nến rồi bước về phòng trong ánh sáng tỏa ra từ cánh cửa đang mở, đổ dọc theo sàn nhà. Khi vào trong giường, cô bàng hoàng thấy nó thật trống trải xiết bao.
***
Isabel sốt ruột đi lại. Ba giờ sáng, cô đã lẻn ra ngoài bằng cửa sau nhà cha mẹ. Mặt trăng như đang bị kẹp giữa hai cành khẳng khiu trên cây keo ma. Dưới đất cỏ khô khẽ gãy rạp theo từng bước chân Isabel, từ cây phượng tím đến cây phượng đỏ, rồi ngược lại: đây chính là sân chơi cricket ngày trước của hai anh em cô, đã bao nhiêu năm rồi.
Isabel mộng mị ra vào tri giác, mơ hồ giữa thực tại, bồng bềnh với những ý nghĩ rối ren lần đầu xuất hiện khi cô vừa mất đứa con thứ nhất. Những ý nghĩ đó lớn lên khi hai đứa con nữa cũng rời xa cô, và giờ đây là Lucy. Và trong màn sương lừa lọc – lẻn ra khi cô không để ý, bỏ đi với những lá thư cho người đàn bà khác, âm mưu mang con gái của cô đi xa.
“Tôi hiểu mà.” Lời nhắn của Tom như đánh đố. Ruột gan cô xoắn lại, vừa giận dữ vừa nhung nhớ. Ý nghĩ của Isabel như đảo loạn khắp chốn, có lúc cô chỉ có ký ức hồi chín tuổi, cưỡi con ngựa đang bỏ chạy. Con rắn hổ nằm trên lối đi. Đột nhiên con ngựa nhấc bổng hai chân trước, nhảy chồm lên giữa những thân cây, đâm bừa vào cành cây. Isabel chỉ biết bám vào bờm ngựa. Isabel nằm dựa vào cổ nó, cho đến khi nó mệt lả, dừng lại trong khoảng rừng thưa cách đó gần một dặm. “Con không thể làm gì được,” cha cô nói. “Một khi ngựa đã lồng lên thì chỉ biết cầu nguyện rồi bám vào nó thôi. Không thể làm gì với con vật đang sợ hãi mù quáng.”
Cô không thể nói chuyện với ai. Sẽ chẳng ai hiểu cả. Đời cô một thân một mình rồi có nghĩa lý gì, khi cái gia đình đó không còn nữa? Cô miết ngón tay lên vỏ cây phượng tím, lần ra dấu khắc – Alfie đả khắc chiều cao của cô vào đó, ngay trước ngày anh và anh Hugh lên đường sang Pháp. “Tụi anh sẽ về để xem em lớn bao nhiêu rồi. Nên em mau lớn đi nha.”
“Thực ra chừng nào mấy anh mới về?” Isabel hỏi.
Hai anh nhìn nhau, vừa lo lắng vừa phấn khích. “Chừng nào em cao bằng này,” Hugh đáp, khắc thêm một dấu vào gốc cây cao hơn khoảng tấc rưỡi. “Chừng nào em cao tới đó tụi anh lại về nhà ghẹo em nữa, Bella à.”
Cô chưa bao giờ cao tới vạch đó.
Tiếng con tắc kè sột soạt lướt qua mang cô về với thực tại, về với nỗi đau. Những câu hỏi cứ bám theo cô, trên đầu ánh trăng mòn mỏi chiếu qua cành cây: thực ra Tom là ai? Con người mà cô tưởng mình biết quá rõ đó. Làm sao anh ta có thể phản bội cô như vậy? Cuộc sống trước đó của hai người liệu có ý nghĩa gì? Cả những linh hồn sinh ra từ dòng máu hai người để rồi tàn lụi, không thể nương náu bên trong cơ thể cô, là những ai? Một ý nghĩ như bóng ma đậu lại trên vai cô: ngày mai còn có nghĩa lý gì?
***
Những tuần sau khi Grace trở về với Hannah còn đau đớn hơn cả lúc con bé vừa mất tích. Cô phải đối diện với những sự thật từ lâu bị gạt ra một bên, giờ đây không thể nào trốn thoát. Đã nhiều năm trôi qua. Frank thực sự đã không còn nữa. Một phần đời đứa con gái của cô cũng đã trôi qua và không thể nào lấy lại được. Khi Grace vắng bóng trong cuộc đời Hannah, nó lại hiện diện ở những cuộc đời khác. Đứa con ấy đã sống một cuộc đời không hề có cô: Hannah chợt bắt gặp một ý nghĩ, nó đã sống mà không hề nghĩ đến cô. Cô thấy xấu hổ khi nhận ra mình đang cảm thấy bị phản bội. Bị một đứa bé phản bội.
Hannah còn nhớ vợ của Billy Wishart, nhớ bà ấy đã vui sướng thế nào khi người chồng mà bà tưởng đã bỏ mạng trên chiến trường Somme quay về, để rồi tuyệt vọng. Khi về nhà, nạn nhân ngạt khí độc đã thành người xa lạ, không chỉ với gia đình mà còn với chính mình. Sau năm năm đau đớn, một buổi sáng khi mặt nước trong thùng đóng băng, bà Wishart đã đứng trên chậu vắt sữa đặt úp trong chuồng bò, treo cổ tự vẫn. Mấy đứa con sau đó phải tự tay cắt dây kéo bà xuống vì Billy không thể cầm dao được.
Hannah cầu nguyện, mong có thêm lòng kiên nhẫn, sức mạnh và sự sáng suốt. Mỗi sáng cô đều cầu Chúa cho cô súc mạnh để đi hết ngày.
Buổi chiều hôm đó khi đi ngang qua phòng trẻ, cô nghe thấy giọng nói. Hannah bước chậm lại, nhón chân, đứng gần cánh của đang mở hé. Cô mừng run lên khi thấy con gái cuối cùng cũng chịu chơi với búp bê: mọi cố gắng trưóc đó của cô đều bị từ chối. Lúc này bộ đồ chơi uống trà vuơng vãi trên mặt ga trải giường. Một con búp bê vẫn còn mặc nguyên áo đầm ren tinh xảo, một con đá bị cởi áo đầm, chỉ còn mặc áo cánh và quần cộc. Con búp bê mặc đầm ôm trong lòng một chiếc kẹp phơi áo. “Ăn tối nào”, búp bê mẹ lên tiếng. Đứa bé cầm chiếc tách trà bé xíu lại gần chiếc kẹp áo, giả tiếng ăn “nhom nhom”. ‘‘Cưng ngoan quá, giờ đi ngủ thôi. Ngủ ngoan.” Rồi búp bê mẹ ghé môi hôn búp bê con – kẹp áo. “Ba ơi nhìn nè,” búp bê mẹ lại nói, “Lucy ngủ rồi nè,” và đưa bàn tay búp bê bé xíu chạm vào chiếc kẹp áo. “Ngủ ngon Lulu, Ngủ ngon má Lulu,” con búp bê mặc quần nói. “Tới giờ thắp đèn rồi. Mặt trời gần lặn rồi.” Rồi búp bê cha bước đi dưới tấm chăn. Búp bê mặc đầm lên tiếng, “Lucy đừng lo. Mụ phù thủy không bắt con được đâu, má làm mụ ta chết rồi.”
Trước khi kịp nhận ra mình đang làm gì, Hannah bước vào, giật lấy đám búp bê. “Đủ rồi, con nghe chưa?” cô gằn giọng, đánh vào tay con bé. Tay chân con bé gồng lên, nhưng nó không khóc – nó chỉ im lặng nhìn Hannah.
Ngay lập tức, Hannah thấy ân hận vô vàn. “Mẹ xin lỗi! Mẹ xin lỗi con. Mẹ không muốn làm con đau.” Rồi cô nhớ lại lời dặn của bác sĩ. “Họ đi rồi, mấy người đó đi rồi. Họ đã làm một việc xấu, không cho con về nhà. Giờ thì họ đi rồi.” Nghe từ ‘về nhà’, Grace tỏ ra bối rối không hiểu. Hannah thở dài. “Một ngày nào đó. Một ngày đó con sẽ hiểu.”
Trưa hôm đó, Hannah khóc trong bếp, thấy ân hận vì đã nổi nóng vói con, Grace lại chơi trò cũ, lần này con bé chơi bằng ba chiếc kẹp áo. Tối đến, Hannah thức thật khuya, tỉ mỉ cắt may, để sáng hôm sau khi thức dậy con gái cô sẽ thấy một con búp bê vải mới ngay trên gối – một bé gái mặc đầm yếm có thêu chữ Grace.
***
“Con không chịu được khi nghĩ tới con nhỏ giờ ra sao, má à.” Isabel nói khi hai mẹ con ngồi trên ghế mây dưới mái hiên sau nhà. “Chắc nó nhớ nhà, nhớ mình lắm. Con nhỏ tội nghiệp còn không hiểu chuyện gì đang xảy ra.”
“Má biết mà, Isabel. Má biết mà.” Mẹ cô đáp.
“Violet đã pha cho cô một tách trà, đặt sẵn trên đùi. Con gái bà giờ đây đã tiều tụy nhiều – hai mắt lõm sâu thâm quầng xám, tóc rối bời.
Isabel thốt ra cái ý nghĩ vừa đến, cứ như để hiểu hơn. “Chưa bao giờ có đám tang...”
“Con nói gì kia?” Violet hỏi. Dạo này Isabel hay nói năng khó hiểu.
“Những người đã bỏ con – họ đều bị mang đi, biến mất. Biết đâu một đám tang sẽ... con không biết... làm cho mọi thứ khác đi. Hugh chỉ có mỗi tấm ảnh chụp tại ngôi mộ ở Anh. Alfìe chỉ còn là cái tên trên tấm bia tưởng niệm. Ba đứa con đầu tiên của con – ba đứa, má à, đều không được hát cho một bài thánh ca. Rồi giờ đây...” Isabel nghẹn ngào, “Lucy...”
Violet khỏng muốn làm lễ tang cho các con trai, vì nó là một thứ bằng chứng, có lễ tang có nghĩa là thừa nhận con bà đã chết. Và đã được chôn cất. Lễ tang như một sự phản bội. Không có lễ tang thì một ngày biết đâu chúng sẽ trở về, lượn vào trong bếp rồi hỏi tối nay má nấu món gì, rồi cười với bà về sự nhầm lẫn ngớ ngẫn đó. Sự nhầm lẫn đã khiến bà trong giây lát nghĩ rằng chúng đã ra đi mãi mãi.
Violet lựa lời cẩn thận. “Con à, Lucy không chết.” Isabel như không để ý đến lời nói đó. Violet nhướng mày. “Con không có lỗi gì cả, con à, má sẽ không bao giờ tha chứ cho anh ta.”
“Con tưởng anh ta yêu con, má à. Anh ta nói rằng với anh ta con là điều quý giá nhất trên thế gian. Rồi anh ta lại làm một việc khủng khiếp...”
Sau đó khi đánh bóng lại những chiếc khung bạc lồng ảnh các con trai, Violet lại nghĩ đến câu chuyện ban nãy, không biết là lần thứ bao nhiêu. Một khi đứa trẻ đã thuộc về trái tim ta, thì không còn chuyện đúng sai nữa. Bà biết nhiều người sinh con với những ông chồng họ căm ghét, hoặc tệ hon là sau khi bị cưỡng hiếp. Nhưng họ đều yêu thương đứa con vô cùng, mặc dù vẫn căm ghét kẻ vũ phu gieo chúng vào mình. Không thể nào mà không yêu thương con trẻ được, Violet biết quá rõ điều đó.
Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương -  M. L. Stedman Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương