I would never read a book if it were possible for me to talk half an hour with the man who wrote it.

Woodrow Wilson

 
 
 
 
 
Tác giả: Jules Verne
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 53
Cập nhật: 2021-05-22 19:07:47 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 27 - Eo Biển Magellan - Những Vùng Đất Và Đảo Lân Cận - Những Trạm Có Thể Dừng Chân - Dự Án Cho Tương Lai - Dùng Sức Hay Dùng Mưu - Rock Và Forbes - Những Nạn Nhân Rởm - Tiếp Đón Ân Cần - Từ 11 Giờ Đến Nửa Đêm - Phát Súng Của Evans - Sự Can Thiệp Của Bà Kate
ột eo biển dài khoảng ba trăm tám mươi dặm vẽ ra một đường cong từ mũi Vierges ở phía đông trên Đại Tây Dương tới mũi Los Pilares ở phía tây trên Thái Bình Dương với bờ biển lởm chởm, sừng sững những ngọn núi cao ba ngàn bộ trên mực nước biển, những vịnh trong cùng có nhiều cảng trú ngụ và dễ dàng bổ sung nước ngọt, bao quanh là những rừng rậm sẵn chim thú để săn bắt và hàng ngàn ngọn thác ầm ầm đổ xuống vô số những vụng biển nhỏ, tạo cho tàu thuyền từ phía đông qua hay phía tây lại một đường hàng hải ngắn hơn đường Lemaire giữa đảo Staten và đảo Đất Lửa và đỡ bị gió bão vùi dập hơn là đường qua mũi Horn. Đó là eo biển mang tên Magellan, nhà hàng hải nổi tiếng người Bồ Đào Nha đã khám phá ra lối đi này năm 1520.
Từ đó eo biển Magellan trở thành đường hàng hải nhộn nhịp tàu thuyền qua lại giữa hai đại dương, nhất là từ khi có tàu chạy bằng hơi nước, chẳng e chiều gió không thuận cũng chẳng ngại những luồng nước ngược, khiến cho điều kiện qua lại eo biển này đặc biệt dễ dàng.
Đó là điều sáng hôm sau, ngày 28 tháng 11, Evans chỉ vào bản đồ, giải thích cho Briant, Gordon và các bạn.
- Và bây giờ, - Evans nói thêm, - các cậu có thấy bên ngoài eo biển Magellan một hòn đảo chỉ cách đảo Cambridge ở phía nam, cách đảo Madre de Dios và đảo Chatam ở phía bắc không xa? Hòn đảo nằm ở vĩ độ 51° nam này là đảo Hanovre mà các cậu gọi là đảo Chairman và đã ở đó hai mươi tháng nay.
Cúi xuống bản đồ, Briant, Gordon, Doniphan chăm chú nhìn hòn đảo mà họ ngỡ là ở rất xa mọi vùng đất hóa ra lại ở gần bờ biển Nam Mỹ đến thế. Gordon nói:
- Sao? Thì ra bọn mình chỉ cách Chile mấy luồng biển thôi à?
- Đúng thế đấy các cậu ạ! - Evans trả lời. - Nhưng từ đảo Hanovre vào lục địa châu Mỹ thì chỉ có những đảo hoang như đảo này mà thôi. Và kể cả khi đã tới đó thì còn phải vượt hàng trăm dặm mới tới được những nơi có người ở của Chile hay Argentina, vất vả lắm! Ấy là chưa kể mối hiểm nguy vì những thổ dân bộ tộc Puelches du cư trên khắp vùng Pampas không mến khách đâu! Tôi cho rằng các cậu chưa nên rời đảo này vì điều kiện vật chất ở đây được đảm bảo và vì, cầu Chúa phù hộ, tôi hi vọng rằng chúng ta sẽ rời đảo cùng nhau!
Thế ra khoảng cách giữa đảo Hanovre và những vùng đất khác ở nhiều chỗ chỉ từ mười lăm đến hai mươi hải lí thôi và khi thời tiết tốt thì Moko có thể chèo xuồng con vượt qua chẳng mấy khó khăn. Sở dĩ Gordon, Doniphan và Briant khi đi khảo sát phía bắc và phía đông không thấy được những đảo ấy vì chúng quá thấp. Còn cái vệt trăng trắng thì đúng là một băng hà trong lục địa, núi lửa đang phun là một trong những hỏa diệm sơn của vùng eo biển Magellan. Briant qua bản đồ còn nhận ra rằng, sự tình cờ đã đưa các cậu tới những điểm trên đảo Hanovre cách xa các đảo lân cận nhất. Riêng Doniphan đã đến bãi Severn, nhưng lại đúng vào lúc trời mù do bão tố, tầm nhìn rất hạn chế nên không thấy bờ nam của đảo Chatam.
Còn François Baudoin đã vẽ rất chính xác hình thế của đảo Hanovre, chứng tỏ ông đã đi quanh đảo, nên Evans không rõ tại sao những đảo kia không được thể hiện trên bản đồ. Hoặc giả do sương mù nên tầm nhìn xa bị hạn chế chăng? Chỉ có cách giải thích ấy là chấp nhận được.
Vậy trường hợp chiếm được xuồng của tàu Severn và sửa chữa xong thì nên đi về hướng nào. Đó là câu hỏi của Gordon. Evans đáp:
- Các cậu ạ, tôi sẽ không lên phía bắc, cũng chẳng sang đông. Ta sử dụng đường biển càng nhiều càng hay. Đương nhiên là nếu thuận gió thì xuồng có thể đưa ta tới cảng nào đó của Chile và ta sẽ được đón tiếp tử tế. Nhưng biển ở bờ phía ấy cực kì dữ, trong khi khoảng cách giữa các đảo trong quần đảo lại dễ vượt qua.
- Vâng, - Briant nói, - nhưng ở những vùng bờ biển ấy có nơi nào có người ở có thể giúp chúng em về nước được không?
- Tôi tin là có! - Evans trả lời. - Đây, các cậu hãy nhìn vào bản đồ. Sau khi đi qua các luồng lạch của quần đảo Adélaide rồi đi theo lạch Smith thì ta tới đâu? Tới eo Magellan, phải không nào? Thế thì ngay gần cửa vào eo biển đã có cảng Tamar thuộc đảo Désolation và tới đó là coi như ta đã trên đường trở về rồi.
- Nếu không gặp tàu nào thì ta đợi ở đó hay sao? - Briant hỏi.
- Không, cậu Briant! Hãy đi ra xa hơn, qua eo Magellan. Cậu có thấy bán đảo lớn Brunswick này không?… Tại đây, trong cùng vịnh Fortescue là cảng Galant, nơi các tàu thuyền thường cập bến. Nếu đi xa hơn nữa và vượt qua mũi Forward ở phía nam bán đảo này thì tới vịnh Saint Nicolas hay vịnh Bourgainville, nơi phần lớn tàu qua eo biển hay dừng lại. Cuối cùng xa hơn nữa là cảng Famine và chếch lên phía bắc là Punta-Arena.
Thủy thủ trưởng nói có lí. Khi vào eo biển Magellan thì xuồng có nhiều điểm để dừng lại, với những điều kiện ấy thì việc hồi hương sẽ được đảm bảo, chưa kể có thể gặp những con tàu trên đường sang Australia hoặc New Zealand.
Thế là nếu tới được eo biển thì chắc chắn các trại viên trẻ sẽ thoát nạn. Muốn thế phải sửa được xuồng của tàu Severn. Muốn sửa xuồng thì phải chiếm được nó. Điều này chỉ có thể thực hiện khi đã vô hiệu hóa được Walston và đồng bọn.
Giá như xuồng ấy vẫn còn ở bãi Severn như khi Doniphan thấy thì cũng có cách chiếm vì bây giờ bọn Walston đã ở vũng Ảo Tưởng, cách nơi ấy mười lăm dặm thì hắn biết sao được. Và Evans sẽ làm điều mà hắn đã làm, tức là kéo cái xuồng, nhưng không phải về cửa sông Đông mà về cửa lạch Zealand, thậm chí ngược lên ngang tầm động Người Pháp để sửa chữa trong những điều kiện tối ưu dưới sự chỉ huy của thủy thủ trưởng. Thế rồi sau khi trang bị buồm chão đầy đủ, bốc súng đạn, lương thực và mấy thứ không thể bỏ lại lên xuồng, họ sẽ rời khỏi đảo trước khi bọn gian có khả năng công kích.
Khốn thay kế hoạch ấy không thể thực hiện được. Vấn đề đi khỏi đảo dứt khoát chỉ có thể giải quyết bằng bạo lực: hoặc tấn công, hoặc phòng ngự. Không thanh toán được bọn thủy thủ tàu Severn thì không thể làm được gì hết.
Evans đã được các trại viên trẻ tuyệt đối tin tưởng. Bà Kate đã bao lần nói về anh với bọn trẻ bằng những lời nồng nhiệt xiết bao! Sau khi anh cắt tóc và cạo râu, nhìn nét mặt táo bạo và thẳng thắn của anh, ai nấy đều thấy yên tâm. Ngoài tính cương nghị và dũng cảm, mọi người còn thấy ở anh lòng tốt, sự cả quyết và tận tụy. Đúng như bà Kate đã nói: “Trời đã cử sứ giả tới động Người Pháp - một người đàn ông - giữa bọn trẻ.”
Trước hết, thủy thủ trưởng cần biết những nguồn lực có thể huy động cho cuộc chiến. Kho và sảnh là những vị trí phòng thủ tốt. Mặt tiền một đằng quay về phía bờ lạch, còn đằng kia thì có thể khống chế từ Bãi Tập tới bờ hồ. Những lỗ châu mai cho phép bắn về các hướng ấy trong thế được che đỡ. Với tám súng trường, những người bị vây hãm có thể buộc kẻ tấn công không thể lại gần. Nếu chúng liều lĩnh tiến vào thì hai khẩu đại bác sẽ nã đạn ria. Còn súng ngắn, rìu, dao thủy thủ thì ai cũng biết sử dụng nếu phải đánh giáp lá cà.
Evans khen Briant đã dự trữ đá để chặn cửa ra vào. Ở trong động thì những người chống cự tương đối mạnh, nhưng ra ngoài động thì họ yếu hơn quân địch. Xin đừng quên là họ chỉ có sáu cậu bé từ mười ba đến mười lăm tuổi để chống lại bảy người đàn ông mạnh khỏe, quen sử dụng vũ khí và liều lĩnh, không chùn tay chém giết người.
- Thủy thủ trưởng cho bọn tội phạm ấy là đáng sợ à? - Gordon hỏi.
- Phải, cậu Gordon ạ, rất đáng sợ!
- Trừ một tên có thể chưa mất hết lương tâm! - Bà Kate nói. - Cái tên Forbes đã cứu tôi…
- Forbes ư! - Evans trả lời. - Quỷ tha ma bắt! Dù là hắn bị chúng xui giục hay là sợ bọn chúng, hắn cũng nhuốm không ít máu trong vụ thảm sát trên tàu Severn đâu! Hơn nữa, chẳng phải chính hắn đã cùng tên Rock đuổi tôi đến cùng hay sao? Chẳng phải hắn đã bắn tôi như bắn một con thú hay sao? Chẳng phải hắn đã khoái chí tưởng tôi chết đuối hay sao? Không, bà Kate tốt bụng ạ, tôi nghĩ rằng hắn chẳng khá hơn bọn kia chút nào đâu! Hắn tha cho bà là cần bà phục vụ thôi và khi bọn chúng tấn công động Người Pháp thì hắn cũng không chịu kém đồng bọn đâu!
Tuy nhiên, mấy ngày trôi qua mà những trại viên trẻ làm nhiệm vụ quan sát trên đỉnh đồi Auckland vẫn chưa phát hiện điều gì khả nghi. Evans ngạc nhiên vì anh biết Walston cần hành động gấp, vậy mà từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 11 vẫn chưa thấy có động tĩnh gì. Một ý nghĩ chợt đến: Chắc Walston muốn dùng mưu chứ không dùng sức để vào động Người Pháp; anh nói điều đó với Briant, Gordon, Doniphan, Baxter là những người hay cùng anh bàn bạc:
- Chừng nào chúng ta còn ở trong động Người Pháp thì Walston sẽ không tấn công, nếu không có người mở cửa cho hắn. Có thể hắn sẽ dùng mưu để vào.
- Mưu thế nào? - Gordon hỏi.
- Có thể là theo cách tôi vừa nghĩ tới. - Evans đáp. - Các cậu biết rằng chỉ có bà Kate và tôi có thể tố giác cho trại di thực biết mà đề phòng cuộc tấn công của bọn vô lại do Walston cầm đầu. Thế mà bà Kate thì Walston tin chắc rằng đã chết đuối, còn tôi thì đã chết dưới lạch nước sau khi bị Forbes và Rock bắn trúng. Các cậu biết là tôi đã nghe rõ chúng hoan hô cái kết cục may mắn đó ra sao đấy! Thế thì tất nhiên Walston cho rằng các cậu không hay biết gì, thậm chí không biết cả sự xuất hiện của bọn thủy thủ tàu Severn trên đảo này. Và bây giờ, nếu vài tên tới động Người Pháp thì nhất định chúng sẽ được tiếp đón như người ta vẫn tiếp đón những người bị nạn. Một khi cài được kẻ gian vào trong động thì hắn có thể đưa đồng bọn vào dễ dàng, khiến cho mọi sự kháng cự đều không thể thực hiện được!
- Vậy thì, - Briant nói - dù là Walston hay bất kì tên đồng bọn nào tới ta cũng đón bằng mấy phát súng.
- Ngả mũ mà đón có khi hay hơn! - Gordon nhận xét.
- À, hay đấy cậu Gordon! - Thủy thủ trưởng đáp. - Như thế tốt hơn. Chúng dùng mưu thì ta cũng dùng mưu chống lại. Nếu tình hình đó xảy ra thì ta hãy bàn xem cần làm gì!
Đúng, phải hành động hết sức thận trọng. Nếu sự việc diễn biến tốt, nếu Evans chiếm được chiếc xuồng thì có thể hi vọng giờ giải thoát không còn xa nữa. Nhưng phía trước còn biết bao hiểm nguy và liệu cái nhóm nhỏ này có còn nguyên vẹn khi trở về New Zealand hay không?
Hôm sau, cả buổi sáng không có sự cố gì. Thủy thủ trưởng, có Doniphan và Baxter đi cùng, lẩn mình trong cây cối dưới chân đồi Auckland ngược khoảng nửa dặm về phía rừng Hố Bẫy, không thấy gì khác thường, có cả chó Phann đi theo cũng không đánh hơi thấy dấu hiệu khả nghi nào.
Nhưng đến chiều, trước lúc mặt trời lặn một chút, có báo động. Webb và Cross quan sát trên đỉnh vách đá vội vàng trèo xuống báo cho biết có hai người đang từ bờ hồ phía nam tiến lại bờ lạch bên kia. Bà Kate và Evans quyết định giấu mặt, sang ngay kho, quan sát hai kẻ đang tới qua lỗ châu mai. Đó là hai đồng bọn của Walston: Forbes và Rock.
- Rõ ràng là chúng dùng mưu rồi! - Thủy thủ trưởng nói. - Chúng sẽ tự giới thiệu là những thủy thủ thoát nạn đắm tàu.
- Làm gì bây giờ? - Briant hỏi.
- Đón tiếp chúng tử tế. - Evans trả lời.
- Đón tiếp tử tế bọn khốn nạn này ấy à? - Briant kêu lên. - Không bao giờ em có thể…
- Để mình làm việc ấy cho! - Gordon nói.
- Tốt lắm, cậu Gordon! - Thủy thủ trưởng nói. - Đừng để chúng nghi ngờ rằng bà Kate và tôi ở đây. Chúng tôi sẽ xuất hiện đúng lúc cần thiết.
Evans và bà Kate ẩn vào một ngách trong hành lang và đóng cửa lại ngay. Một lúc sau, Gordon, Briant, Doniphan và Baxter chạy vội ra bờ lạch. Trông thấy họ, hai gã đàn ông giả bộ cực kì ngạc nhiên. Gordon cũng đáp lại bằng một vẻ kinh ngạc không kém. Rock và Forbes dường như quá đỗi mệt mỏi và dưới đây là lời trao đổi của đôi bên qua hai bờ lạch:
- Các anh là ai thế?
- Những nạn nhân vừa thoát chết của con tàu ba cột buồm Severn vừa dạt vào phía nam đảo này.
- Là người Anh à?
- Không, người Mỹ!
- Còn bạn các anh?
- Chết hết rồi, chỉ còn hai chúng tôi thoát, chúng tôi kiệt sức rồi! Làm ơn cho chúng tôi biết chúng tôi đang nói chuyện với ai?
- Những trại viên đảo Chairman.
- Mong các trại viên thương tình tiếp nhận chúng tôi. Chúng tôi chẳng còn biết trông cậy vào đâu nữa!
- Các nạn nhân bao giờ cũng có quyền được đồng loại giúp đỡ. - Gordon trả lời. - Các anh được hoan nghênh.
Thực hiện theo yêu cầu của Gordon, Moko xuống chiếc xuồng nhỏ đang neo ở chân đê và bằng mấy nhát chèo đã đưa được hai thủy thủ sang bờ phải lạch Zealand.
Hẳn Walston không còn lựa chọn nào khác nên phải dùng Rock vào việc này vì tướng mạo hắn khó gây được tín nhiệm kể cả đối với trẻ em không quen trông mặt đoán người. Tuy hắn cố làm ra vẻ chất phác song bản mặt kẻ cướp vẫn lộ rõ qua cái trán hẹp, cái đầu lồi rõ về phía sau, cái hàm dưới bạnh ra quá mức. Forbes, theo nhận định của bà Kate có lẽ chưa mất hết tính người, thì bộ dạng khá hơn. Có lẽ vì thế mà Walston cho Rock đi cặp với Forbes.
Đóng vai nạn nhân đắm tàu, để khỏi bị nghi ngờ, chúng tránh những câu hỏi quá thóc mách, chúng nói là quá sức mệt mỏi, cần được nghỉ ngơi trước hết nên xin được vào nhà nghỉ ngơi qua đêm. Chúng được dẫn vào ngay. Tới cửa, chúng không khỏi liếc nhìn dò xét một cách lộ liễu sự bố trí trong sảnh - tất nhiên là không qua được mắt Gordon. Chúng thậm chí có vẻ ngạc nhiên quá mức về những trang bị phòng thủ của cái trại di thực nhỏ bé này, nhất là khẩu đại bác chĩa nòng qua lỗ châu mai. Sau đó các trại viên không phải làm cái việc mà họ ghê tởm là tiếp tục đóng kịch nữa, vì Rock và Forbes vội đi nằm ngay, còn chuyện đắm tàu thì xin để sáng mai hãy kể.
Rock nói:
- Cho chúng tôi một bó cỏ là đủ. Nhưng để khỏi phiền các cậu, nếu có một buồng khác…
- Có đấy, - Gordon trả lời - ở nhà bếp, các anh cứ nghỉ ở đấy đến mai.
Rock và Forbes liếc nhìn bên trong, nhận thấy cửa hướng ra lạch. Thật là một cuộc đón tiếp không thể cởi mở hơn đối với những nạn nhân khốn khổ. Hai tên vô lại tự nhủ là để chiến thắng những kẻ ngây thơ này thì cần gì phải suy nghĩ lắm cho mệt. Vậy là chúng nằm xuống một góc kho. Thật ra không chỉ có hai đứa ở đó với nhau mà còn có Moko nữa, vì đây là chỗ ngủ của chú. Nhưng chúng chẳng bận tâm vì nếu chú có ý rình mò thì chúng bắn chết ngay. Tới giờ đã định, Rock và Forbes sẽ mở cửa kho để Walston và bốn tên đồng bọn đang lảng vảng ở bờ lạch lập tức vào làm chủ động Người Pháp.
Đến 9 giờ, khi coi như Rock và Forbes đã ngủ thì Moko vào đi nằm ngay, sẵn sàng báo động.
Briant và các bạn ở lại sảnh và sau khi cửa hành lang đóng lại thì Evans và bà Kate ra với họ. Sự việc diễn ra đúng như thủy thủ trưởng dự đoán và anh tin chắc rằng Walston đang ở gần đó, đợi thời cơ xông vào động Người Pháp. Anh nói:
- Ta hãy sẵn sàng phòng bị.
Nhưng hai giờ đã trôi qua, Moko đang tự hỏi hay là những tên này đợi đến đêm khác thì một tiếng động khẽ trong kho khiến chú để ý. Dưới ánh đèn treo trên vòm, chú thấy Rock và Forbes bò về phía cửa, bên trong đã chèn một đống những hòn đá lớn, một cái ụ thật sự rất khó, nếu không nói là không thể xô đổ được. Vì vậy hai tên thủy thủ bắt đầu nhấc từng hòn xếp sang bên phải. Mấy phút sau chúng đã dẹp xong, chỉ cần rút thanh gióng là mở toang được cửa. Nhưng khi Rock vừa làm được việc này thì một bàn tay đập xuống vai hắn. Hắn quay lại và nhận rõ mặt thủy thủ trưởng dưới ánh đèn.
- Evans! Evans ở đây! - Hắn hét lên.
- Các cậu mau lại đây! - Thủy thủ trưởng gọi.
Briant và các bạn lao ngay vào. Thoạt tiên là Forbes bị bốn chàng trai khỏe nhất là Baxter, Wilcox, Doniphan và Briant quật ngã, không cựa quậy được. Còn Rock, hắn vội rút dao đâm sượt cánh tay Evans, đẩy mạnh anh ra và thoát khỏi cửa. Hắn chạy chưa được mươi bước thì một phát súng nổ. Thủy thủ trưởng vừa bắn. Nhưng chắc không trúng vì không nghe tiếng Rock kêu.
- Quỷ quái thật! Tôi bắn trượt tên vô lại ấy rồi! - Evans kêu lên. - Còn tên kia… dẫu sao cũng bớt được một đứa.
Và anh giơ con dao trong tay lên.
- Xin tha mạng! Xin tha mạng! - Tên khốn đang bị các chàng trai ghì chặt dưới đất van xin.
- Phải, Evans, hãy tha cho hắn! - Bà Kate đứng chen vào giữa thủy thủ trưởng và tên Forbes, lên tiếng. - Hãy tha cho hắn vì hắn đã cứu tôi!
- Thôi được! - Evans trả lời. - Tôi đồng ý, ít ra là vào lúc này.
Thế là Forbes bị trói chặt và đưa vào một ngách nhỏ của hành lang.
Rồi mọi người đóng cửa, chèn đá, thức canh đến sáng.
Hai Năm Trên Hoang Đảo Hai Năm Trên Hoang Đảo - Jules Verne Hai Năm Trên Hoang Đảo