Số lần đọc/download: 1286 / 41
Cập nhật: 2016-06-26 15:55:02 +0700
Chương 28
Thứ Năm, ngày 15 tháng Bảy năm 1999
Somerset
Chúng bắt đầu xuất hiện. Con sóng bất tận với những chiếc phong bì thêu sang trọng lần lượt được thả trên thảm chùi chân trước cửa. Những thiệp mời dự đám cưới.
Đây không phải là làn sóng cưới hỏi đầu tiên. Một số người hiện đại thậm chí đã kết hôn tại trường đại học, một cách hết sức ngượng ngập trong tuần lễ vui chơi, một kiểu mô phỏng đám cưới, giống như “những buổi dạ tiệc” vui nhộn của sinh viên, nơi mọi người mặc đồ dạ hội để thưởng thức món mì ý trộn cá thu bỏ lò. Tiệc cưới sinh viên là những buổi dã ngoại trong công viên địa phương, khách mời mặc những bộ vest Oxfam và những bộ váy cưới dùng rồi, sau đó đến quán rượu. Trong những bức ảnh cưới, cô dâu và chú rể thường đưa ly rượu lên hướng về phía máy chụp hình, một điếu thuốc đung đưa trên miệng của cô dâu, và quà cưới thường rất khiêm tốn: một cuộn băng cực hay; được dựng lên bằng cách ghép các hình ảnh lại; một hộp nến. Kết hôn ở trường đại học là một trải nghiệm thú vị, một hành động nổi loạn nhẹ nhàng, giống như một hình xăm nhỏ chưa ai nhìn thấy hay cạo trọc đầu vì mục đích từ thiện.
Làn sóng thứ hai, những đám cưới giữa độ tuổi hai mươi, vẫn duy trì phần nào đặc tính bông đùa theo kiểu gia đình đó. Tiệc cưới diễn ra tại các trung tâm công cộng và trong vườn nhà bố mẹ, lời thề nguyện được tự soạn và hoàn toàn không mang tính tôn giáo, và dường như ai đó luôn đọc bài thơ về cơn mưa với những bàn tay nhỏ. Nhưng rồi xu hướng nghề nghiệp hóa đầy lạnh lùng và cứng nhắc bắt đầu xuất hiện. Ý tưởng về “danh sách quà cưới mơ ước” bắt đầu nảy nở.
Tại một thời điểm nào đó trong tương lai, làn sóng thứ tư sẽ xuất hiện - Đám Cưới Lần Thứ Hai: những cuộc tình ngọt ngào lẫn cay đắng, đầy hối tiếc đến xót xa sẽ kết thúc vào lúc 9 rưỡi vì lý do con cái. “Không có gì to tát,” họ sẽ nói thế, “chỉ là một cái cớ để tổ chức tiệc tùng.” Nhưng vào thời điểm hiện tại, năm nay là năm của làn sóng thứ ba, và chính làn sóng thứ ba này đang chứng tỏ rằng nó mạnh mẽ nhất, ngoạn mục nhất và có sức tàn phá nhất. Xuất hiện những đám cưới của những người thuộc độ tuổi từ đầu đến giữa ba mươi, và không ai còn cười được nữa.
Không thể ngăn chặn được làn sóng thứ ba này. Mỗi tuần dường như đều mang đến một phong bì màu kem sang trọng, cỡ bằng độ dày của một bom thư, chứa đựng một lời mời rối rắm - một chiến tích về thiết kế - và một tài liệu hoàn chỉnh gồm số điện thoại, địa chỉ email, các trang web, hướng dẫn đường đi, cách ăn mặc và chỗ mua quà. Những khách sạn vùng quê luôn được đặt chỗ trước, những quần thể cá hồi bị đánh bắt, những chiếc lều vải to xuất hiện qua đêm giống như những thành phố lều trại của dân du mục. Com lê bằng lụa xám và mũ chóp cao được người ta bỏ tiền ra thuê rồi đội lên đầu với khuôn mặt hoàn toàn nghiêm nghị; thời gian trở nên quý giá đối với những người bán hoa và những người cung cấp thực phẩm, các dàn nhạc dây và những người mời đến khiêu vũ, những người thợ chạm khắc băng và các nhà sản xuất loại máy chụp hình dùng một lần. Các nhóm nhạc mô phỏng lúc nào cũng bận rộn đến mức kiệt sức. Nhà thờ cũng trở nên hợp thời hơn, và thời gian này, cô dâu chú rể sẽ đi một quãng đường ngắn từ nơi linh thiêng đến địa điểm tiếp khách bằng một loại xe buýt mái trần, trong những quả khinh khí cầu, trên lưng những chú ngựa trắng đồng màu, hay trên những chiếc máy bay cỡ nhỏ. Một đám cưới đòi hỏi phải dạt dào tình yêu, phải có cam kết và thời gian nghỉ làm, không phải chỉ từ các vị khách mời. Một hộp hoa giấy có giá tám bảng Anh. Một bịch gạo ở cửa hàng góc phố chẳng còn khiến người ta phải đắn đo suy nghĩ khi mua.
Ông bà Anthony Killick mời Emma Morley và người thương đến dự tiệc cưới của con gái chúng tôi là Killy Killick với Malcolm Tidewell.
Tại một trạm xăng trên đường cao tốc, Emma đang ngồi trong chiếc xe mới của mình, chiếc xe đầu tiên mà cô có được, chiếc Fiat Panda đã qua ba người sử dụng, và nhìn chăm chú vào tấm thiệp mời, biết chắc rằng thể nào cũng có hình đàn ông hút xì gà và người Anh nào đó mặc váy.
“Emma Morley và người thương.”
Bản đồ mà cô đang sử dụng là một phiên bản cũ với nhiều khu phố chính vẫn chưa được vẽ nên. Cô xoay nó 180o rồi sau đó trở lại 90o nhưng cứ như đang cố tìm đường đi bằng một cuốn điền thổ và cô gấp nó lại để qua chỗ ghế trống bên cạnh, nơi được dành cho bạn trai tưởng tượng của cô.
Emma lái xe rất tồi, vừa cẩu thả vừa cứng nhắc, và trong năm mươi dặm đầu tiên, cô đã lái một cách lơ đãng với cặp mắt kính đeo ngoài kính áp tròng, vì thế cô không hiểu các phương tiện khác từ đâu lù lù xuất hiện đầy đe dọa chẳng khác nào những chiếc phi thuyền ngoài không gian xa lạ. Cô thường xuyên dừng lại giữa chừng cho huyết áp ổn định và thấm mồ hôi ở môi trên, đồng thời với tay tìm túi xách để kiểm tra trong gương xem lớp trang điểm trên mặt mình có vấn đề gì không, thi thoảng lại lén nhìn chính mình để đánh giá tác dụng của nó. Màu son môi đỏ hơn và gợi tình hơn cô nghĩ, chút phấn nền cô xoa vào má giờ trông quá đậm và lố bịch, hệt như cách người ta vẫn hóa trang trong một vở hài kịch thời kỳ khôi phục chế độ quân chủ Anh. Cô tự hỏi sao lúc nào mình cũng trông như một đứa trẻ đang tìm cách nghịch ngợm đồ trang điểm của mẹ? Cô còn mắc phải một sai lầm cơ bản là cắt tóc, không, đúng hơn là tạo kiểu, từ ngày hôm qua, và giờ mái tóc cô vẫn còn đang xõa xuống thành nhiều lớp, vểnh ra đầy nghệ thuật; thứ mà mẹ cô hẳn sẽ gọi là “làm đầu”.
Cảm thấy thất vọng, cô giật mạnh vào mép áo đầm, một chiếc áo bằng vải lụa xanh lơ đậm, hay chất liệu gì đó giống lụa, được thiết kê theo kiểu Trung Hoa khiến cô trông như một cô hầu bàn phúng phính buồn rầu trong cửa hàng thực phẩm Golden Dragon. Khi cô ngồi xuống, chiếc váy phồng lên rồi căng ra, và có hợp chất gì đó bên trong loại vải “lụa” này cùng nỗi sợ trên đường cao tốc đang khiến cô toát mồ hôi. Hệ thống điều hòa của chiếc xe có hai chế độ, quạt gió và xông hơi, và tất cả những gì thanh lịch, tao nhã đã biến mất tại một chốn nào đó bên ngoài Maidenhead, thay vào đó là hai vệt mồ hôi sẫm màu bên dưới cánh tay. Cô nâng khuỷu tay lên ngang đầu, nhìn xuống những vệt mồ hôi đó và tự hỏi có nên quay xe lại, về nhà thay đồ? Hoặc đơn giản là chỉ cần quay lại. Về nhà, ở nhà, tiếp tục viết gì đó với cuốn sách. Suy cho cùng, cô và Tilly Killick chẳng phải là đôi bạn thân thiết gì. Những ngày tháng đen tối khi Tilly còn là chủ nhà của cô trong căn hộ chật chội ở Clapton đã để lại trong cô một ấn tượng không hề tốt đẹp, và họ chưa bao giờ giải quyết được mâu thuẫn về việc không hoàn loại số tiền đặt cọc cần phải hoàn lại. Thật khó chịu khi phải chúc mừng đôi vợ chồng mới cưới khi cô dâu vẫn còn nợ bạn năm trăm bảng.
Mặt khác, những người bạn cũ sẽ có mặt ở đó. Sarah C, Carol, Sita, cặp sinh đôi Watson, Bob, Mari Đầu Bự, Stephanie Shaw từ nhà xuất bản, triệu phú bánh sandwich Callum O’Neill. Dexter cũng sẽ có mặt. Dexter và bạn gái của cậu ấy.
Và chính lúc này, khi cô ngồi đưa hai nách lên lỗ thông gió của hệ thống điều hòa, tự hỏi nên làm gì thì Dexter đã lướt vù qua cô trong chiếc xe thể thao Mazda của anh, Sylvie Cope đang ngồi bên cạnh.
“Vậy những ai sẽ có mặt ở đó?” Sylvie hỏi, vặn nhỏ đài xuống. Cô chọn nhóm nhạc rock Travis để thay đổi không khí. Sylvie không quan tâm nhiều đến âm nhạc nhưng Travis thì ngoại lệ.
“Toàn là bạn bè từ hồi đại học thôi. Paul, Sam, Steve O’D, Peter và Sarah, cặp sinh đôi Watsons. Và Callum.”
“Callum. Được đấy, em thích Callum.”
“Mari Đầu Bự, rồi Bob nữa. Chúa ơi, toàn là những người đã nhiều năm rồi anh không gặp. Cả cô bạn cũ Emma nữa.”
“Bạn gái cũ?”
“Không, không phải bạn gái cũ…”
“Bạn chơi bời.”
“Không phải bạn chơi bời, chỉ là một người bạn cũ.”
“Giáo viên tiếng Anh à?”
“Từng là giáo viên tiếng Anh, giờ là nhà văn. Em đã nói chuyện với cô ấy tại đám cưới của Bob và Mari, nhớ không? Ở Cheshire ấy.”
“Ngờ ngợ thôi. Có vẻ cô ấy rất lôi cuốn thì phải.”
“Có lẽ thế.” Dexter nhún vai. “Bọn anh đã cãi nhau một thời gian. Anh đã kể với em rồi đó, nhớ không?”
“Mọi chuyện cứ lẫn hết vào nhau.” Cô xoay mặt ra cửa sổ. “Thế hai người đã có gì với nhau chưa?”
“Không, bọn anh không có gì với nhau cả.”
“Thế còn cô dâu?”
“Tilly ư? Cô ấy thì sao?”
“Anh đã bao giờ ngủ với cô dâu này chưa?”
Tháng Mười hai năm 1992, căn hộ khủng khiếp ở Clapton đó luôn có mùi hành phi. Một lần mát xa chân đã vượt khỏi tầm kiểm soát trong khi Emma đang ở Woolworths.
“Dĩ nhiên là không. Em nghĩ anh là gì chứ?”
“Có vẻ như mỗi tuần, chúng ta lại tham dự một đám cưới với cả đống người mà anh đã từng ngủ cùng.”
“Không phải thế.”
“… đầy một lều vải. Giống như một buổi hội thảo.”
“Không phải, không phải thế.”
“Đúng thế.”
“Này, giờ anh chỉ có một mình em thôi.” Một tay đặt trên vô lăng, anh với tay kia đặt lên bụng Sylvie, lúc này vẫn phẳng lì bên dưới lớp vải xa tanh màu hồng đào của chiếc đầm ngắn, đoạn lần xuống đùi cô.
“Đừng để một mình em nói chuyện với người lạ nhé?” Sylvie nói, và bật nhạc to lên.
Quá giữa chiều, Emma mới đến được cổng bảo vệ của tòa nhà uy nghiêm đó, lúc này cô đã trễ giờ mời và mệt nhoài, tự hỏi liệu họ có cho cô vào. Một khu điền sản lớn ở Somerset, các nhà đầu tư khôn ngoan đã biến Công viên Morton Manor thành một khu phức hợp với tất cả-trong-một dành để tổ chức tiệc cưới, với đầy đủ nào là nhà thơ riêng, hội trường lớn đặt tiệc, một mê cung, một khu suối khoáng, phòng ngủ dành cho khách với nhà tắm trong suốt, tất cả những nơi này đều được bảo vệ bởi một vách tường cao vút với hàng dây kẽm gai giăng bên trên: và tựu trung trông đây như một trại cưới. Với những công trình và hang động, hàng rào thấp và vọng lâu, một lâu đài và một nhà hơi, đây đích thị là một khu Disneyland cao cấp dành cho các buổi tiệc cưới, luôn sẵn sàng phục vụ vào những ngày cuối tuần với mức giá cắt cổ. Có vẻ như đây là điểm đến bất thường đối với một cựu thành viên đảng Lao Động, và Emma lái xe dọc theo con đường rải sỏi trong trạng thái kinh ngạc, bối rối vì tất cả những điều này.
Trong khuôn viên nhà thờ nhỏ, một người đàn ông đội một bộ tóc giả màu trắng, mặc áo choàng dài của tên lính hầu lao ra phía trước cô, vẫy vẫy ống tay áo ra hiệu cô xuống xe và nghiêng người vào cửa sổ.
“Có vấn đề gì không?” cô hỏi. Cô đã muốn nói là “sĩ quan.”
“Tôi cần chìa khóa, thưa cô.”
“Chìa khóa?”
“Để đậu xe.”
“Ôi Chúa, thật sao?” cô nói, cảm thấy bối rối bởi rêu mốc, mọc quanh cửa xe, lớp phủ trên bảng đồng hồ, và những chai lọ nhựa rỗng vứt lăn lóc trên sàn xe. “À được, cửa xe không khóa, anh phải sử dụng cái tua vít này để đóng nó lại và không có thắng tay, vì thế anh cứ đậu sát mép một gốc cây hoặc cứ để nguyên thế không cần về số, được chứ?” Người lính hầu cầm lấy chìa khóa giữa ngón cái và ngón trỏ như thể anh ta vừa nhận một con chuột chết.
Cô đã lái xe trong đôi chân trần và lúc này nhận thấy cần phải nhét cặp chân sưng vù vào đôi giày của mình, giống như một bà chị kế xấu xí. Buổi lễ đã bắt đầu. Vọng ra từ nhà thờ là bản nhạc “The Arival of the Queen of Sheba” được chơi bời bốn, có lẽ là năm đôi tay đeo găng. Cô khập khiễng băng qua con đường rải sỏi đến nhà thờ, hai cánh tay nâng lên cho ráo mồ hôi, giống như một đứa trẻ vờ làm máy bay, rồi với một cái giật mép áo lần cuối, cô dè dặt bước qua cánh cửa gỗ sồi lớn và đứng ở phía sau giáo đoàn đông đúc. Lúc này, một nhóm nhạc acapella đang biểu diễn, vừa bật ngón kêu tách tách một cách điên rồ vừa hát “I’m into Something Good” khi đôi uyên ương hạnh phúc đang nhìn nhau cười toe toét, mắt rơm rớm. Đây là lần đầu tiên Emma nhìn thấy chú rể: kiểu vận động viên bóng bầu dục, bảnh bao trong bộ vest lễ phục màu xám nhạt và trên mặt vẫn còn vết cạo râu, anh ta xoay khuôn mặt to của mình về phía Tilly, với nhiều sắc thái khác nhau để thể hiện “khoảnh khắc hạnh phúc nhất của đời mình.” Emma thấy một điều khác thường là cô dâu chọn trang phục theo phong cách của Marie-Antoinette - áo lụa hồng viền đăng ten và váy phồng, tóc búi cao, một nốt ruồi duyên - khiến Emma tự hỏi là liệu bằng tốt nghiệp môn Lịch sử và Pháp văn của Tilly có không xứng đáng. Dù sao thì cô ấy trông rất hạnh phúc, anh ta cũng rất hạnh phúc, và cả giáo đoàn đều rất đỗi hạnh phúc.
Hết bài hát này nối tiếp bài hát khác cho đến khi tiệc cưới sắp trở thành một buổi biểu diễn của hoàng gia, và Dexter bắt đầu cảm thấy chán nản. Đứa cháu gái với đôi má hồng hào của Tilly lúc này đang đọc một bài thơ xo nê, nội dung đại loại nói về cuộc hôn nhân của hai tâm hồn không bao giờ chấp nhận trở ngại, hay bất kỳ hàm ý chết tiệt nào khác. Khó khăn lắm, anh mới tập trung được vào nội dung của bài thơ để áp dụng đối với tình cảm lãng mạn mà anh dành cho Sylvie, sau đó hướng sự chú ý sang việc có bao nhiêu người tham dự tiệc cưới này mà anh đã ngủ cùng. Không phải vì thèm muốn, không hẳn thế, mà bởi một nỗi niềm hoài cổ, luyến tiếc. “Tình yêu sẽ không thay đổi trong vài giờ hay vài tuần ngắn ngủi…” tiếng cô cháu gái của Tilly đang đọc khi Dexter đếm được năm người. Năm người yêu cũ trong một nhà thờ nhỏ. Đây có phải là một kỷ lục không? Có nên gộp cả cô dâu vào không? Không thấy bóng dáng Emma Morley đâu cả. Nếu tính cả Emma thì con số là 5,5.
Từ phía sau nhà thờ, Emma nhìn thấy Dexter đang đếm ngón tay, và tự hỏi anh đang làm gì. Anh mặc một bộ vest đen với cà vạt đen; giống như tất cả thanh niên hiện nay, cố gắng để trông giống găngxtơ. Nhìn nghiêng, đã thấy một đường vòng nhỏ xuất hiện dưới quai hàm nhưng anh vẫn đẹp trai. Đúng là đẹp trai kiểu ngốc nghếch, đỡ xanh xao và húp híp hơn so với thời gian trước khi anh gặp Sylvie. Kể từ lần rạn nứt giữa hai người, Emma đã gặp anh ba lần, cả thảy đều tại các buổi tiệc cưới. Mỗi lần gặp nhau, anh đều choàng tay quanh cô, hôn cô như thể không có gì thay đổi, và bảo “chúng ta phải nói chuyện, chúng ta phải nói chuyện,” nhưng điều đó chưa bao giờ thật sự xảy ra. Anh lúc nào cũng ở cạnh Sylvie, hai người họ luôn bận rộn với việc tỏ ra xinh đẹp. Và lúc này, một bàn tay cô ta đang đặt trên đầu gối Dexter như muốn chứng tỏ sự sở hữu anh, đầu và cổ của cô ta trông như một bông hoa thân dài, đang vươn ra để đón nhận tất cả.
Lúc này, cô dâu chú rể đang trao lời nguyền. Emma nhìn qua đúng lúc Sylvie đưa tay ra nắm lấy tay Dexter và siết chặt năm ngón tay anh như thể có sự gắn kết với cặp đôi hạnh phúc kia. Cô ta thì thầm vào tai anh và Dexter nhìn lên, mỉm cười rạng rỡ, có chút gì đó mơ màng. Emma thầm nghĩ vậy. Anh thủ thỉ điều gì đó, và qua cử động miệng, Emma nghĩ có khả năng đó là câu “Anh cũng yêu em.” Theo bản năng, anh nhìn quanh và bắt gặp cái nhìn của Emma, liền cười toe toét như thể bị bắt quả tang đang làm một việc không nên.
Màn trình diễn kết thúc. Chỉ còn đủ thời gian cho một vở diễn “All You Need Is Love”, giáo đoàn đang cố gắng hát trước khi khách mời theo chân cô dâu chú rể ra ngoài và cuộc đoàn tụ bắt đầu. Qua đám đông reo hò, ôm hôn, bắt tay, Dexter và Emma đã tìm thấy nhau và lúc này họ đang đứng cạnh nhau.
“Chào,” anh nói.
“Chào.”
“Tôi có biết cậu không nhỉ?”
“Khuôn mặt cậu trông quen quen.”
“Cậu cũng thế. Cậu trông thật khác.”
“Đúng, mình là người phụ nữ duy nhất ở đây đang ướt sũng mồ hôi,” Emma nói, giật giật phần vải bên dưới cánh tay.
“Ý cậu là ‘đổ mồ hôi’.”
“Thật ra là không, đây là mồ hôi. Trông mình như vừa được kéo từ dưới hồ lên. Chúa ơi lụa tự nhiên đấy!”
“Phong cách phương Đông à?”
“Mình gọi nó là Mùa thu Sài Gòn. Chính xác là Trung Hoa. Dĩ nhiên, điều rắc rối với một trong những loại váy kiểu này là cứ bốn mươi phút sau cậu lại muốn có một chiếc khác!” cô nói, và khi đang nói nửa chừng, cô có cảm giác rằng tốt hơn hết là không bắt đầu. Liệu do cô tưởng tượng hay anh hơi tròn mắt lên? “Mình xin lỗi.”
“Được mà. Mình thật sự thích chiếc váy này. Thật ra mình thích từ lâu rồi.”
Cô tròn mắt. “Cậu lại thế rồi; chúng ta giờ không còn nợ nần gì nhau hết.”
“Ý mình là cậu trông ổn đấy chứ.” Lúc này anh đang nhìn lên đỉnh đầu cô. “Có phải đó là…”
“Cái gì?”
“Có phải đó là thứ người ta gọi là Rachel không?”
“Đừng nghĩ lúc này cậu cũng may mắn nhé, Dex,” cô nói, lập tức đưa tay lên cào cào mái tóc. Cô nhìn qua chỗ Tilly và chồng mới cưới của cô ta đang tạo dáng chụp hình. Tilly đang ve vẩy cái quạt trước mặt một cách đỏm dáng. “Tiếc là mình không được biết đám cưới được tổ chức theo chủ đề Cách mạng Pháp.”
“Phong cách Marie-Antoinette phải không?” Dexter hỏi. “Ít ra thì chúng ta cũng biết thể nào cũng sẽ có bánh kem.”
“Hình như cô ấy đến địa điểm tổ chức tiệc cưới bằng xe bò.”
“Xe bò là gì?”
Họ nhìn nhau. “Cậu vẫn không thay đổi gì cả sao?” cô nói.
Dexter đá một hòn sỏi. “À có chứ. Một chút thôi.”
“Nghe tò mò quá nhỉ.”
“Mình sẽ kể với cậu sau. Nhìn kìa...”
Tilly đang đứng trên bậc lên xuống của chiếc Rolls-Royce Silver Ghost, cách điểm bày yến tiệc hàng trăm mét, hai tay đang cầm bó hoa và chuẩn bị tung lên như trò ném lao.
“Em, có muốn thử vận may không?”
“Không thể nào chộp được,” cô nói, đưa hai tay ra sau lưng đúng lúc bó hoa rơi xuống đám đông và được một bà cô già yếu ớt bắt trúng, khiến cho cả đám đông có phần bực tức như thể cơ hội cuối cùng cũng có được niềm hạnh phúc tương lai của ai đó đã bị lãng phí. Emma gật đầu chỉ về bà cô bối rối kia, bó hoa đang lủng lẳng vẻ khổ sở trên tay bà ta. “Hình ảnh của mình lúc bốn mươi tuổi đấy,” Emma nói.
“Thật sao? Bốn mươi ư?” Dexter nói, và Emma ấn mũi giày vào góc chân anh. Qua vai cô, anh có thể nhìn thấy Sylvie ở gần đó, đang nhìn quanh quất tìm mình. “Mình phải đi đây. Sylvie không quen biết ai ở đây. Mình có nhiệm vụ là không được rời khỏi cô ấy. Đến gặp cô ấy nhé?”
“Để sau đi. Mình nên đến nói chuyện với cô dâu hạnh phúc đã.”
“Nhớ hỏi về khoản tiền đặt cọc cô ta còn nợ cậu.”
“Cậu nghĩ thế thật à? Đúng hôm nay ư?”
“Hẹn gặp lại sau nhé. Có lẽ chúng ta sẽ ngồi cạnh nhau tại buổi tiệc.” Anh làm dấu chúc may mắn, và cô cũng làm tương tự.
Buổi sáng u ám đã chuyển thành một buổi chiều thật đẹp, trên cao những đám mây chầm chậm bay qua bầu trời xanh ngắt khi những vị khách mời bước theo chiếc Silver Ghost đến bãi cỏ lớn để thưởng thức sâm banh và bánh ngọt. Ở đó, với một tiếng kêu thảng thốt, cuối cùng, Tilly đã nhìn thấy Emma, và họ ôm nhau trong phạm vi có thể quanh chiếc váy phồng của cô dâu.
“Mình rất vui vì cậu đã đến, Em à!”
“Mình cũng thế, Tilly à. Cậu trông lộng lẫy quá.”
Tilly ve vẩy cái quạt. “Cậu có nghĩ là hơi quá không?”
“Không hề. Trông cậu lộng lẫy lắm,” và mắt cô một lần nữa nhìn vào nốt ruồi duyên trông như con ruồi đang đậu trên môi cô ta. “Buổi lễ cũng rất vui vẻ.”
“Óaaaa, thật hả?” Tilly có một thói quen là hay mở lời mỗi câu nói bằng từ “oa” biểu cảm, như thể Emma là một chú mèo con đã làm đau móng vuốt của cô nàng. “Cậu có khóc không?”
“Như một đứa trẻ mồ côi...”
“Óaaaa! Mình rất, rất vui vì cậu đã được.” Theo kiểu vua chúa, cô ta dùng quạt đập vào vai Emma. “Mình rất muốn gặp bạn trai cậu.”
“Mình cũng thế, nhưng tiếc là không có ai sất.”
“Óaaaa, không có sao?”
“Không, lúc này thì không.”
“Thật sao? Cậu có chắc không đấy?”
“Tilly, mình nghĩ là mình sẽ lưu ý vấn đề này.”
“Óaaaa! Mình xin lỗi. Được, hãy tìm một anh chàng THẬT NHANH VÀO! Không, nói nghiêm túc thì có bạn trai quả là rất tuyệt! Lấy chồng càng tuyệt hơn! Bọn mình phải tìm cho cậu một người mới được!” cô ta ra lệnh. “Tối nay! Bọn mình sẽ tìm cho cậu một người!” và Emma cảm thấy đầu mình đang được vỗ về bằng lời nói. “Óaaaa! Thế cậu đã gặp Dexter chưa?”
“Vừa gặp một lúc.”
“Gặp bạn gái cậu ta chưa? Với cái trán lông lá ấy? Cô ta cũng xinh xắn đấy chứ? Giống hệt Audrey Hepburn. Hay Katharine? Mình không thể nhớ rõ sự khác biệt.”
“Audrey. Cô ấy là một Audrey.”
Sâm banh tuôn ra và một cảm giác hoài cổ tràn ngập khắp bãi cỏ khi những người bạn cũ gặp nhau và cuộc trò chuyện chuyển thành việc mọi người lúc này kiếm được bao nhiêu tiền, hay đã tăng bao nhiêu ki lô.
“Sâm banh. Đó là tương lai,” Callum O’Neill nói, người giờ đây vừa kiếm được nhiều tiền và vừa tăng cân đáng kể. “Chất lượng cao, thực phẩm tiện dụng phù hợp về mặt đạo đức, đó là nơi của nó, bạn của tôi ạ. Thực phẩm là một loại rockn’roll mới!”
“Mình tưởng hài kịch mới là một loại rockn’roll mới.”