People sacrifice the present for the future. But life is available only in the present. That is why we should walk in such a way that every step can bring us to the here and the now.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Bùi Tín
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 49
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 65
Cập nhật: 2023-03-26 22:28:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 23
nh chị em cán bộ còn kháo nhau: ngoài cái vụ hợp nhất các tỉnh và các huyện ra, tai hại hơn là hồi 1983, ông Duẩn cao hứng đề xuất việc đưa cấp huyện lên trở thành cấp chiến lược, khác với xưa nay, huyện là cấp trung gian giữa xã và tỉnh. Theo hướng ấy, 400 huyện sẽ là 400 đơn vị kinh tế cơ bản hoàn chỉnh. Thế là cơ quan tất cả các huyện bành trướng rất nhanh, mỗi huyện có đến 30, 40 công ty khác nhau, cùng với hơn 20 phòng chuyên môn! Biên chế tăng, ngân sách chi trả về tiền lương tăng, mà hiệu quả thì không rõ! Sau gần ba năm triển khai, từ khi ông Duẩn mất, chẳng còn ai mặn mà với cấp huyện nữa. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, bầy biện càng lắm mà không có đủ nguyên vật liệu, tài chính thì chỉ thêm lảng phí và cách bức. Gần đây đã phải thu hẹp biến chế cấp huyện, chấm dứt một cuộc phiêu lưu về tổ chức. Đất nước đã nghèo lại nghèo thêm là từ những chủ trương ngẫu hứng của người lãnh đạo như vậy đó. Người ta than thở: "Cụ" mất rồi mà nay việc dọn dẹp những bãi rác "cụ" để lại vẫn còn mất biết bao công của và thời gian..."
Đây là những vấn đề cho chúng ta suy ngẫm để rút kinh nghiệm cho việc xây dựng một chính quyền thật sự dân chủ, có hiểu biết sâu rộng và vững chắc.
Về ông Trường Chinh (Đặng Xuân Khu), điểm nổi bật là trình độ hiểu biết khá sâu rộng. Ông chịu khó đọc sách và suy nghĩ. Trung văn và Pháp văn ông đều am hiểu khá. Ông chăm chỉ và cẩn thận. Cho nên có lúc người ta đã đặt bí danh cho ông là Thận, anh "Thận" bên cạnh bí danh cũ "anh Nhân". Ông cẩn thận đến từng câu, từng chữ, từng dấu chấm, dấu phẩy. Khi nói cũng thế, ông nói rõ, đúng văn phạm, từ tốn, chuẩn xác, từng câu, từng chữ một. Ông có làm thơ (ký tên Sóng Hồng) nhưng thơ không thật là thơ, thiếu ý thơ, thiên về sáo ngữ và có tính cách hô hào mà thiếu âm hướng sâu bền. Văn chính luận của ông rõ ràng, khúc chiết, lập luận chặt chẽ- Sau sai lầm cải cách ruộng đất mà ông trực tiếp chịu trách nhiệm, ông hầu như không muốn nhắc đến chuyện ấy nữa. Ông có cái nhìn rất nghiêm khắc, đòi hỏi ở xung quanh nếp sống đúng giờ giấc, kỷ luật, viết và nói đúng như nghị quyết, luôn luôn giữ đứng lập trường của đảng. Một thiếu sót của ông về sau là thiếu hẳn sự tiếp xúc với nhân dân. Theo những lời ông kể (ông Nguyễn Văn Phùng, phó Viên trưởng viện lịch sự đảng, và tôi là hai người được nghe ông kể trong 6 buổi sáng ở Đà Lạt tháng 6 năm 1985) thì thời hoạt động bí mật, ông có những chủ trương và phong cách khá đặc sắc. Ông hoạt động rất khôn khéo, tháo vát, nhiều lần tránh được các cuộc vây bắt của mật thám. Khi thì giả người dạy học, người đi buôn, khi thì giả lái đò, viên chức nhỏ. Hồi trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, có người muốn đưa ATK (An toàn khu) của trung ương đảng cộng sản lên vùng rừng núi, vùng biên giới Việt- Trung, nhưng ông một mực giữ chủ trương ATK phải ở gần thủ đô Hà Nội, không quá một ngày đường đi xe đạp để bắt mạch được tình hình trong nước và thế giới. Ông tạo được cơ sở là một nhóm công nhân ở nhà in TAUPIN. Chiều nào Phủ toàn quyền Đông Dương cũng cho một người Pháp đưa đến in một thông báo nội bộ về tình hình chiến sự, tình hình thế giới và trong nước, in ra chừng 60 bản để phát cho quan chức Pháp cấp cao. Hai anh công nhân bao giờ cũng in thử và giữ lại một bản mô- rát (bản mô- rát chính thì người Pháp đốt trước khi rời nhà in). Ngay tối hôm ấy bản mô- rát được đưa lên ATK ở vùng Đông Anh hoặc Bắc Ninh. Ông cũng có cơ sở trong một viên chức ở Hà Nội, có đài thu thanh, ông này thường ghi lại những tin tức chính, hàng ngày có người đến nhận để mang lên ATK. Ông Trường Chinh đã viết chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" trong điều kiện ấy. Từ khi không làm Tổng bí thư nữa, vị trí của ông giảm hẳn. Khi ông là Chủ tịch Quốc hội, tôi đã đi theo đòan của ông đi thăm các địa phương ở Bình trị Thiên và Nam Bộ. Chẳng còn là ông Nhân xưa đi xe đạp trong kháng chiến, ghé các nhà cơ sở ăn khoai luộc với muối, uống nước chè xanh...Lúc nào cũng là đoàn xe Volga bóng lộn, người đưa kẻ đón, diễn văn, tiệc tùng...Sức khỏe cũng không cho ông xông xáo như xưa. Những lời phát biểu của ông ngày càng hình thức, cứng nhắc.
Tôi thấy cần công bằng với ông ở hai điểm: Hồi 1960 khi có cuộc tranh luận lớn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và do đó trong đảng cộng sản Việt Nam có những khuynh hướng khác nhau. Ông lúc đầu đã có chủ trương tán thành nội dung đại hội 20 đảng cộng sản Liên Xô, lên án tệ sùng bái cá nhân Staline và tán thành đường lối chung sống hòa bình do Krouchev khởi xướng. Về sau chính ông Lê Duẩn đã chủ trương ngả về phía Trung Quốc và lôi cuốn cả Bộ Chính trị và Trung ương theo hướng đó. Những ai không tán thành đều bị chụp mũ là "xét lại", là "chống đảng". Do bản tính dĩ hòa vi quý, lại ở trong thế yếu, nên ông Trường Chinh không có phản ứng gì. Đến năm 1986, khi thấy ông Lê Duẩn vừa mất, đảm nhận chức quyền Tổng bí thư, ông đã có ý thức trách nhiệm rõ rệt, tiếp nhận xu hướng đổi mới dứt khoát của Liên Xô và phác họa ra cả một kế hoạch đổi mới rất rõ nét, có bài bản cho Việt Nam. Uy tín ông dâng lên, cho nên đến Đại hội 6, khá đông đoàn đại biểu (mà khởi đầu là đại hội đảng toàn quân đội) đã đề xuất bộ ba mới sẽ là: ông Trường Chinh làm Tổng bí thư, ông Phạm Văn Đồng làm chủ tịch Hội đồng nhà nước và đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch Hội đồng bộ trưởng. Sự sắp xếp này đã bị ông Lê Đức Thọ phá vỡ bằng cách viết thư thuyết phục (trên thực tế là ép) hai ông Trương Chinh và Phạm Văn Đồng cùng với chính ông ta thôi không tham gia trung ương nữa, chỉ nhận chức cố vấn Ban chấp hành trung ương đảng. Hiện nay vẫn còn khá nhiều đại biểu dự đại hội VI luyến tiếc sự sắp xếp trên kia và nhận xét: Đại hội VI là đại hội của ông Sáu (tên thường gọi của ông Lê Đức Thọ).
Vào lúc cuối đời, ông có một nét nhỏ làm tôi suy nghĩ và nhớ mãi. Hồi tháng 6. 1985 khi ông cùng gia đình đi nghỉ ba tuần ở Đà Lạt, ông yêu cầụ ông Nguyễn Văn Phùng ở Viện nghiên cứu lịch sử đảng và tôi đi theo để làm việc. Một hôm sau khi kể xong, nghỉ chờ ăn cơm, ông kéo riêng tôi vào buồng ngủ (đây là biệt dinh 1, nơi nghỉ của vua Bảo Đại và gia đình hồi xưa), chỉ chiếc giường có nệm gấm vàng thêu rồng và chăn vàng thêu phựơng cùng với hai chiếc gối gấm vàng, chúm miệng lại nói rất nhỏ như để khoe: Chú vào đây, chú biết không, đây là phòng ngủ, kia là giường, nệm, chăn, gối của vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương đó! Lúc ấy bà Trường Chinh ngồi ngay trên chiếc ghế ở trong phòng.
Tôi vừa buồn cười, vừa sửng sốt đến ngỡ ngàng. Hóa ra một vị lãnh đạo công sản kỳ cựu, từng chủ trương lật đổ ngai vàng này lại tỏ ra thích thú và xúc động đến thế, khi được ngủ trong phòng, đắp chăn và dùng gối nệm đầy những biểu tượng rồng phượng của hoàng đế và hoàng hậu thời xưa!.
Khi bàn với chúng tôi về viết giúp ông cuốn hồi ký, ông Trường Chinh nhận xét: "Chớ có viết như loạt bài Thời thắng Mỹ của Thép Mới. Nói không đúng sự thật. Hay gì cái thói thổi phóng, thêu dệt! Đó là thái độ cuả kẻ cơ hội- Mà người ta còn sống cả kia mà! Viết thế là hại cho anh Ba (ông Lê Duẩn). Cũng chớ có viết như Đại Thắng mùa xuân (của tướng Văn Tiến Dũng, Hồng Hà ghi), nói không đúng sự thật, các chú không biết sao! Khi in thành sách đã phải chữa đến hơn 30 chỗ, ai biết người ta cười cho!"
Hai ngày trước khi ông mất đột ngột, ông đã gặp những người đang giúp ông viết Hồi Ký. Ông ngã khi đang lên thang gác, đầu va phải bậc đá. Chiếc ảnh ông chụp hôm ắy với chúng tôi là bức ảnh cuối cùng của ông.
Về ông Phạm Văn Đồng, tôi có một sự kính trọng và quý mến từ lâu. Ông đựơc cán bộ và nhân dân quý trọng về cách sống dản dị, thái độ ngay thật, có văn hóa. Cuộc đời riêng của ông buộc ông phải chịu đựng với nghị lực cao. Vợ ông, một người đẹp ở hiệu kem Zephir trước cửa hàng Thủy tạ, bờ hồ Hoàn Kiếm, từng giúp đỡ các chiến sĩ cách mạng thời kỳ bí mật, đã bị ốm khi ông cùng bà từ Liên khu năm lên Việt Bắc năm 1949. Bà bị bệnh tâm thần ở thể u uất rất nặng, chỉ ngồi thừ một chỗ, rũ rượi, u buồn. Hai ông bà có một con trai rất ngoan, học giỏi, một thời ở trong quân đội, nay đã hơn 40 tuổi. Dương, tên anh_ là nguồn an ủi lớn của ông. Thường cứ tối thứ bẩy ông đến ăn cơm với vợ, với cái nghĩa vợ chồng chung thủy. Những ngày thường, ông sống một mình với công việc, đọc sách, nghe đài- Từ ba năm nay mắt ông gần như lòa hẳn, không hồi phục được. Ông thường giải trí bằng cách nghe đọc những đoạn văn hay của Victor Hugo và Anatole Francẹ..sau khi đi bách bộ sáng và chiều, mối buổi cố đi được 2 đến 3 km.
Ông là một người trí thức chịu khó tìm hiểu tình hình và suy nghĩ, có tấm lòng với đất nước. Ông rất dễ xúc động, có lúc rơi nước mắt trước những thân phận xót xa của con người, nhất là cúa trẻ em và phụ nữ. Ông từng có những tác phẩm khá tốt như bài viết dài in thành sách về Nguyễn Trãi, nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của nhân vật kiệt xuất của dân tộc được cả thế giới ngưỡng mộ như một danh nhân.
Nhưng nhiều anh chị em trí thức vừa thương, lại vừa chê ông vì sự nhu nhược khi làm trong cơ chế. Tôi đã nghe ông than vãn đến 6 lần: "Tôi là thủ tướng nhiều tuổi nhất (ông làm thủ tướng đến tuổi hơn 70), nhưng cũng là thủ tướng bất lực nhất!" Rồi ông trần tình: "Tôi không có quyền, tôi nói mà chẳng ai nghe cả- Đến thay đổi một thứ trướng, tôi đề nghị thôi mà cũng không được, chưa nói đến chọn bộ trưởng!"
Người ta trách ông: sao ông không đấu tranh, không đặt vấn đề trách nhiệm đi đôi với quyền lực, ông không có quyền thì còn ai có quyền nữa. Thế nhưng rồi ai cũng thông cảm với ông vì cái cơ chế này nó kỳ lắm, đảng tự đặt trên chính quyền, dẫm chân lên chính quyền, dựa trên một nguyên tắc nhắc đi nhắc lại hoài như một chân lý: đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và thường xuyên. Như về lựa chọn cán bộ, thì Ban tổ chức trung ương đảng quyết định tất cả, chính phủ chỉ cúi đầu chấp nhận. Ông là người ít nói nhất trong bộ Chính trị- Có lẽ vì ông nhẫn nhục, ông dứng ngoài mọi sự cạnh tranh, đua tranh về quyền lực, về phe nhóm. Ông chỉ phát biểu khi thật cần, và những câu thường có trọng lượng giầu suy nghĩ. Đó là cuối năm 1974, khi thảo luận về quyết tâm trong mùa xuân 1975, ông phát biểu: "Về khả năng phản ứng của chính phủ Mỹ, tôi đã suy nghĩ về vấn đề này hơn tuần này và có thể khẳng định: chuyến này cho ăn kẹo chính phủ Mỹ cũng không quay trở lại can thiệp đâu, ta cứ mạnh dạn mà làm ăn. Ta cứ đưa hết quân chiến đấu vào miền Nam đi- Vâng, cho ăn kẹo Mỹ cũng không trở lại nữa!"- ông cười. Thường là ông nói xong là cười rất hồn nhiên, sáng khoải, một tràng cưòi rộ ra rất thoải máị..
Ông sống ngay thẳng có công tâm, trong sạch. Ông sống co lại, gần như cô độc. Khi người thư ký riêng của ông- nhà khoa học cũng là nhà thơ VIT PHƯƠNG- bị đối xử oan uổng, bị chụp mũ là "xét lại" chỉ vì vài câu thơ bộc trực, lên án những thói xấu ở đời, ông cũng chỉ im lặng, không hùa theo để lên án, nhưng cũng chẳng bênh vực. Cho đến khi sóng yên bể lặng, ông Việt Phương trở lại làm việc ở viện Quản Lý kinh tế thì ông lại vời ông Phương đến để dùng tài vào việc viết lách giúp ông...Con người ông là thế đó. Có lẽ kinh nghiệm lớn nhất về ông Phạm Văn Đồng là: một con người có tâm huyết, có hiểu biết khá rộng, thông minh và sắc sảo đã bị cơ chế cứng ngắc làm cho vô hiệu. Vấn đề quyết định là cơ chế, một cơ chế hỏng sẽ cản trở mọi tài năng và tâm huyết.
Còn đại tướng Võ Nguyễn Giáp? Tôi từng biết ông từ rất lâu, tháng 9. 1945, khi ông đến lớp Quân chính ở trường Đỗ Hữu Vỵ giảng về chiến tranh du kích, về vai trò của đấu tranh vũ trang trong đấu tranh cách mạng. Tôi cũng gặp ông ở Hội nghĩ về chiến tranh du kích ở Bình Trị Thiên. Sau đó là những cuộc Hội nghị quân chính hàng năm. Năm 1975, ông vào Sài Gòn mấy ngày sau Toàn thắng. Tôi còn nhớ hôm ấy, ngày 7. 5 thì phải, ông được đón từ sân bay Tân Sơn Nhất vê Đinh Độc Lập mới trở thành "Nhà khách của chính phủ". Đêm đó một viên tướng trong ủy ban quân quản ngỏ lời: "Thưa anh, chúng tôi có chiếc đàn dương cầm loại tốt lấy được trong căn cứ quân sự, xin để gửi anh chơi thử. " Tôi thấy đại tướng Giáp nổi giận quắc mắt: Sao lại vậy? Không được! Tôi mà nhận đàn dương cầm thì anh em khác nhận gì? Không được. Kỷ luật chiến lợi phẩm phải nghiêm từ trên xuống dưới". Tôi càng quý thêm ông Giáp hôm ấy. Về sau chiến lợi phẩm bị chia chác bừa bãi, mạnh ai nấy lấy, vì sau Đại hội đảng lần thứ tư cuối năm 1976, ông Văn Tiến Dũng trên thực tế đã thay ông Giáp làm Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng.
Từ một ông tú, rồi ông cử (ông tốt nghiệp cử nhân luật khoa trường Đại học Hà Nội năm 1936) rồi làm giáo sư sử học rất có tín nhiệm với học sinh (có học sinh còn nhớ rõ ông từng say sưa giảng dạy về cách mạng Pháp năm 1789 và ca ngợi nhiệt thành Denton, Marat, Robespierre ra saọ..)
Ông thông minh, có trí nhớ tốt, luôn ham mê đọc sách báo, hiểu biết mới mẻ, cho đến tận bay giờ. Đến phòng làm việc của ông, sách đặt ngổn ngang có trật tự, nhiều cuốn đang đáng dấu bằng các mẩu bìa, nơi cần đọc và tra cứu. (Mỗi lần đến gặp ông tôi lại nhớ phòng làm việc và nhà ở của một đại tướng khác, cùng žy viên bộ Chính trị cho đến hết đại hội đảng 5, xuất thân từ một cố nông ở Nghệ An, sách rất nhiều, nhưng luôn là sách trang trí, xếp rất đẹp thành hàng thẳng tắp, trong hàng loạt tủ kính và bao giờ cũng đứng nghiêm không động đậy như để chờ duyệt binh vậy! Hai phong cách, từ hai nguồn văn hóa và tập quán giai cấp!...
Cán bộ quý trọng và tin cậy ông. Ông đào tạo được một đội ngũ sĩ quan trẻ, có học thức, tận tụy và theo gương ông dản dị và liêm khiết. Chính tư duy khoa học, giỏi biên chứng pháp mác xít từ tuổi trẻ đã giúp ông chỉ huy và lãnh đạo quân đội rất nhanh nhạy và sâu sắc, trong công tác tổng kết ông nắm bắt mọi tình hình mới, hiện tượng mới để tìm hiểu và nâng cao lên trong nhận thức. Khoa học quân sự được chính ông đích thân phát triển và ông coi trọng việc quảng bá cho lớp lớp cán bộ- Có thể nói những chiến thắng quân sự đã bắt nguồn từ đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng dắn. cương vị Bộ trưởng quốc phòng và Tổng tư lệnh, ông đã để lại một dấu ấn khá sâu.
Cũng có thể nói số phận ông quả là lận dận. Năm 1982, ông bị đưa ra khỏi bộ Chính Trị, chỉ còn là žy viên trung ương đảng, được phân công là Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng phụ trách về công tác khoa học. Ông còn kiêm nhiệm một số vấn đề khác có tính chất mặt trận, có khi hiếu hỷ (trong các cuộc kỷ niệm), hoặc như chủ tịch ủy ban sinh đẻ có kế hoạch (để một nhà báo phương Tây nói vui rằng: chiến trường của đại tướng Giáp ngày nay là chiếc giường của những cấp vợ chồng trẻ), còn văn học dân gian trên đường phố thì cho rằng thời buổi này thật lạ lùng:
• Nhà chính trị đi làm thơ
• Nhà thơ đi làm kinh tế
• Còn thống chế đi đặt vòng...
trong nước và ở nước ngoài, người ta băn khoan đặt nhiều câu hỏi về đại tướng Giáp- Vì sao ông lại bị đưa ra khỏi bộ Chính trị năm 1982 tại Đại hội V? Lúc ấy cơ quan lãnh đạo giải thích rằng vì tuổi tác và sức khoẻ, dể nhường cho những người trẻ hơn! Thế nhưng sao lúc ấy các ông Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh...cũng cao tuổi, sức yếu lại không nhường cho người khác? Giải thích thế là không ổn.
Trong đảng, ông Giáp ở vị trí rất cao và rất sớm. Ngay sau cách mạng tháng Tám 1945, Ban thường vụ trung ương đảng (ngang với Bộ Chính trị sau đó) chỉ có chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Võ Nguyên Giáp, ông Lê Đức Thọ và ông Hoàng Quốc Việt- Về sau có thêm ông Nguyễn Lương Bằng (Sao Đỏ)- Ông Phạm Văn Đồng đến năm 1947 mới vào Trung ương, ông Lê Duẩn sau này mới vào Bộ Chính trị.
trong hàng ngũ những cán bộ cao cấp, nhiều người cho rằng ông Lê Duẩn luôn có thái độ chê bai và muốn hạ thấp vai trò cũng như uy tín của ông Giáp. Tôi đã dự nhiều cuộc nói chuyện của ông Lê Duẩn sau năm 1975. Rõ rệt nhất là ở Tòa soạn báo NHÂN DÂN tháng 3. 1983 nói chuyện với cán bộ từ hàng vụ trưởng trở lên, ông ngang nhiên nói: "Hồi đó (hồi đánh Mỹ), bộ trưởng quốc phòng nhát như thỏ đế, vừa dánh Mỹ mà vừa run như vậy này (ông co người lại run rẩy). Do đớ chúng tôi không để cho chỉ huy, chúng tôi phải trực tiếp nắm tình hình và chỉ đạo chiến tranh, và trên thực tế đã thay người khác trong nhiệm vụ Bộ trưởng Quốc phòng...". một số cuộc họp khác, ở Hà Nội và Sài Gòn, ông cũng nói như vậy, đả kích rõ rệt đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Thật ra không phải chỉ gần đây, mà từ năm 1962, ông Giáp đã bị gián tiếp đụng chạm khá mạnh. Đó là thời kỳ đấu tranh quan điểm chuẩn bị cho hội nghị trung ương lần thứ 9 cuối năm 1963. Cuộc Hội nghị 81 đảng cộng sản và công nhân thế giới hồi năm 1960 diễn ra rất gay gắt, chia làm hai phe: Liên Xô và Trung Quốc- Ai đứng đầu phong trào? Phong trào có một đầu hay hai đầu? Bên này gọi bên kia là giáo điều, bảo thủ. Bên kia gọi bên này là xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Mao đả Krouchev khá gay gắt và Krouchev cũng lên án Mao khá mạnh. Bộ Chính trị đảng cộng sản Việt Nam dần dần ngả hẳn về phiá Mao. Mỗi buổi sáng dài Hà Nội phát tất cả những văn kiện dông dài của đảng cộng sản Trung Quốc công khai tranh luận với đảng cộng sản Liên Xô, "bảo vệ đến cùng, không khoan nhượng sự trong sáng của chủ nghĩa Mác- Lê Nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. "
Hoa Xuyên Tuyết Hoa Xuyên Tuyết - Bùi Tín Hoa Xuyên Tuyết