Nguyên tác: “Michel Strogoff’
Số lần đọc/download: 283 / 26
Cập nhật: 2020-07-19 20:13:48 +0700
Chương 28 - Giữa Hai Bờ
V
ào khoảng tám giờ tối, như tiết trời đã dự báo: bóng tối dày đặc bao trùm cả một vùng. Trăng hạ tuần chưa nhô lên khỏi chân trời. Từ giữa sông không trông thấy hai bờ. Những lèn đá cao chạm tới các cụm mây xám nặng trĩu không chuyển động. Từng đợt từng đợt những luồng gió đông tràn đến và tắt dần trong cái thung lũng nhỏ hẹp của lưu vực sông Angara này.
Bóng tối đã hỗ trợ đắc lực cho ý đồ của những người đi lánh nạn. Quả vậy, mặc dù các đồn bốt tiền tiêu của bọn Tactar rải ra khắp nơi dọc hai bờ sông, chiếc bè vẫn thực sự có cơ may không bị phát hiện. Bọn quân bao vây cũng thấy không cần ngăn chặn trên sông phía thượng lưu thành phố, vì chúng biết là quân Nga không thể trông đợi bất cứ một sự cứu viện nào từ mạn Nam. Vả lại cũng chẳng mấy đỗi mà thiên nhiên sẽ dựng lên chướng ngại: giá lạnh sẽ liên kết các tảng băng đang ùn lại giữa hai bờ, gắn chúng lại với nhau.
Trên bè lúc này ngự trị một sự im lặng tuyệt đối. Từ lúc bè xuôi dòng sông, không còn nghe thấy tiếng của những người hành hương. Họ vẫn lầm rầm cầu nguyện, nhưng chỉ nho nhỏ thầm thì, không thể vọng tới bờ. Những người đi lánh nạn nằm dán mình trên bè, so với mặt nước sông thì chỉ nhô lên độ một gang tay. Người thủy thủ cao niên nằm phía đầu mũi, cạnh những người giúp việc, chỉ có mỗi một việc là đẩy ra xa những tảng băng chặn ngang, lấy lối cho bè xuôi, không gây một tiếng động nào.
Nếu những tảng băng trôi này sẽ không biến thành chướng ngại chặn con bè lại, thì chuyến đi sẽ có điều kiện thuận lợi. Thực thế, nếu bè bị phơi ra trơ trụi một mình nó trên mặt nước không có những tảng băng trôi cùng, thì sẽ có nguy cơ bị phát hiện dù xuyên qua bóng đêm dày đặc. Thêm nữa, những tiếng lách cách cụng vào nhau của những tảng băng sẽ che lấp mọi tiếng động khả nghi khác.
Một cái lạnh cực kỳ gay gắt lan tỏa trong không gian. Những người tị nạn khốn khổ vô cùng, họ không có một chỗ trú nào ngoài mấy cành cây phong. Họ tựa sát vào nhau để tăng thêm sức ấm chống với nhiệt độ trong đêm hạ xuống tới 10 độ âm. Thỉnh thoảng một làn gió từ những dãy núi phía đông phủ đầy tuyết, thổi tới buốt như kim châm.
Misen Xtrôgôp và Nađia ngồi sát nhau phía cuối bè, cố chịu đựng, không một tiếng kêu ca. Anxiđ Jôlivê và Hary Blao bên cạnh hai anh em cũng ra sức chống chọi với cuộc tấn công đầu tiên của mùa đông xứ Xibir. Lúc này, không ai trong bọn họ còn sức để chuyện trò trao đổi dù chỉ thì thầm. Hoàn cảnh gay gắt hiện tại đã thu hút hoàn toàn tâm trí họ. Bất cứ lúc nào nguy cơ cũng có thể xảy ra: một hiểm họa, thậm chí, cả một tai biến có thể đẩy họ tới chỗ khó thoát ra một cách an toàn.
Như một con người luôn vững tin sắp đạt tới đích, Misen Xtrôgôp tỏ ra bình tĩnh lạ thường. Hơn nữa trong những tình huống nghiêm trọng nhất, đức tính kiên nghị không lúc nào rời bỏ anh. Anh đã mường tượng tới lúc anh được phép nghĩ tới mẹ, tới Nađia và tới bản thân! Anh chỉ còn sợ một rủi ro cuối cùng là chiếc bè bị những tảng băng chặn lại trước khi tới được Irkuxk. Anh chỉ còn nghĩ tới điều đó và kiên quyết mạo hiểm một lần nữa, nếu cần.
Nađia, lại sức qua một số giờ được nghỉ ngơi, đã có phần tươi tỉnh. Đôi lúc gian khổ và mệt nhọc quá sức đã làm cơ thể cô rã rời, nhưng sức mạnh tinh thần chưa hề bị suy suyển. Cô nghĩ tới trường hợp Misen Xtrôgôp phải nỗ lực một lần nữa để đạt tới đích, cô sẽ phải sẵn sàng để hỗ trợ anh như thế nào. Càng gần tới Irkuxk, hình ảnh người cha càng hiện rõ hơn trong tâm trí cô. Cô hình dung thấy ông, trong thành phố bị bao vây, xa những người thân yêu, nhưng cô không một chút nghi ngờ, ông vẫn chiến đấu chống giặc xâm lược bằng tất cả sức mạnh của lòng yêu nước. Một vài tiếng đồng hồ nữa, nếu Trời thương, cô sẽ ở trong vòng tay của cha, thuật lại với ông lời trối trăng của mẹ và không gì còn có thể làm cho hai cha con chia cắt nữa. Nếu án lưu đày của Vaxili Fêđor là vô thời hạn, thì con gái ông sẽ ở lại trong cảnh lưu đày với ông. Rồi, theo dòng suy nghĩ tự nhiên, ý nghĩ cô quay lại với người mà nhờ có anh cô sắp được gặp lại cha, quay lại với người bạn hào hiệp, với “người anh”, con người mà khi quân Tactar đã bị đánh lui, sẽ trở về Maxcơva và có thể cô không còn gặp lại nữa!...
Còn Anxiđ Jôlivê và Hary Blao, họ có một ý nghĩ giống nhau: Đó là một hoàn cảnh đầy kịch tính, nếu đạo diễn giỏi, thì sẽ có được những bản tin thời sự thật đặc sắc. Vậy là ký giả người Anh nghĩ tới độc giả tờ “Tin điện hàng ngày”, và ký giả người Pháp, tới độc giả của “cô em họ Mađơlen”. Trong đáy lòng, cả hai người đều cảm thấy xúc động.
“Càng hay! - Anxiđ Jôlivê nghĩ. - Tự mình thấy xúc động thì mới làm xúc động được người khác! Hình như có một câu thơ nổi tiếng về vấn đế này. Nhưng quỷ quái!... Nếu mình mà còn nhớ được!”.
Và với đôi mắt rất tinh, anh ra sức chọc thủng bóng tối dày đặc bao trùm mặt sông.
Nhưng lúc đó có những ánh lửa chốc chốc lại rực sáng xua tan bóng đêm và cắt nổi lên đủ các thứ hình khối trên bờ trông thật là kỳ quái. Đó là một cánh rừng đang bốc lửa, một xóm làng đang còn ngút cháy, sự tái hiện bi thảm những quang cảnh ban ngày trong sự tương phản của bóng đêm. Dòng sông Angara rực sáng từ bờ nọ sang bờ kia. Bao nhiêu tảng băng trôi là bấy nhiêu tấm gương phản chiếu dưới tất cả các góc độ, long lanh màu sắc. Chúng chen chúc, xô đẩy nhau và trôi dạt theo dòng chảy. Chiếc bè lút vào giữa những vật nổi đó như bị cuốn theo, khó bị phát hiện. Nhưng nguy cơ chưa phải là đã hết.
Tai họa ở một dạng khác đang đe dọa đời sống những người tị nạn. Mối nguy này không thể lường trước được và nhất là không tài nào chống đỡ nổi. Tình cờ, Anxiđ Jôlivê phát hiện được mối nguy đó trong trường hợp sau:
Nằm bên mép phía phải con bè, anh vô tình buông thõng bàn tay xuống nước. Thấy cảm giác là lạ, hình như có một chất gì nhờn nhờn bám vào tay mình... Đưa lên mũi ngửi: mùi dầu hỏa. Đúng là có một lớp đầu thô nổi trên mặt nước và đang trôi theo dòng sông Angara.
Như vậy, phải chăng là chiếc bè đang bồng bềnh trên cái chất lỏng vô cùng dễ cháy đó? Dầu thô ấy ở đâu ra? Có phải nó được phụt lên tự nhiên trên mặt sông Angara hoặc là nó được bọn Tactar dùng làm công cụ phá hoại? Chúng muốn gây hỏa hoạn đến tận Irkuxk bằng những phương tiện mà luật pháp chiến tranh không bao giờ cho phép giữa các quốc gia văn minh?
Đó là hai câu hỏi mà Anxiđ Jôlivê tự đặt ra, nhưng anh thấy chỉ cần cho Hary Blao biết sự kiện bất ngờ này thôi. Và cả hai đều nhất trí là không nên làm kinh động mọi ngươi trên bè, không cho họ biết mối hiểm họa mới đó.
Chúng ta biết là đất đai vùng Trung Á thẩm thấu nhiều chất cacbua hyđrô lỏng dễ cháy: ở cảng Baku, trên biển Caxpi, trong vùng Tiểu Á; ở Trung Quốc trong tỉnh Young-Hyan; ở Miến Điện... những suối dầu mỏ có đến hàng ngàn, âm ỉ ngấm lên mặt đất. Đó là những xứ sở của “dầu hỏa”, giống như tên một vùng tại Bắc Mỹ hiện nay.
Trong những ngày hội tôn giáo, chủ yếu ở cảng Baku, dân địa phương thờ thần Lửa, giội dầu thô lỏng lên mặt biển. Nhờ tỉ trọng nhẹ hơn nước nên dầu nổi lên trên. Rồi, đêm tối, khi một lớp dầu như thế được láng đều trên mặt biển Caxpi, họ bèn châm lửa và được chứng kiến một cảnh tượng vô song của một đại dương lửa quằn quại lượn sóng và cồn lên dưới làn gió nhẹ.
Nhưng cái chỉ là một trò giải trí ở Baku lại là cả một tai họa trên mặt nước sông Angara lúc này. Dù cho ác ý hay khinh suất, cẩu thả để cho lửa bén vào, thì chỉ trong nháy mắt đám cháy sẽ lan tràn tới tận phía bên kia Irkuxk.
Dù sao ở trên bè không sợ xảy ra sự cẩu thả, nhưng điểu đáng lo trước mắt là từ những đám cháy trên hai bờ sông Angara: chỉ một tia lửa hoặc một tàn lửa nhỏ rớt xuống cũng đủ để làm bùng lên một dòng thác lửa.
Những điều lo ngại của Anxiđ Jôlivê và Hary Blao chúng ta thấu hiểu được dễ hơn, nhưng khó có thể tả lên được. Đứng trước hiểm họa mới này, liệu có nên cho bè cặp bờ, đổ bộ và ngồi chờ? Họ tự hỏi như vậy.
- Tôi biết có một người sẽ không khi nào chịu lên bờ, dù cho nguy hiểm tới đâu! - Anxiđ Jôlivê nói.
Ý anh muốn ám chỉ Misen Xtrôgôp.
Nhưng chiếc bè vẫn trôi nhanh giữa những tảng băng mỗi lúc càng chen chúc nhau dày hơn.
Cho tới lúc này, chưa thấy bóng dáng một đơn vị quân Tactar nào trên bờ sông Angara; điều này chứng tỏ chiếc bè chưa trôi tới ngang các trạm gác tiền tiêu của chúng. Nhưng vào khoảng mười giờ đêm, Hary Blao trông thấy thấp thoáng nhiều hình thù đen đen ngọ nguậy trên những tảng băng. Những cái bóng đó nhảy từ tảng băng này sang tảng băng khác và xáp lại gần bè rất nhanh.
- Bọn Tactar! - Anh nghĩ thầm.
Và trườn tới gần người thủy thủ già chỉ huy đang ngồi phía trước mũi bè, anh chỉ cho ông thấy sự di động khả nghi đó.
Ông già chăm chú nhìn.
- Chỉ là những con sói! - Ông nói: - Thế còn hơn là bọn Tactar! Nhưng chúng ta phải tự vệ và không được gây tiếng động!
Đám người tị nạn phải chiến đấu với những con thú ăn thịt hung dữ đó. Đói và rét đã xua chúng chạy tới đây. Bầy sói đã đánh hơi thấy chiếc bè đầy người, chúng xông vào liền. Những người tị nạn phải đứng dậy tự vệ chống đàn sói đói hung dữ, nhưng không được dùng súng. Con bè của họ chẳng còn xa các đồn bốt Tactar là bao! Đàn bà, trẻ con được dồn vào giữa bè. Còn đàn ông: người cầm sào, gậy, kẻ rút dao... sẵn sàng đẩy lùi bầy thú dữ. Họ không kêu một tiếng, chỉ có những tiếng rú của bầy sói rít lên như xé không khí.
Misen Xtrôgôp cũng không ngồi yên. Anh ngả người trên rìa bè, phía bầy thú đang xông vào, rút dao ra và mỗi khi một con sói vào ngang tầm tay, anh nhè đâm trúng ngay họng nó.
Hary Blao và Anxiđ Jôlivê cũng không ngơi tay. Họ vất vả chống lại bầy sói. Đồng bọn dũng cảm hỗ trợ họ. Cuộc đâm chém, cắn xé diễn ra trong yên lặng. Nhiều người tị nạn không tránh khỏi bị những vết cắn khá trầm trọng.
Cuộc chiến đấu có vẻ còn kéo dài. Bầy sói mỗi lúc đến một đông hơn. Hữu ngạn sông Angara hẳn là nhung nhúc bầy thú dữ này.
- Chà, gay go quá nhỉ! - Anxiđ Jôlivê vừa kêu vừa huơ con dao dính máu đỏ lòm vẻ thất vọng.
Thực thế, sau nửa tiếng đồng hồ từ khi bắt đầu cuộc tấn công, hàng trăm con sói vẫn chạy đi chạy lại trên những tảng băng.
Những người trên bè kiệt sức, yếu đi trông thấy. Cuộc chiến đấu xoay ra có chiều bất lợi cho họ. Giữa lúc đó, một bầy khoảng mười con sói to lớn cực kỳ hung hãn vì đói khát và giận dữ, mắt đỏ rực như những cục than hồng trong bóng tối, chồm lên bè. Anxiđ Jôlivê và bạn anh lao vào giữa đám thú hung dữ này. Misen Xtrôgôp cũng trườn đến với họ, nhưng... thế trận bỗng thay đổi bất ngờ...
Chỉ trong vài giây, bầy sói không những tháo chạy khỏi bè, mà còn rời bỏ cả những tảng băng trôi rải rác trên sông. Tất cả những hình thù đen trũi bốn chân tản ra và trong nháy mắt chúng biến mất về phía hữu ngạn.
Với lũ sói này, cần phải có bóng tối, chúng mới dám hoành hành, nhưng lúc đó, một luồng ánh sáng chói lòa bỗng làm rực sáng lên cả một khúc sông Angara.
Đó là lửa của một đám cháy lớn và rộng bao la. Toàn bộ thị trấn Pôsơkapxk bị thiêu cháy. Bọn Tactar đang hoành hành ở đó. Từ điểm này trở đi, chúng dàn quân ra suốt cả hai bờ sông đến tận phía bên kia Irkuxk. Như vậy chiếc bè tị nạn đang lọt vào vùng nguy hiểm và họ hãy còn cách thủ phủ khoảng ba chục dặm.
Lúc đó là mười một giờ rưỡi đêm. Chiếc bè vẫn tiếp tục lướt đi trong bóng tối hoàn toàn lẫn vào giữa những tảng băng; nhưng đôi lúc có những mảng sáng lớn kéo dài chiếu đến tận bè.
Vì vậy những người tị nạn phải nằm yên không dám nhúc nhích sợ bị phát hiện.
Thị trấn bị thiêu cháy rất dữ dội. Nhà cửa toàn bằng gỗ thông, bắt lửa chẳng khác nhựa thông. Cùng một lúc, cả một trăm năm mươi căn nhà bốc lửa. Xen vào những tiếng nổ lộp độp của đám cháy là tiếng gào rú của bọn phỉ Tactar. Người thủy thủ già tựa tay vào những tảng băng trôi sát bên cạnh đẩy được chiếc bè tạt sang bên phải; từ đó đến bờ đang rực cháy của thị trấn Pôsơkapxk cách xa từ ba đến bốn trăm bộ. Chiếc bè, chốc chốc lại bị chiếu sáng chắc chắn là đã bị phát hiện nếu bọn đốt nhà không mải chăm chú vào “công việc” của chúng.
Chúng ta đoán hiểu nỗi khắc khoải lo sợ của Anxiđ Jôlivê và Hary Blao như thế nào, khi nghĩ tới cái chất lỏng dễ bắt lửa trên đó con bè đang trôi. Thực thế, bao nhiêu ngôi nhà là bấy nhiêu lò than hồng phụt ra từng chùm tia lửa. Giữa những đụn khói mù mịt, những tàn lửa bay lên cao đến năm, sáu trăm bộ. Trên hữu ngạn, đối diện với cảnh hỏa thiêu đó, cây cối và các lèn đá trông cũng như đang rực cháy. Chỉ cần một tàn lửa nhỏ rơi xuống là mặt nước sông Angara sẽ bùng lên và đám cháy lan ra theo dòng nước, tàn phá từ bờ nọ sang bờ kia. Chỉ trong thoáng lát là sẽ bị thiêu trụi cả bè và người.
Nhưng may sao, những làn gió nhẹ ban đêm lại không thổi về phía này. Chúng tiếp tục thổi tới từ phương đông và tạt lửa về bên trái. Như vậy chiếc bè tị nạn có nhiều cơ may thoát hiểm.
Cuối cùng, bè đã vượt qua thị trấn bốc lửa. Dần dần, ánh sáng của đám cháy yếu đi, tiếng nổ lốp bốp nghe vẳng từ xa và những vầng sáng cuối cùng khuất sau những lèn đá cao án ngữ một khuỷu bất ngờ của sông Angara.
Lúc đó vào khoảng nửa đêm. Bóng tối dày đặc che chở cho chiếc bè. Bọn phỉ Tactar vẫn đi đi lại lại trên hai bờ sông. Không trông thấy chúng, nhưng nghe thấy tiếng chúng nói. Ánh đèn các đồn tiền tiêu sáng chói lạ lùng!
Cần phải điều khiển con bè thật khéo léo và chính xác giữa đám băng trôi mỗi lúc một xít lại.
Ông già thủy thủ đứng lên và những người mugich nắm lấy những cây sào. Họ rất chật vật, rõ ràng là việc điều khiển con bè mỗi lúc một khó vì lòng sông bị nghẽn lại dần.
Misen Xtrôgôp tập tễnh đi tới tận đầu mũi bè. Anxiđ Jôlivê đi theo anh. Cả hai lắng nghe cuộc đối thoại giữa ông già thủy thủ và thủ hạ của ông:
- Chú ý về bên phải!
- Kìa, những tảng băng tạt sang trái!
- Đẩy! Lấy sào đẩy ra!
- Chẳng mấy chốc nữa, chúng ta sẽ bị chặn đứng!
- Nếu đó là ý Trời! Chẳng có cách nào chống lại được đâu! - Ông già nói.
- Anh có nghe họ nói gì không? - Anxiđ Jôlivê ghé tai hỏi Misen Xtrôgôp.
- Có! Nhưng Trời ở về phía chúng ta.
Tuy nhiên, tình thế càng trở nên nghiêm trọng. Nếu chiếc bè bị chặn lại, thì không những người tị nạn không thể đi tới được Irkuxk, mà còn bắt buộc phải rời bỏ chiếc bè, vì nó sẽ bị những tảng băng tứ phía dồn ép, làm cho tan vỡ và sẽ mau chóng chìm nghỉm. Những sợi dây mây sẽ đứt tung, những thân cây thông bị tách rời ra, chui xuống dưới lớp vỏ băng cứng và những người tị nạn bất hạnh sẽ không còn chỗ nào đặt chân ngoài chính những tảng băng đó. Rồi, trời sáng, họ bị phát hiện và bọn phỉ Tactar sẽ tàn sát họ không chút nương tay.
Misen Xtrôgôp quay lại phía cuối bè, nơi Nađia đang chờ. Anh đến gần cô gái, nắm tay cô và hỏi câu bất di bất dịch: “Nađia! Em đã sẵn sàng chưa?” Và cô gái cũng đáp như mọi khi:
“Em luôn sẵn sàng!”.
Chiếc bè vẫn trôi giữa những tảng băng nổi lềnh bềnh thêm một vài dặm nữa. Nếu dòng sông Angara co hẹp lại, các tảng băng sẽ kết thành một chướng ngại và lúc đó sẽ không còn cách nào để xuôi theo dòng chảy nữa. Bè đã trôi chậm lại rất nhiều. Chốc chốc đụng vào một tảng băng, bè lại quay đảo. Rồi, chỗ này một vật cản phải tránh, chỗ kia có một khe hở phải lách qua. Thế là tốc độ bè bị chậm lại một cách thật đáng lo ngại.
Đêm tối chỉ còn một vài giờ. Nếu những người tị nạn không tới được Irkuxk trước năm giờ sáng, thì họ hoàn toàn hết hy vọng vào được trong thành.
Vào khoảng một giờ rưỡi đêm, mặc dầu hết sức cố gắng tránh mọi tình huống xấu, con bè cuối cùng vẫn vấp vào một chướng ngại dày đặc không sao còn có thể nhúc nhích được nữa. Những tảng băng từ thượng nguồn dồn về ép chặt con bè vào bức thành chướng ngại đó làm nó hoàn toàn bất động y như tàu bị mắc cạn trên một mỏm đá ngầm.
Ở quãng này dòng Angara thắt lại, lòng sông chỉ con rộng bằng một nửa so với những nơi khác. Do đó những tảng băng dồn đông lại, dần dần dính chặt vào nhau dưới sức ép rất lớn ở cả hai phía và dưới cái giá lạnh, mà cường độ tăng lên gấp bội. Năm trăm bộ về phía hạ lưu dòng sông lại mở rộng và những tảng băng, rời ra từ cạnh dưới bãi băng lớn, tiếp tục trôi xuôi về Irkuxk. Vậy rất có thể, nếu không có chỗ thắt lại này thì chiếc bè vẫn có thể tiếp tục trôi xuôi, dù có chậm hơn một chút, vì xen lẫn vào những tảng băng, nhưng bức thành chướng ngại sẽ khó có thể hình thành được. Tai họa này không sao cứu vãn nổi, những người tị nạn đành phải từ bỏ mọi hy vọng đi tới đích.
Giá mà họ có sẵn trong tay những dụng cụ của những người săn cá voi thường dùng để mở những con lạch qua “bãi băng”, giá mà họ có thể cắt ngang các bãi này cho đến chỗ lòng sông mở rộng, thì đi đến nơi vẫn còn kịp! Nhưng khổ nỗi, không có lấy một cái cưa, một chiếc choòng, không có một dụng cụ gì để làm sứt mẻ được cái vỏ mà giá lạnh đã làm cho cứng lại như đá hoa cương này.
Giữa lúc đó, có những loạt súng nổ vang trên hữu ngạn. Một trận mưa đạn bay vế phía con bè. Họ đã bị phát hiện chăng? Chắc thế, vì những tiếng nổ khác lại vang lên từ tả ngạn, Bị kẹt giữa hai lưới lửa, những người tị nạn trở thành những tấm bia cho bọn xạ thủ Tactar. Một vài người đã bị dính đạn, cũng chỉ là hú họa vì bóng tối vẫn đen ngòm.
- Lại đây, Nađia! - Misen Xtrôgôp thầm thì vào tai cô gái. Không một chút do dự, “sẵn sàng làm tất cả”, Nađia nắm lấy tay anh.
- Phải vượt qua chướng ngại! - Anh nói nhỏ với Nađia. - Em hướng dẫn anh, nhưng đừng để ai thấy chúng ta rời bè!
Nađia tuân theo. Misen và cô gái trườn nhanh trên mặt băng, giữa bóng tối dày đặc, thỉnh thoảng lóe sáng những đường đạn bắn.
Nađia bò phía trước Misen. Những viên đạn rơi quanh họ, lộp bộp trên mặt băng như mưa đá. Bãi băng gồ ghề, dọc ngang đầy cạnh sắc cứa làm tay tóe máu, nhưng họ vẫn tiếp tục trườn lên.
Mười phút sau, tới được mé dưới của bãi băng. Tại đây, nước sông Angara lại chảy tự do. Một vài tảng băng tách ra từ bãi băng lớn trôi theo dòng chảy xuôi về thành phố.
Nađia biết Misen đang tính toán gì. Cô nhìn thấy một tảng băng chỉ còn dính hờ vào bãi băng.
- Lại đây, anh! - Nađia bảo anh. Và cả hai nằm dài trên tảng băng đó. Một cái lay nhẹ, tảng băng rời khỏi bãi băng. Nó bắt đầu trôi. Lòng sông rộng ra dần. Đường đi đã thông suốt.
Misen Xtrôgôp và Nadia nghe thấy những tiếng súng nổ, những tiếng kêu tuyệt vọng, tiếng gào thét của bọn phỉ Tactar vẳng đến từ mạn thượng lưu... Rồi những tiếng kêu hoảng hốt cùng với những tiếng reo vui man rợ xa dần và im bặt.
- Tội nghiệp những người bạn đường! - Nađia lẩm bẩm.
Trong nửa tiếng đồng hồ, dòng nước cuốn nhanh tảng băng mang Misen và Nađia. Họ sợ bị chìm nghỉm bất cứ lúc nào. Tảng băng trôi giữa sông. Chỉ khi nào muốn cặp bờ thì mới cần lái nó đi chéo vào.
Misen Xtrôgôp, răng nghiến chặt, vểnh tai nghe ngóng không nói một lời. Chưa bao giờ anh gần đích như lúc này. Anh cảm thấy sắp tới nơi rồi.
Vào quãng hai giờ sáng, hai chuỗi ánh đèn như những ngôi sao rọi vào chân trời sẫm tối. Hai bờ sông Angara nhập nhòa mờ tỏ.
Phía phải, ánh sáng hắt ra từ thành phố Irkuxk và phía trái, lửa trại quân Tactar.
Misen Xtrôgôp chỉ còn cách thành phố nửa dặm.
- Thế là tới rồi! - Anh thở phào lẩm bẩm.
Nhưng Nađia bỗng kêu lên thảng thốt.
Nghe tiếng kêu, Misen Xtrôgôp đứng bật lên trên tảng băng dập dình. Anh giơ tay về phía thượng nguồn sông Angara. Khuôn mặt anh được chiếu sáng bởi những tia phản quang xanh lè trông thật khủng khiếp. Và lúc đó, đôi mắt anh như mở to ra nhìn. Anh kêu lên:
- Ôi! Thế ra chính ngay cả Thượng đế cao cả cũng chống lại ta ư!