Nguyên tác: Peste Et Choléra
Số lần đọc/download: 1280 / 46
Cập nhật: 2017-05-20 08:52:16 +0700
Ở Bombay
V
ừa về đến Nha Trang là Yersin yêu cầu Pesas tăng tốc độ sản xuất vắcxin, và Pesas, kiên định trong cương vị bác sĩ thú y, hứa với anh là sẽ tăng tốc. Rồi Yersin lên tàu đi Marseille gặt hái những vòng nguyệt quế vinh quang. Tháng Mười một, anh đến Paris cùng điều chế viên của mình, gặp lại Roux và Calmette, và cả bốn người đến tưởng niệm trước hài cốt Louis Pasteur, kể từ khi được tổ chức quốc tang nằm trong một hầm mộ ở nhà thờ Đức Bà trong khi đợi dược đưa về hầm mộ ở Viện. Trên Tập san Viện Hàn lâm Y học, chỉ trong vài trang, Yersin đặt dấu chấm hết cho cái lịch sử ghê gớm của dịch hạch. Hẳn người ta sẽ trao giải Nobel cho anh nếu khi ấy đã có giải Nobel. Giải thưởng đầu tiên sẽ được trao 5 năm sau đó. Lúc này còn chưa ai biết. Alfred Nobel qua đời vào tháng Chạp, điều đó nằm trong di chúc của ông.
Sau một tháng trên biển, ba tuần trên đất liền, họ đã ở trên các bờ kè Marseille. Một cuộc đời trăm cây số giờ, cơn lốc. Phileas Fogg và anh chàng Vạn Năng của mình, mắt không rời đồng hồ treo trên các phương tiện giao thông, chạy trên thang tàu thủy, nhảy lên bậc thang xe lửa. Và ta thấy ngạc nhiên rằng ông già Jules Verne, người đã từng viết về cuộc đời Livingstone, đã không viết một cuốn tiểu thuyết về những cuộc phiêu lưu sôi nổi và huyền hoặc của Yersin, không vẽ anh thành người hùng tích cực có khả năng góp phần vào sự nảy nở tinh thần của lớp độc giả trẻ. Ở chặng dừng Colombo, một phái đoàn Anh quốc, có lẽ cưỡi voi, ra bến cảng cùng ngài tiểu vương bàn địa. Một sĩ quan cao cấp lên tàu Melbourne xin được gặp Yersin. Đang có nạn dịch hạch ở Bombay.
Trong cabin của mình Yersin không có cả huyết thanh lẫn những con thú dùng để điều chế vắcxin. Đợi đó, tôi tới dây. Lúc anh xuống tàu ở Nha Trang, hai mươi tư con ngựa cái vừa chết vì bệnh than. Yersin yêu cầu Pesas nhanh tay hơn với những con còn lại trong đàn. “Ngay khi con tới nơi, bọn con đã chích máu cho hai con ngựa cái mà con thấy là được miễn dịch tốt nhất. Nếu huyết thanh của chúng tốt, con sẽ lấy rất nhiều máu và sẽ sang Ấn Độ ngay lập tức.”
Ngay lập tức, nhưng cũng phải mất đến hàng tuần, và mỗi tháng chỉ có một chuyến tàu. Họ sản xuất huyết thanh cho tới tận tháng Hai. Yersin mang theo trong hành lý của mình vài trăm liều, trong khi có lẽ phải cần đến hàng chục nghìn liều. Cùng lúc ấy, Pesas vẫn nhanh tay, có lẽ hơi quá đà. Cũng như trong mọi thứ nghề cần sự chính xác cao, nguy cư luôn là sự lặp lại. Ông tất bật quay cuồng, chạy từ phòng thí nghiệm sang khu nuôi gia súc. Bọn khỉ làm trò khỉ, lũ ngựa cái thì liên tục giở chứng, tung vó đá hậu làm đổ xô chậu, đám chồn hôi lội bì bõm trong máng ăn, hất đồ cả máng. Yersin còn đang trên biển thì Pesas gặp tai nạn trong phòng thí nghiệm.
Bức điện báo tin Pesas đã chết vì lây bệnh được gửi đến trụ sở Hãng Đường biển tại Colombo. Yersin đã trên đường đi Tamil Nadu, đến Madras, đi tàu hỏa ngang qua tiểu lục địa để đến Bombay. Tháng Ba, anh đóng đô ở tòa lãnh sự Pháp, tiến hành tiêm vắcxin cho cộng đồng Pháp, chữa khỏi bệnh cho cô con gái của thống đốc ngân hàng. Từ phía người Anh, phiền phức bắt đầu xuất hiện.
Bombay là một cảng biển lớn có tám trăm nghìn dân, giao dịch với London mang tầm quan trọng sống còn đối với thành phố. Gần như ở khắp nơi trên hành tinh, các đế chế thuộc địa đều tranh chấp biên giới, dàn quần đối mặt với nhau. Đây chính là Trò Chơi Vĩ Đại mà Connolly (Tác giả muốn nói tới Arthur Connolly (1807-1842), sĩ quan phản gián và nhà văn người Anh. Connolly là người tạo ra cụm từ “great game” để chỉ cuộc đụng độ giữa Đế chế Anh và Đế quốc Nga nhằm tranh giành vùng Trung Á) miêu tả. Một năm trước đó, ở Muang Sing, người Pháp đã buộc người Anh rời Bắc Lào, phải vượt sông Mê Kông, về hướng Tây. Một năm sau, người Anh sẽ trả được hận ở Fachoda, người Pháp phải rời khỏi bờ sông Nil. Loti khi ấy còn chưa viết cuốn Ấn Độ không bóng người Anh. Ta có thể cảm thấy ý tưởng này hẳn sẽ không làm Yersin thấy khó chịu.
Từ khắp mọi nơi, các phái đoàn y tế đổ tới nơi có người Ấn Độ bị dịch hạch, bác sĩ Nga, Áo, Đức, Ai Cập, Anh và Ý, tất cả đều đã ở đây trước khi Yersin tới. Họ giành giật những người hấp hối và các bí mật y học trong bầu không khí đậm mùi âm mưu và vô vọng. Hoạt động của cơ quan y tế còn khó khăn và bị phản đối dữ dội hơn so với những gì đã xảy ra ở Hồng Kông do người Hoa gây nên. Dân cư địa phương từ chối đến bệnh viện cách ly và các trạm cách ly không tuân thủ hệ thống đẳng cấp. Mặc cho loài gặm nhấm cứ đông nhung nhúc, công tác diệt chuột vấp phải nguyên tắc của đạo Phật là coi trọng sự sống. Ngay giữa những người của cánh Pasteur cũng nảy ra cuộc tranh luận được mệnh danh là “bạch huyết Haffkine”.
Haffkine, người đã kế nhiệm Yersin giảng dạy về vi khuẩn, vừa rời Viện đề mở phòng thí nghiệm riêng ở Calcutta, tại đó anh sản xuất thứ bạch huyết này, bị người ta tố cáo là gây ra những tác dụng phụ tồi tệ nhất. Bác sĩ Bonneau được cử từ Paris sang. Chánh thanh tra y tế thuộc địa cùng các thanh tra trợ tá tiến hành điều tra. Chính nhóm Bonneau đã tới giải quyết các xung khắc của nhóm Pasteur. Chánh thanh tra viết báo cáo: ‘Tuy tin vào khả năng tiêm vắcxin cho người chống lại dịch hạch nhờ phương pháp nuôi vi trùng ờ nhiệt độ cao, chúng tôi phản đối phương pháp của Haffkine vì nó quá sơ lược và quá nhanh, không đủ để tạo ra một sự miễn dịch hữu hiệu, và những mối nguy hiểm mà phương pháp ấy chứa đựng, so với các ưu điểm của nó, là quá đủ để lên án nó.”
Về phần Yersin, sự hỗn loạn lớn đến mức hoạt động của anh bị những người Anh quỷ quyệt kia ngáng chặn hoàn toàn: “Bác sĩ Yersin đã gặp rất nhiều khó khăn về vấn đề này. Các ca bệnh của ông đều thuộc các bệnh viện nằm dưới quyền các bác sĩ người Anh, thành thử ông không được thoải mái để hành động như cần thiết: người ta tiêm iốt vào hạch người bệnh của ông, kê cho họ mã tiền toan, cà dược, cây vòi voi, toàn những thứ thuốc vô ích, nếu không muốn nói là gây hại, thế nên việc thống kê những ca thế này không thể hiện được toàn bộ giá trị mà lẽ ra nó đã có nếu như ông được toàn quyền tiến hành chữa trị theo ý mình.” Yersin kiệt sức vì những trận cãi cọ, anh biết rõ là phải lờ chúng đi, chạy trốn, sang Cận Đông hay sang Harar.
Anh chán ngấy Bombay và người Anh đến tận cổ. Bên kia cũng thế. Người Anh rất khó chịu với mấy tay thanh niên Pháp không phải là Pháp kia, hoặc chỉ mới là người Pháp, như Yersin người Thụy Sĩ, hay Haffkine người Ukraine, đã thế vừa đến Paris họ mắc phải cái thói mà người Anh thấy tồi tệ nhất ở người Pháp, là thói to gan dạy dỗ thiên hạ, cả người Anh luôn, thói đế quốc hoặc thói Pasteur. Yersin đã rời Bombay để trốn khỏi cộng đồng y học. Anh một mình ở Mandvi, tít trên phía Bắc bang Gujarat, bán đảo Kutch, nơi nạn dịch đang giết chết một trăm người mỗi ngày. Anh nhanh chóng hết huyết thanh và quyết định rằng thế là quá đủ. Anh viết thư báo cho Calmette là sẽ ra đi. Anh đã nổi tiếng là một kẻ cô độc và thằng phá rối. Hẳn người ta thích biết là ở nhà ga, anh đã mua hai tập cuốn Truyện rừng của Kipling vừa xuất bản. Kipling sẽ sớm nhận giải Nobel, Yersin thì không bao giờ. Lúc này, dịch hạch đã lan tới Suez.
Viện Pasteur cử Paul-Louis Simond sang Bombay để thay anh. Calmette viết thư cảnh báo Simond: “Anh chàng Yersin tốt bụng này thực sự quá hoang dã. Thái độ của anh ta ở Bombay làm người ta rất khó chịu, và tôi e rằng anh sẽ khó mà thay đổi được cảm giác khó chịu do anh ta gây ra.” Quả thật, Simond được đón tiếp rất lạnh nhạt, và hình ảnh cánh Pasteur do Yersin và Haffkine để lại hơi giống hình ảnh một nhóm thanh niên cao ngạo phách lối quá sức tự tin, chỉ nhún vai không thèm nói gì khi nhận được một lời khuyên nhủ. Simond phàn nàn việc này về Paris và Calmette trả lời anh, “về những gì anh nói liên quan tới Yersin, tôi không hề thấy ngạc nhiên. Với tính khí man dại của mình, hẳn anh ta đã phạm phải vô số điều vụng về với các đồng nghiệp người Anh”. Simond sẽ phải mất trọn một năm mới vỗ về yên ổn được mọi phía. Rốt cuộc anh sẽ được chấp nhận vì phát hiện ra rằng rận chính là tác nhân truyền bệnh.
Yersin đọc báo cáo đó ở Nha Trang. Anh lắc đầu, anh đã nghĩ đến chuột mà quên mất rận. Rận là một loài côn trùng có cánh, điều này hẳn cha anh biết. Thí nghiệm của Simond rất đơn giản, nhốt một con chuột nhiễm bệnh vào một cái lồng nan, xung quanh đặt nhiều cái lồng nan khác có chứa chuột mới, người ta hay gọi lũ vật nuôi trong phòng thí nghiệm như vậy. Yersin, với tinh thần thượng võ, mau mắn chúc mừng Simond vì đã giải quyết xong căn nguyên của căn bệnh bằng sự bổ chính này.
Tay Simond này cũng đã đi không ít. Yersin tự hỏi giờ ông bạn cũ của mình có thể ở đâu. Đây đang là đầu năm 41. Yersin đã bảy mươi tám tuổi.
Liên lạc giữa châu Âu và Đông Dương gần như là không thể, hoặc chập chờn, vì có sự kiểm soát của kẻ chiếm đóng Nhật ở đầu này và của Đức ở đầu kia. Đã gần một năm kể từ khi ông ra khỏi con cá voi nhỏ màu trắng, trong cái nhàn rỗi bất đắc dĩ của mình, ông hình dung những người bạn cũ trong cỗ máy nghiền của cuộc chiến tranh. Trong ngôi nhà vuông lớn của mình ở Nha Trang, ông nghe đài Pháp và cố hiểu ý thức hệ của chính quyển Vichy, nghe đài Anh và đâm ra ngưỡng mộ người Anh, những kẻ duy nhất dám kháng cự. Đài Đức vẫn ca ngợi, để làm tuyên truyền, hiệp ước Molotov-Ribbentrop, sự cấu kết của chủ nghĩa phát xít với chủ nghĩa Stalin, rồi đột nhiên xe tăng Đức tiến vào xâm chiếm Liến Xô, hồi tháng Sáu. Yersin không hề ảo tưởng, có lẽ ông tự nhủ rằng đối với chính trị, chiến tranh cũng giống như trò thông dâm trong tình yêu, thỉnh thoảng cũng cần phải dùng đến nó. Sống lâu thế này liệu có đáng chăng?
Tất cả những tiến bộ mà ông là sứ giả liệu có đáng chăng? Thì đấy, các nhà vật lý bị nhốt ở Los Alamos đã sáng chế ra vũ khí nguyên tử. Khắp nơi, các phát minh của cánh Pasteur bị đem ra dùng để sản xuất vũ khí sinh học. Trên một đài Thụy Sĩ, ông nghe tin nhà văn Ái Nhĩ Lan từng là hàng xóm của ông ở khách sạn Lutetia chết ở Zurich, hồi tháng Giêng vừa rồi, Joyce tin rằng thế chiến là một âm mưu to lớn chống lại việc xuất bản tác phẩm Finnegans Wake mà cuối cùng thì ông cũng viết xong. Tất cả những chuyện đó đến trong óc ông lộn xộn, mất trật tự. Quân đội Thái Lan đóng minh với người Nhật xâm chiếm Campuchia và Lào, phá hủy sân bay Pháp ở Angkor, trạm dừng của con cá voi nhỏ màu trắng hãng Air France. Qua một bức thư của toàn quyền ở Hà Nội, đô đốc Decoux, ông được biết cái chết của Loir, người cháu của Pasteur, ông nhớ đến cái thời cả nhóm vẫn còn ở phố Vauquelin, trước khi Loir lên đường sang Úc. Theo tin gần đây nhất, ông ấy đang ở Le Havre. Khi có xung đột nổ ra, sống ở các cảng biển thật không hay ho gì. Ông biết gì về các trại tập trung Goulag và Treblinka, Yersin, lúc ấy đang ngồi một mình nghe đài trong đêm?
Ông biết rằng những người Do Thái ở Paris phải đeo ngôi sao vàng. Đã từ lâu ông không còn liên hệ với người bạn học cũ Sternberg. Ồng ấy phải chăng đã trở thành một bác sĩ hưu trí ở Marburg, thoát được lệnh cấm hành nghề bởi không còn hành nghề nữa? Những lúc bắt gặp bọn aryan (“Chủng tộc Aryan” là chủ thuyết hình thành ở châu Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khẳng định rằng người Đức chính là hậu duệ thuần chủng nhất và tinh túy nhất của người Aryan, và do đó xứng đáng để lãnh đạo thế giới. Hitler đã xây dựng Đảng Quốc xã dựa trên tinh thần này) trên phố, ông có phải rời vỉa hè không? Ông nhớ lại những hi vọng chung của họ, các cuộc trò chuyện về dịch hạch. Muốn dìm chó xuống nước thì cứ bảo nó bị dại. Ông biết rằng ở lối vào công viên Boucicaut, bên dưới khách sạn Lutetia, người ta đặt dựng tấm biển “Vườn chơi của trẻ em, Cấm Do Thái”. Sau trận Trân Châu Cảng, vào tháng Chạp, là cuộc chiến Thái Bình Dương, người Mỹ cho hạm đội tiến về phía Philippin. Tháng này qua tháng khác, tin tức luôn tồi tệ. Đã sang năm 42. Sống lưu vong bên Braxin, Zweig, người cũng giống như ông đêm đêm ngồi nghe đài, tự sát ở Petrópolis khi hay tin Singapore thất thủ, bởi có nghĩa tất cả đã mất. Yersin đã 79 tuổi.
Đô đốc Decoux, đang lánh nạn ở Đà Lạt, quấy nhiễu ông để ông viết lại lần nữa câu chuyện kỳ vĩ về nạn dịch hạch ở Hồng Kông, những lần tiêm vắcxin đầu tiên bên Trung Quốc. Ông biết rõ người ta muốn sử dụng ông cho các mục đích tuyên truyền, biến ông thành người lính trong cuộc chiến ý thức hệ. Tại cái xứ Đông Dương đang bị người Nhật chiếm đóng này, nhắc nhở việc Viện Pasteur đã thắng Viện Koch và Yersin đã thắng Kitasato, nói rằng không phải một bác học phe Trục đã chiến thắng nỗi kinh hoàng màu đen, và rằng thiên tài nằm bên phía Đồng Minh.
Bởi đã đọc lại những cuốn sổ, ông viết các kỷ niệm thám hiểm, hơi có chút cẩu thả. Được đăng báo. Thêm một lần nữa, ông biết rõ rằng người ta đang lợi dụng danh tiếng là đồ đệ cuối cùng Pasteur còn sống của ông, dù đó chỉ là một ngẫu nhiên của di truyền học. Một số người Việt Nam âm mưu cùng quân chiếm đóng đẩy nước Pháp thua cuộc ra. Đối mặt với sự vô ơn của bọn người Việt, Vichy định nhắc nhở họ rằng đường sá này, tàu hỏa này, tháp nước này, bệnh viện này: liệu nhờ bọn Nhật bẩn mà có, hả?