Số lần đọc/download: 3440 / 178
Cập nhật: 2015-08-07 14:07:06 +0700
Chương 28
T
hông thường, sau khi bị sốc, tôi lang thang suốt hai tuần liền như kẻ mộng du, sống trong màn sương mờ đục như trong cái đường biên giấc ngủ đầy bất ổn, vùng xám giữa sáng và tối, giữa ngủ và thức, giữa sống và chết, khi người ta biết mình không còn bất tỉnh nhưng vẫn chưa hiểu ra hôm nay là ngày mấy và mình là ai và trở về thì có tích số gì không - suốt hai tuần. Nếu cảm thấy tỉnh lại cũng chẳng để làm gì, người ta có thể bơi thật lâu trong cái khoảng xám xịt đó, nhưng tôi đã phát hiện rằng nếu thấy cốc kỳ cần thiết vẫn có thể giãy ra được. Lần này, sau không đầy một ngày tôi đã giãy ra. Chưa bao giờ nhanh đến vậy.
Và khi sương mù trong đầu đã tan, tôi có cảm giác như mình vừa nổi lên mặt nước sau một hơi lặn thật sâu và dài hàng trăm năm. Đó là cú sốc điện cuối cùng của đời tôi.
McMurphy trong tuần đó lãnh thêm ba lần. Chỉ cần hắn tỉnh lại và nháy mắt được là Ratched và gã bác sĩ xuất hiện hỏi han hắn đã nghĩ lại chưa, sẵn sàng thú nhận các lỗi lầm và quay về khoa nội ngoan ngoãn điều trị chưa? Còn hắn cứ phồng mang trợn má, biết rằng tất cả các bộ mặt đói khát trong phòng điên này đang hướng vào mình, và nói với mụ tiếc rằng hắn chỉ có thể hy sinh cho đất nước được một cuộc đời và rằng mụ hãy cứ hôn vào mông đít hắn, nếu như hắn rời bỏ cái tàu khốn kiếp này. Vậy đó!
Sau đấy, hắn đứng dậy, nghiêng mình hai ba lần chào đám khán giả đang cười, còn mụ y tá dẫn gã bác sĩ tới phòng trốc gọi điện thoại xin phép làm liệu pháp cho McMurphy một lần nữa.
Một hôm, khi mụ ngoảnh lại hắn véo mụ một cái rõ đau, qua váy, đến nỗi mặt mụ đỏ bừng lên, đỏ hơn cả tóc hắn. Tôi nghĩ, nếu không có gã bác sĩ đứng bên đang cố nén cười thì mụ đã cho hắn một bạt tai.
Tôi thuyết phục hắn cố gắng chiều lòng mụ thì người ta chắc sẽ để hắn yên, nhưng hắn chỉ cười và bảo tôi quỷ hói đầu ạ, toàn bộ vấn đề là để người ta sạc điện không công cho tao. "Khi tao đi khỏi đây, người phụ nữ đầu tiên chọn được McMurphy tóc đỏ, chàng thái nhân cách công suất mười ki lô oát, cô ả sẽ sáng bừng lên như máy chơi bạc tố động và đổ ra hàng đống bạc. Tao đâu sợ kiểu sạc điện nhỏ nhoi này."
Hắn nói, hắn phớt tuốt. Và thậm chí không thèm uống mấy viên con nhộng. Nhưng mỗi lần, khi cái loa bảo hắn nhịn bữa sáng và chuẩn bị vào nhà chính, quai hàm hắn cứng lại như hóa đá và bộ mặt trở nên xanh rớt, gầy vêu và hoảng hốt - như lần tôi nhìn thấy trong gương chắn gió trên đường đi câu cá về.
Cuối tuần, tôi được trả lại khoa nội. Tôi muốn nói với hắn nhiều điều trước lúc chia tay nhưng hắn vừa mới đi liệu pháp về, ngồi dán mắt dõi theo quả bóng bàn như đã được vít dây vào đó. Tên hộ lý da màu và tên tóc vàng đưa tôi xuống tầng, trả tôi về khoa nội và khóa cửa sau lưng tôi. Sau khi ở khoa Điên, tôi cảm thấy ở đây sao yên tĩnh lạ lùng. Tôi đi đến phòng chung và không hiểu sao, dừng lại giữa cửa; tất cả các bộ mặt đều quay lại phía tôi, với biểu hiện tôi chưa từng thấy. Chúng sáng bừng lên như đang xem một buổi biểu diễn cuồng nhiệt của các nghệ sĩ lang thang. "Kính thưa quý vị khán giả," Harding xổ ra. "Trước mặt các bạn là con người Hùng mạnh đã bẻ gẫy tay tên hộ lý! Hãy nhìn xem! Nhìn xem!" Tôi cười đáp lại họ và hiểu ra McMurphy đã cảm thấy ra sao suốt nhiều tháng ròng khi những khuôn mặt này hét lên với hắn.
Họ vây lấy tôi và bắt đầu hỏi về tất cả những điều đã xảy ra: hắn cư xử ra sao trên ấy? Hắn làm gì? Trong phòng thể dục người ta nói mỗi ngày hắn chịu một lần sốc điện, những trò đó với hắn cũng như nước đổ đầu vịt, và hắn còn cá với tụi kỹ thuật viên sẽ mở mắt được bao lâu sau khi mạch đóng, đúng vậy không?
Tôi kể hết và hình như không ai ngạc nhiên rằng tôi đang trò chuyện với họ - một kẻ bấy nhiêu năm được xem là vừa câm vừa điếc, bỗng nhiên cũng chuyện trò, cũng lắng nghe, như bất kỳ người lành lặn nào. Tôi nói với họ rằng tất cả những chuyện đó có thật và kể thêm chút ít những chuyện mình biết. Chúng cười bò ra khi nghe những lời đối đáp của hắn với mụ y tá khiến hai lão già Thốc vật nằm phía Cấp tính cũng cười theo và thở hồng hộc dưới tấm chăn ướt, ra chiều hiểu hết.
Ngày hôm sau khi mụ y tá đưa vấn đề về Bệnh nhân McMurphy ra trước nhóm, rằng theo một nguyên nhân không rõ nào đấy, McMurphy dường như không chịu tác dụng của sốc điện, và để tiếp xúc được với hắn cần phải có những phương pháp kiên quyết hơn nữa, Harding nói: "Có thể là như thế, thưa bà Ratched, vâng... Nhưng theo những điều tôi nghe được về các cuộc gặp gỡ của bà với ông McMurphy ở tầng trên, thì ông ta đã tiếp xúc được với bà không khó khăn gì."
Đòn điểm trúng huyệt. Chúng tôi cười ầm lên và mụ không bao giờ đả động đến chuyện đó nữa.
Mụ hiểu rằng khi McMurphy còn ở trên đó và chúng tôi không nhìn thấy mụ gọt hắn như thế nào thì hắn càng lớn thêm lên trong chúng tôi, trở thành như một huyền thoại. Khi hắn vắng mặt mụ không thể chứng tỏ hắn yếu đuối, và mụ bèn nghĩ cách đưa McMurphy trở lại khoa. Khi đó, mụ nghĩ, các con bệnh sẽ thấy rằng hắn thật thảm hại, thật đáng thương, không kém bất cứ đứa nào trong bọn họ. Anh hùng gì hắn nếu sau khi bị sốc cứ đốc người ra cả ngày trong phòng.
Chúng tôi cũng đoán ra chuyện đó và cả chuyện khi nào hắn còn ở khoa trước mặt chúng tôi, mụ sẽ cho hắn xơi sốc điện ngay mỗi lần hắn tỉnh. Scanlon, Fredrickson và tôi bàn bạc với nhau và quyết định sẽ thuyết phục hắn rằng cách tốt nhất đối với hắn và với tất cả chúng tôi là hắn phải trốn khỏi bệnh viện. Hôm thứ Bảy, khi bọn chúng dẫn hắn về - hắn vào phòng chung, như một võ sĩ bước ra võ đài, nhảy một điệu ngắn, hai tay bắt chéo sau gáy và tuyên bố nhà vô địch đã trở về, thì kế hoạch của chúng tôi đã vạch xong. Chúng tôi tính sẽ đợi đến tối, đốt một cái nệm và khi lính cứu hỏa xuất hiện, chúng tôi sẽ mau chóng thả hắn ra sau cửa. Ai cũng nghĩ rằng hắn sẽ không từ chối một kế hoạch tuyệt vời như vậy.
Nhưng chúng tôi đã quên nghĩ tới chuyện đó cũng là ngày hắn đã định cho kế hoạch đưa cô gái - Candy - lẻn vào gặp Billy.
Hắn được thả về khoa vào khoảng mười giờ sáng. "Hút mừng tao đi, tụi bay. Chúng đã kiểm tra phích cắm, đánh bóng các điện cốc, và tao bây gời đánh lửa như ống đốt của xe Ford T. Tụi bay chưa đứa nào giỡn với thứ ống đốt đó ngày Halloween hả? Thử đi! Vui chết thôi." Rồi hắn khuỳnh khuỳnh đi lại quanh khoa, to lớn hơn bao giờ hết; hắn đá đổ xô nước bẩn ngay cửa phòng trốc, bắn một cục bơ lên chiếc giầy da trắng mịn của tên hộ lý bé con mà tên kia không hay biết làm cả nhà ăn trưa cười rúc rích suốt buổi trong khi cục bơ tan ra, biến mũi giày thành "một màu vàng đầy ý nghĩa" - theo lời Harding; hắn to lớn hơn bao giờ hết, và mỗi lần đi sát qua một nữ y tá thốc tập cô ta lại kêu ôi ối; mắt trố ra và sợ hãi bỏ chạy dọc hành lang, tay xoa xoa và sườn.
Chúng tôi trình bày kế hoạch giải thoát cho hắn, còn hắn nói rằng chẳng đi đâu mà vội, nhẹ nhàng nhắc chúng tôi là hôm nay Billy có cuộc hẹn hò. "Anh em, chẳng lẽ lại làm Billy đau khổ khi anh ta đã quyết định từ bỏ quá khứ trinh bạch của mình? Và nếu chúng ta thành công thì sẽ có một buổi dạ hội miễn chê, hãy nghĩ đó có thể là buổi dạ hội vĩnh biệt tớ!"
Mụ Y tá Trưởng lãnh phiên trốc thứ Bảy đó vì muốn có mặt trong ngày trở về của hắn, quyết định triệu tập cuộc họp bất thường để ít ra là giải quyết được chút đỉnh. Vào họp mụ lại khơi ra câu chuyện về các biện pháp kiên quyết, và yêu cầu gã bác sĩ chú ý tới vấn đề đó "trong khi còn chưa muộn và có thể giúp đỡ được bệnh nhân". Nhưng McMurphy cứ nghiêng ngửa, nháy mắt, ngáp dài hoài hoài làm mụ ta cuối cùng cũng phải nín lặng, đến lúc đó hắn làm gã bác sĩ cũng như các bệnh nhân được một trận cười vỡ bụng khi nói rằng nhất trí hoàn toàn với từng lời của mụ.
"Ông biết không, bác sĩ, hình như bà ta đúng; tố ông cũng thấy, mười vôn đã mang lại lợi lộc đến thế nào cho tôi. Nếu tăng điện thế gấp đôi, tôi có thể bắt được kênh tám như Martini nữa ấy chứ. Tôi đã ớn đến tận cổ việc nằm suốt ngày trên giường, mê sảng toàn những tin tức thời số và thời tiết trên kênh bốn."
Mụ y tá hắng giọng, cố gắng duy trì cuộc họp. "Tôi không định đề nghị tăng cường độ sốc điện, ông McMurphy... "
"Thế sao?"
"Tôi đề nghị... chúng ta dùng đến phương án phẫu thuật. Thốc tế là điều đó rất đơn giản. Và chúng tôi đã thu được nhiều kết quả khả quan, đã loại bỏ được các khuynh hướng hiếu chiến ở một số bệnh nhân hay gây gổ, hằn thù... "
"Hằn thù ư? Thưa bà, nhưng tôi hiền lành như con cún vậy. Bà tính xem, hai tuần liền tôi chưa từng chọc ngoáy tên hộ lý nào. Vì thế chẳng có nguyên nhân nào để cắt thiến tôi cả, đúng không?"
Mụ nở một nụ cười ra vẻ thông cảm với hắn lắm. "Randle, chẳng có cắt thiến gì đâu... "
"Ngoài ra," hắn tiếp tục, "bà có cắt bỏ chúng thì cũng có ý nghĩa gì đâu. Tôi còn một đôi trong tủ."
"Một đôi...?"
"Một đôi, ông bác sĩ ạ, một quả to như trái bóng chày."
"Ông McMurphy... " Mụ hiểu là mình đang bị nhạo báng, nụ cười vỡ vụn ra như kính.
"Còn quả thứ hai to hơn cả thế, có thể gọi là kích thước bình thường."
Hắn cứ sồn sồn như thế đến tận lúc đi ngủ. Đến lúc này không khí trong phòng đã tưng bừng như trong hội chợ, tất cả đều thầm thì rằng nếu cô gái mang rượu đến thì sẽ là một bữa tiệc thật số. Mỗi người đều muốn nhìn Billy một tí và nếu hắn nhìn lại thì nháy mắt và cười với hắn. Khi chúng tôi xếp hàng lấy thuốc, McMurphy tiến đến và xin cô y tá nhỏ bé có cây thánh giá và vết bớt vài viên vitamin. Cô ta ngạc nhiên nhìn hắn, nói rằng chẳng có lý do gì để từ chối và đưa cho hắn mấy viên thuốc to bằng cái trứng chim sẻ. Hắn đút vào túi.
"Ông không uống ư?" cô hỏi.
"Tôi ư? Không, vitamin chẳng ích lợi gì cho tôi cả. Tôi lấy cho Billy. Gần đây anh ta có vẻ hốc hác đi, rõ ràng là máu bị axit hóa."
"Thế... tại sao ông không đưa luôn cho anh ta?"
"Tôi sẽ đưa, cô bé ạ, nhưng tôi tính đợi đến tối, khi chúng cần cho anh ta nhất." Hắn quàng tay qua cái cổ đỏ lựng lên của Billy và đi vào phòng ngủ, dọc đường còn nháy mắt với Harding và chọc ngón tay vào cái sườn tôi, mặc kệ cô y tá trố mắt nhìn hắn, đánh đổ cả nước xuống chân.
Còn về Billy phải nói thế này: mặc dù mặt đã có nếp nhăn, tóc đã có sợi bạc, nhưng hắn trông rất trẻ con - như một đứa trẻ tai to, mặt tàn hương, răng thỏ, quanh năm suốt tháng đi chân trần, kéo lê một xâu bống biển trên mặt đất đầy bụi - thế mà hắn đâu có giống thế. Khi hắn đứng bên cạnh những người đàn ông khác, người ta sẽ phải ngạc nhiên vì thấy hắn hoàn toàn không thấp hơn ai, tai cũng không to, mặt cũng không lốm đốm tàn hương và nếu nhìn kỹ thì răng cũng không nhô ra cho lắm, mà thốc tế, đã ngoài ba mươi tuổi.
Chỉ một lần tôi nghe được chính xác hắn nói mình bao nhiêu tuổi, thốc ra là nghe trộm, khi hắn nói chuyện với mẹ ở trong phòng thường trốc, nơi bà làm việc. Đó là một phụ nữ to béo, bộ tóc thay màu cứ vài tháng một lần từ vàng sang xanh da trời, sau đó sang đen rồi lại thành màu trắng, hàng xóm và bạn thân thiết của mụ Y tá Trưởng, theo như tôi nghe được. Mỗi lần chúng tôi tham gia một lớp liệu pháp nào đó, khi qua phòng thường trốc, Billy đều nhất thiết phải dừng lại để nghiêng cái má đỏ bừng cho bà hôn chặt vào đó. Chúng tôi nhìn, cũng xấu hổ không kém gì Billy, và không ai trêu chọc hắn về chuyện đó, thậm chí cả McMurphy.
Một hôm, tôi chỉ nhớ đã khá lâu rồi, chúng tôi dừng lại đợi trên đường tới một lớp nào đó, đứa thì ngồi trong phòng thường trốc, đứa thì đứng ngoài sân dưới ánh mặt trời bạn trưa trong lúc gã hộ lý đi gọi điện cho tay chủ hộ, còn mẹ Billy tranh thủ lúc này bỏ vị trí, bước tới cầm tay cậu con trai và ra ngồi xuống đám cỏ cách tôi không xa. Bà ngồi thẳng, duỗi đôi chân ngắn ngủi và tròn lẳn đi tất dài ra trước mặt khiến tôi liên tưởng tới khúc xúc xích Ý, còn Billy nằm bên cạnh gối đầu lên đầu gối bà, cho bà lấy cây bồ công anh cù vào tai hắn. Billy bảo mẹ tìm vợ cho hắn và hắn sẽ thi vào đại học. Bà mẹ cù hắn và cười phá lên trước những chuyện ngớ ngẩn như vậy.
"Con thân yêu, con còn bao nhiêu là thời gian cho những chuyện như thế mà: Con có nguyên cả cuộc đời ở phía trước!"
"Mẹ, con đã ba mươi mốt tuổi rồi!"
Bà cười, ngoáy ngọn cỏ trong tai Billy. "Con thân yêu, mẹ có giống mẹ của một người lớn không?"
Bà chun mũi, hé môi, đánh lưỡi phát ra những tiếng chụt ẩm ướt, và tôi thầm đồng ý rằng bà ta nói chung chẳng hề giống một người mẹ chút nào. Cho đến khi có dịp lại gần hắn và nhìn thấy năm sinh của hắn khắc trên vòng tay, tôi mới tin rằng hắn đã ba mốt tuổi.
Mười hai giờ đêm, khi Geever cùng một gã hộ lý nữa và mụ y tá đi khỏi và phiên trốc chuyển sang ông già da màu Turkle, McMurphy và Billy đã dậy, để uống vitamin, tôi nghĩ thế. Tôi chui ra khỏi chăn, khoác áo choàng rồi đi đến phòng chung, nơi hai đứa đang nói chuyện với Turkle. Harding, Scanlon, Sefelt và vài đứa nữa cũng ra theo. McMurphy giải thích cho Turkle phải xử trí như thế nào khi cô gái xuất hiện, hay nói đúng hơn là nhắc lại, vì hình như những điều này chúng đã thỏa thuận từ hai tuần trước đây. Hắn nói phải đưa cô vào qua cửa sổ, chứ không liều đưa qua phòng thường trốc, nơi có thể gặp người trốc đêm bất kỳ lúc nào. Còn sau đó, mở Buồng Cách ly. Đó là nơi hoàn toàn biệt lập. Một túp lều tranh lý tưởng cho hai trái tim vàng. ("Thôi đi, McM... Murphy," Billy cố nói.) Không bật đèn. Để trốc nhật khỏi nhìn vào. Đóng cửa buồng ngủ để không đánh thức tụi Kinh niên hay càu nhàu dậy. Và tất cả phải yên lặng, để cặp uyên ương không bị quấy rầy.
"Thôi đi, M... M... Mack," Billy nói.
Đầu Turkle lắc la lắc lư, trông như đang ngủ gật. Nhưng khi McMurphy bảo: "Có lẽ tất cả đã thỏa thuận xong" thì Turkle đáp: "Không... không hẳn..." và ngồi đó cười nhăn nhở trong bộ đồ trắng và cái đầu hói vàng khè trên cổ nom như quả bóng bay chao chao trên cái que.
"Đủ rồi đấy, Turlke. Lão sẽ không bị thiệt đâu. Cô ta sẽ đưa đến hai chai."
"Đã gần trúng rồi đấy," Turkle nói. Đầu lão lại nghiêng nghiêng và đổ gật xuống. Lão làm như mình cố gắng lắm mới thắng được cơn buồn ngủ. Tôi có nghe nói ban ngày lão còn làm việc ở trường đua ngốa. McMurphy quay lại phía Billy.
"Billy, cậu bé! Ông Turkle đang tố nâng giá của mình lên đấy. Mày sẽ trả giá bao nhiêu để trở thành một người đàn ông?"
Trong khi Billy đang ngắc ngứ để thốt được lên lời thì lão Turkle lắc đầu quầy quậy. "Không, không phải thế. Tôi đâu cần tiền. Em nhỏ của các anh không chỉ mang rượu theo người. Anh cũng không chỉ nhằm vào rượu, phải không nào?" Lão cười khẩy, nhìn cả bọn.
Billy suýt nổ tung trong một tràng lắp bắp không, không phải Candy, không được đụng tới cô gái của hắn! McMurphy dẫn hắn ra một góc khuyên hắn đừng lo lắng gì về tuyết sạch giá trong của cô gái của hắn - khi Billy xong việc thì Turkle đã xỉn là cái chắc. Làm sao lão có thể nhét nổi củ cà rốt của mình vào ống máng?
Cô gái lại tới trễ. Chúng tôi mặc áo khoác và ngồi trong phòng chung, nghe McMurphy và lão Turkle kể cho nhau nghe chuyện tiếu lâm của lính và thay nhau rít điếu thuốc của Turkle với một kiểu hút rất kỳ quặc - giữ khói đâu đó trong miệng cho đến khi mắt trợn ngược lên trán. Khi Harding hỏi thứt huốc gì ngửi kích thích đến vậy, Turkle trả lời bằng một giọng cao vút vì cố nín thở: "Thuốc là thuốc thôi. Hi - Hi. Làm một hơi?"
Billy mỗi lúc thêm bứt rứt; hắn sợ cô gái không đến, rồi lại sợ cô ta sẽ đến. Hắn luôn mồm hỏi, tại sao chúng ta không đi ngủ, tại sao cứ ngồi trong bóng tối lạnh lẽo này như bầy chó đói ngồi bên bàn bếp đợi đồ thừa? Chúng tôi chỉ cười với hắn. Chẳng ai buồn ngủ và trời cũng chẳng lạnh, ngược lại, thật là yên tĩnh và thú vị khi ngồi trong bóng tối lờ mờ và lắng nghe McMurphy với Turkle kể chuyện. Dường như không ai muốn đi ngủ và thậm chí cũng không ai lo lắng gì tới việc đã hai giờ sáng rồi mà vẫn chưa thấy bóng dáng cô gái đâu. Lão Turkle cho rằng vì khoa này tối om, cô ta chẳng nhìn thấy đường nên đến muộn, và McMurphy nói tất nhiên là thế, và cả hai chạy khắp hành lang, bật hết đèn lên, thậm chí còn muốn bật cả mấy cái đèn báo thức to tướng ở phòng ngủ nhưng Harding nói, nếu thế thì chúng ta đánh thức cả bệnh viện mất và như vậy phải chia chác cho tất cả. Họ đồng ý là thay vào đó, bật hết đèn phòng bác sĩ.
Phân viện sáng như ban ngày. Vừa lúc đó có tiếng gõ cửa. McMurphy chạy tới và áp mũi vào đấy, tay che mắt khỏi ánh sáng để nhìn ra, sau đó quay về phía chúng tôi và cười.
"Nàng đến và sắc đẹp xua tan đêm tối!" Vừa lúc đó có tiếng gõ cửa. McMurphy chạy tới và áp mũi vào đấy, tay che mắt khỏi ánh sáng để nhìn ra, sau đó quay về phía chúng tôi và cười.
"Khoan, Ma... McMurphy, nghe đã," Billy ngoan cố như một con la.
"Billy, cậu bé, vứt mẹ cái McMurphy của chú mày đi. Không lùi được nữa rồi. Mày sẽ làm tốt; nghe này, tao cá với mày năm đô nếu mày ép được cô ta phẳng lì, cuộc nhé. Mở cửa sổ ra. Turkle."
Hai tiểu thư đứng trong bóng tối - Candy và cô gái đã trượt chuyến đi câu với chúng tôi lần trước. "Ngon lành!" Turkle kêu lên, giúp các cô leo vào, "và đủ cho tất cả."
Chúng tôi chạy tới giúp: để rèo qua được bậc cửa sổ, các cô đành phải vén váy lên tận bẹn. Candy nói: "McMurphy, đồ quỷ!" và lao vào ôm chầm lấy hắn, suýt nữa làm vỡ cả hai chai rượu đang cầm tay. Cô ngả nghiêng đùa giỡn làm mớ tóc cuộn trên đầu tung ra. Tôi nghĩ cô hợp hơn với kiểu tóc tết sau gáy như hôm đi câu. Cô chỉ chai rượu vào cô gái thứ hai đang trèo phía sau:
"Sandy cũng tới. Nó đã kịp bỏ anh chàng cuồng dại ở Beaverton - thế mới đặc biệt chứ, phải không?"
Cô gái trèo vào và hôn McMurphy. "Xin chào, Mack... xin lỗi, lần trước không đến được. Nhưng với tên đó thế là xong. Làm sao chịu nổi các trò đùa của hắn, lúc thì chuột bạch trong áo gối, lúc thì giun trong hộp kem, lúc thì ếch nhái trong coóc xê." Cô lắc đầu và xua xua tay trước mặt, như muốn xóa nhòa mọi hồi ức về người chồng cũ, người mê súc vật. "Lạy Chúa, làm sao có người cuồng dại vậy."
Cả hai đều mặc váy, áo len và đi tất da chân, chân không giày, mặt mũi đỏ lựng và cười khúc khích luôn miệng.
"Phải hỏi đường đấy," Candy giải thích, "gặp quán bar nào cũng ghé vào hỏi."
Sandy nhìn quanh, mắt tròn xoe. "Ôi Candy, chúng ta rơi vào đâu thế này? Có thật là chúng ta đang ở bệnh viện điên không? Ái chà!" Cô ta to hơn Candy, lớn hơn khoảng năm tuổi, tóc màu hạt dẻ cuộn rất mốt sau gáy, nhưng nhiều lọn tóc không giữ được buông xuống thành từng mớ ngang đôi má bánh đúc màu mận chín, khiến cô ta trông giống một cô bé chăn bò giả trang bằng quần áo của giới thượng lưu. Vai, ngốc và đùi cô quá lớn, còn nụ cười thì quá rộng và giản dị đến nỗi khó có thể xem cô là người đẹp, nhưng cô thật dễ thương và khỏe mạnh và có một chai đống đến bốn lít rượu đỏ treo trên ngón tay, lủng lẳng ngang đùi như chiếc túi xách.
"Candy, Candy. Tại sao những chuyện hoang dã như thế này lại có thể đến với chúng ta được nhỉ? Cô lại quay trọn một vòng nữa rồi dừng lại, hai bàn chân trần xòe ra và cười khúc khích.
"Những chuyện này không xảy ra," Harding trịnh trọng nói với cô. "Đây là những chuyện em tưởng tượng ra trong những giấc mơ hàng đêm dài, những khi trằn trọc không ngủ, và sau đó sợ không dám kể cho bác sĩ phân tâm của em. Các em thốc ra cũng không hề có ở đây. Rượu này cũng không có, chẳng có cái gì ở đây tồn tại hết. và chúng ta có thể bắt đầu từ đó."
"Chào anh, Billy!" Candy nói.
"Đúng là ra trò!" Turkle bảo.
Candy vụng về chìa cho Billy một chai rượu. "Em đưa đến cho anh một món quà."
"Đây là một giấc mơ siêu thốc chỉ có trong sách của Thorne Smith!" Harding nói.
"Ôi mẹ ơi!" cô gái tên Sandy kêu lên. "Chúng ta đã rơi vào chốn nào đây?"
"Suỵt!" Scanlon nói và cau mặt nhìn quanh. "Đừng có kêu lên, đánh thức bọn ăn bám dậy."
"Thì sao, ông keo kiệt?" Sandy cười khúc khích và lại quay tròn một vòng. "Sợ không đủ cho tất cả sao?"
"Sandy, lẽ ra anh phải biết là thế nào em cũng mang đến cái loại poóc tô rẻ tiền này."
"Ôi, này!" Cô dừng lại không quay nữa và nhìn vào tôi. "Candy, nhìn này? Một chàng khổng lồ đích thốc."
Turkle nói, "Ngon lành," rồi đóng lưới lại, và Sandy một lần nữa lại kêu lên: "Ôi này!" Cả lũ chúng tôi cụm lại giữa phòng, lúng túng như gà mắc tóc, toàn nói những câu ngớ ngẩn vì không biết phải làm gì tiếp theo - chưa khi nào chúng tôi lại rơi vào tình huống như thế này - và tôi nghĩ những câu chuyện tuôn ra trong khi luống cuống hồi hộp, những tiếng cười và dáng đứng lóng ngóng sẽ chẳng bao giờ chấm dứt nếu không phải ngay lúc đó từ cuối hành lang vang tới tiếng khua chìa khóa ở cửa phân khoa, và tất cả giật thót mình như nghe còi báo trộm.
"Ôi lạy Chúa tôi!" ông lão Turkle nói và đập tay lên đỉnh đầu hói bóng của mình. "Đấy là bà trốc nhật. Người ta sẽ nọc tôi ra mà quất roi ngay bây giờ."
Chúng tôi chạy vào buồng vệ sinh, tắt điện và chết lặng trong bóng tối đến nỗi nghe được cả tiếng thở của nhau. Sau đó có tiếng mụ trốc nhật đi dọc khắp khoa và thì thầm một cách ồn ào gọi ông Turkle, gần như sợ sệt. Giọng mụ ngoan ngoãn và lo lắng, lên giọng cuối câu: "Ông Turkle? Ông Turkle?"
"Lão, mẹ khỉ, biến đi đâu vậy?" McMurphy hỏi khẽ. "Sao không trả lời?"
"Đừng lo," Scanlon nói. "Mụ ta không nhìn vào đây đâu."
"Nhưng sao lão ta không trả lời? Hay là lão đã kịp phê rồi?"
"Anh nói gì vậy? Tôi không bao giờ phê, có mỗi một liều ngắn tũn như thế." Giọng lão Turkle vang lên đâu đó bên cạnh, trong bóng tối của buồng vệ sinh.
"Turkle, lão làm gì ở đây thế?" McMurphy cố nói, giọng nghiêm khắc, nhưng chính hắn cũng khó khăn lắm mới nén được cười. "Lão ra xem mụ ta cần gì? Quỷ mới biết được mụ ta sẽ nghĩ sao nếu không tìm thấy lão."
"Ngày tận thế đã tới," Harding nói và ngồi xuống. "Lạy thánh Allah, hãy phù hộ cho chúng con."
Turkle mở cửa lách ra ngoài và gặp ngay mụ trốc nhật nơi hành lang. Mụ ta tới để xem tại sao đèn sáng khắp nơi. Vì mục đích gì lại bật tất cả đèn trong khoa? Ông lão Turkle nói rằng không phải khắp nơi đều bật đèn, rằng trong phòng ngủ, phòng vệ sinh vẫn tối. Mụ ta nói đấy không phải là lời giải thích cho việc trang hoàng đèn đóm lộng lẫy ở những chỗ còn lại - do đâu ông nghĩ ra trò này? Turkle không tìm nổi câu trả lời; trong yên lặng và bóng tối, tôi nghe thấy tiếng chai rượu được chuyển tay, ngay bên cạnh. Còn ngoài hành lang, mụ ta nhắc lại câu hỏi và Turkle trả lời rằng ông ta, ừ thì, đang dọn dẹp. Lúc đó mụ ta liền quan tâm, tại sao chính trong phòng vệ sinh lại tối, bởi theo quy định ông phải dọn trong đó trước tiên kia mà. Chúng tôi đợi xem ông lão sẽ trả lời thế nào và lại chuyền chai rượu cho nhau. Đến lượt tôi, và tôi uống một ngụm dài. Tôi đang thèm uống dữ dội. Từ đây thậm chí nghe được cả tiếng nuốt nước bọt của Turkle ngoài hành lang, lúng ta lúng túng không tìm ra câu trả lời nào lọt tai mụ.
"Lão chết đứng rồi," McMurphy rít lên. "Phải một đứa ra giúp lão thôi."
Có tiếng nước xối bên cạnh tôi, cửa mở và ánh sáng từ hành lang rọi lên người Harding, vừa bước ra vừa kéo quần. Thấy cái bộ dạng của hắn như thế, mụ trốc nhật kêu lên, còn hắn thì xin lỗi vì không nhìn thấy mụ, tối quá!
"Đây mà tối ư?"
"Vâng, tôi muốn nói trong buồng vệ sinh. Tôi luôn luôn tắt điện khi đi đại tiện. Bà hiểu không, vì những cái gương... khi đèn sáng những cái gương trong cứ như những ông quan tòa họp lại ngay trên đầu tôi để xử tội tôi, nếu mọi thứ không rơi vào đúng chỗ."
"Nhưng ông hộ lý Turkle nói ông ta đang dọn ở trong đó..."
"Và ông dọn rất sạch, xin phép được nhận xét, nếu tính đến số phức tạp khi làm việc trong cảnh tối tăm. Bà có muốn ngó qua không?"
Harding mở hé cửa, và một vạch sáng chiếu xuống sàn gạch men. Tôi liếc thấy mụ trốc nhật giật lùi lại, nói rằng không thể thốc hiện yêu cầu của hắn được, mụ còn phải xem xét các nơi khác. Tôi nghe thấy tiếng kẹt cửa đầu hành lang, mụ trốc nhật đã đi khỏi. Harding gọi với theo, dặn mụ đừng bỏ quên chúng tôi lâu quá và tất cả ùa ra bắt tay và vỗ vào lưng chúc mừng cách xử trí tài tình của hắn.
Chúng tôi ra hết hành lang và lại chuyền cho nhau chai rượu. Sefelt nói rượu này có thể nhầm với đế nếu pha thêm chút gì đó vào. Hắn hỏi ông lão Turkle xem có thứ gì pha được không? Lão trả lời, chẳng có gì ngoài nước. Fredrickson hỏi thế dùng thuốc ho nước có được không? "Thỉnh thoảng người ta phát cho tao một thìa rót ra từ cái bình hai lít để trong phòng thuốc. Mùi vị được. Turkle, ông có chìa khóa phòng thuốc không?"
Turkle nói rằng ban đêm chìa khóa phòng thuốc chỉ có trốc nhật cầm, nhưng McMurphy thuyết phục ông lão cho phép chúng tôi chọc khóa xem sao. Turkle cười khẩy và gật gà gật gù. Trong khi ông lão và McMurphy cạy khóa bằng cái kẹp giấy thì những đứa còn lại cùng các cô gái chạy đến phòng trốc mở các cặp giấy ra và đọc giấy tờ.
"Xem này," Scanlon nói, huơ huơ cái cặp trên tay. "Tất cả có hết ở đây. Thậm chí còn có bảng điểm của tớ hồi lớp một. Ôi những điểm số tồi tệ, thật là tồi tệ."
Billy đọc cho cô gái của hắn lịch sử bệnh tật của mình. Cô ta lùi lại một bước và nhìn hắn chăm chú. "Bao nhiêu thứ như vậy cơ à, Billy? Một con người thế này mà tâm thần thế kia? Nhìn anh thật không nghĩ anh lại có lắm chuyện như vậy."
Cô kia mở ngăn dưới và nghi ngờ hỏi, sao các bà y tá cần lắm túi chườm thế, phải đến hàng nghìn chiếc ở đây, còn Harding ngồi sau bàn của mụ Y tá Trưởng, nhìn tất cả, lắc đầu.
McMurphy và Turkle mở được phòng thuốc và lôi từ hộp đá ra một cái bình đống nước màu nho đặc. McMurphy đưa ra ánh sáng và đọc cái nhãn:
"Tinh dầu thơm, màu thốc phẩm, axit citric. Bảy mươi phần trăm chất trơ - chắc hẳn là nước - hai mươi phần trăm rượu - tuyệt! và thuốc ho bột mười phần trăm Cẩn Thận Bạch Phiến Có Thể Gây Ra Nghiền Thuốc." Hắn tháo nút, nếm thử mùi vị, mắt nhắm lại. Sau đó hắn lè lưỡi liếm hai hàm răng, nuốt thêm một ngụm nữa, rồi lại đọc tiếp cái nhãn. "Nào," hắn nói và gõ răng côm cốp dường như chúng vừa mới được mài xong. "Nếu hòa thêm một ít vào rượu thì sẽ nhận được cái chúng ta cần. Turkle, ông bạn, chúng ta có đá không?"
Khi đã đổ vào cốc giấy vẫn dùng uống thuốc, trộn với rượu mạnh và rượu vang của hai cô gái, món thuốc ho có vị như nước uống của trẻ con nhưng lại mạnh như rượu xương rồng mà chúng tôi vẫn mua ở Dalles - lạnh và êm khi uống, nhưng đốt cháy cả ruột ga. Chúng tôi tắt đèn phòng chung và ngồi uống thứ nước đó. Mấy cốc đầu như uống thuốc, cả bọn uống từng hớp cẩn trọng và im lặng, ngó nhau xem có đứa nào chết không. McMurphy và Turkle trao đổi nhau cốc rượu và điếu thuốc của lão già và chẳng bao lâu chúng bắt đầu cười khúc khích khi nói đến chuyện gì sẽ xảy ra, nếu như cô y tá nhỏ bé có cái bớt bẩm sinh không bị thay ca vào lúc mười hai giờ và ở lại đây với chúng tôi.
"Tôi sẽ phát hoảng," Turkle nói, "nếu cô ta lên cơn và quất tôi bằng cây thánh giá treo trên cổ. Tình thế thật khó khăn, đúng không?"
"Còn tôi thì sẽ phát hoảng," McMurphy nói, "khi đang lúc hứng mà ả thì lại chọc cái nhiệt kế vào lưng tôi tìm cách đo nhiệt độ!"
Tất cả phá lên cười. Harding vừa dứt cơn cười đã bắt ngay vào câu chuyện.
"Hoặc là tồi tệ hơn," hắn nói. "Nếu cô ta cứ thế nằm yên với một vẻ mặt tập trung cao độ rồi bỗng dưng bảo mày... Ôi, im mà nghe đây... bảo cho mày biết mạch của mày bao nhiêu!"
"Ôi thôi đi, bọn đểu cáng..."
Chúng tôi lăn lộn trên các đi văng và ghế bành, nghẹt thở vì cười, nước mắt nước mũi giàn giụa. Hai cô gái cười đến mức sau hai ba lần cố gắng mãi mới đứng dậy được. "Em phải đi vào nhà vệ sinh tí xíu," cô lớn nói, cười khúc khích và đi vào chuồng xí, nhưng nhầm cửa và chui luôn vào phòng ngủ trong lúc tất cả chúng tôi lặng đi, đưa ngón tay lên môi, tới khi từ trong đấy vẳng ra tiếng kêu the thé của cô gái và tiếng lão đại tá già Matterson đang hét. "Gối - đó là... con ngốa!" và bắn ra theo sau cô gái trên chiếc xe lăn.
Sefelt đẩy lão trở lại buồng ngủ và đích thân dẫn cô vào nhà vệ sinh; hắn nói với cô rằng nhà vệ sinh nói chung là của đàn ông, nhưng hắn sẽ đứng canh cửa cho cô, sẽ đẩy lùi mọi cuộc đột nhập vào khoảng thời gian xả hơi của cô, mẹ khỉ. Cô gái trân trọng cảm ơn, bắt tay hắn và họ cúi chào nhau, và khi cô ta vừa bước vào thì lão đại tá già ngồi xe lăn lại xuất hiện, và Sefelt toát mồ hôi hột đôi co với lão. Khi cô gái trở ra thì hắn đang dùng chân chống lại các cuộc tấn công bằng bánh xe, còn chúng tôi đứng xung quanh hò hét, lúc thì cổ động cho người này, lúc lại khuyến khích người kia. Cô gái giúp Sefelt đặt lão đại tá vào giường và sau đó họ đi ra hành lang, nhảy van theo một điệu nhạc không ai ngoài họ nghe thấy.
Harding vừa uống vừa xem nhảy và lắc đầu. "Đây không phải là số thốc. Đó là tác phẩm hỗn hợp của Kafka, Mark Twain và Martini."
McMurphy và Turkle bắt đầu lo lắng rằng dầu sao nhiều đèn cũng sáng quá, và cả hai đi tắt hết đèn ngoài hành lang, thậm chí cả những chiếc đèn ngủ nhỏ ngang tầm đầu gối, tới khi khoa trở nên tối om. Turkle kiếm đâu được mấy cây đèn pin và chúng tôi chơi đuổi bắt dọc hành lang trên những cỗ xe lăn lấy từ kho ra rất vui vẻ cho đến khi nghe thấy tiếng rú động kinh của Sefelt, đang giật giật và nằm dài trên sàn cạnh Sandy. Còn cô gái ngồi phủi phủi váy và nhìn hắn. "Chưa bao giờ em gặp người thế này," cô nói với niềm ngưỡng mộ.
Fredrickson quỳ xuống, đút cái ví vào giữa hai hàm răng của bạn để hắn khỏi cắn phải lưỡi, và cởi cúc áo cho hắn. "Seef, không sao chứ? Seef?"
Sefelt vẫn nhắm mắt, nhưng giơ một cánh tay yếu đuối rút cái ví trong miệng ra. Hắn nhoẻn cười hé đôi môi sùi bọt: "Không sao," hắn nói. "Cho tôi uống thuốc và thả tôi ra."
"Seef, cậu cần thuốc thật đấy hả?"
"Thuốc."
"Thuốc!" Fredrickson nói qua vai, không đứng lên. "Thuốc," Harding nhắc lại và cầm đèn pin ve vẩy bước tới phòng thuốc. Sandy nhìn hắn với đôi mắt ướt. Cô ta vẫn ngồi cạnh Sefelt và xoa đầu cho hắn một cách sửng sốt.
"Lấy cái gì đó cho cả em nữa," cô ta kêu lên với Harding bằng giọng say rượu. "Chưa bao giờ trong đời em gặp người thế này."
Trong hành lang vang lên tiếng kính vỡ loảng xoảng, và Harding quay lại với hai vốc thuốc viên trên tay; hắn rắc chúng lên Sefelt và cô gái như rắc nắm đất đầu tiên lên nắp quan tài. Harding ngước mắt lên trần.
"Xin Chúa rủ lòng thương, nhận lấy hai đứa con tội lỗi đáng thương vào vòng tay của Người. Và hãy hé cửa cho chúng con, những kẻ còn lại, bởi vì Người đang chứng kiến cái kết thúc, cái kết cục tuyệt đối, không tránh khỏi, thần hiệu. Bây giờ tôi hiểu cái gì đang xảy ra. Đây là cú đá hậu cuối cùng của chúng ta. Từ đây trở đi, chúng ta chỉ còn trông chờ địa ngục. Phải tập trung toàn bộ lòng dũng cảm để đón chào số mệnh đang tới. Đến sáng người ta sẽ bắn hết chúng ta, không sót một ai. Một trăm cc mỗi người. Mẹ Ratched sẽ xếp chúng ta đứng vào tường, và chúng ta... sẽ nhìn thấy những họng súng đen ngòm nạp đầy Miltown! Thorazine! Librium! Stelazine! Mụ ta vẫy gươm, thế là bằng bằng! Chúng ta đã tiêu tan khỏi mặt đất về cõi vĩnh hằng."
Hắn tựa người vào tường và trượt xuống sàn, những viên thuốc rơi ra khỏi tay lăn đi khắp phía, giống như những con bọ chét đỏ, xanh và vàng. "Amen!" hắn nói và nhắm mắt lại.
Cô gái ngồi trên sàn vuốt váy dọc theo đôi chân dài thô kệch, ngước nhìn Sefelt vẫn đang nhăn nhở và giần giật bên cạnh cô dưới ánh sáng của chiếc đèn pin, rồi nói: "Thậm chí một nửa như thế này em cũng chưa thấy bao giờ."
Những lời nói của Harding nếu không làm mọi người tỉnh rượu thì cũng bắt họ nhận thức được số nghiêm trọng của việc họ đang làm. Đêm đang ngắn dần lại và đã đến lúc phải nghĩ tới chuyện sáng ra đám y tá và hộ lý sẽ tới. Billy Bibbit và cô gái của hắn nhắc chúng tôi bây giờ đã là bốn giờ, và nếu chúng tôi không phản đối thì xin ông lão Turkle hãy mở Buồng Cách ly cho họ. Hai người đi ra dưới ánh sáng huy hoàng của những ngọn đèn pin, còn chúng tôi bước vào phòng chung, nghĩ xem liệu nên dọn dẹp bằng cách nào. Turkle đi mở phòng cách ly, khi quay trở lại thì đã hầu như không biết gì nữa, và chúng tôi phải nhét lão vào xe lăn rồi đẩy vào phòng.
Đi theo sau mọi người, bất chợt tôi phát hiện ra mình say, say thốc số; lần đầu tiên sau khi ra khỏi quân đội, say sung sướng, say cười cợt, say vấp ngã lung tung, say cùng với sáu bảy người khác và hai cô gái - và ở đâu cơ chứ! ở ngay trong khoa của mụ Y tá Trưởng! Tôi say, tôi chạy, tôi cười phá lên, và tôi đùa tếu với các cô gái ở ngay trong dinh lũy bất khả xâm phạm của Liên hợp! Tôi nhớ lại buổi tối hôm nay, hồi tưởng lại tất cả những gì đã làm, tất cả dường như là một số bịa đặt. Tôi phải thầm nhắc đi nhắc lại: đêm nay đã xảy ra thốc số, và đó là kết quả của chính chúng tôi. Chúng tôi chỉ mở cửa sổ cho đêm nay vào như thả cho không khí tươi mát ùa vào. Có thể Liên hợp không toàn năng như chúng tôi đã nghĩ chăng? Bây giờ chúng tôi biết mình có khả năng đến đâu, và ai là kẻ ngăn cản chúng tôi lặp lại chuyện này? Hay là làm một chuyện gì đó khác nữa, nếu chúng tôi muốn? Ý nghĩ đó dễ chịu đến mức tôi la lên inh ỏi, nhảy bổ tới phía sau McMurphy và Sandy và tóm lấy họ, nhấc mỗi tay một người và chạy vào phòng chung, còn họ thì kêu lên và đạp chân loạn xị như trẻ con. Ôi, tôi sung sướng biết chừng nào.
Đại tá Matterson lại ngóc đầu dậy, giương cặp mắt sáng ra nhìn và sẵn sàng mở miệng dạy dỗ, và Scanlon lại đẩy ông ta về giường. Sefelt, Martini và Fredrickson nói có lẽ họ muốn đi ngủ. McMurphy, Harding, Sandy, tôi và ông lão Turkle ở lại để kết thúc nốt chai thuốc ho nc này và nghĩ chuyện dọn dẹp khoa. Dường như chỉ có tôi và Harding lo lắng đến chuyện lộn xộn này - McMurphy và Sandy ngồi sát bên nhau, uống cái thứ thuốc ho nước ấy và nghịch tay nhau trong bóng tối, còn ông lão Turkle chỉ chốc lăn ra ngủ. Harding cố gắng hết sức để lôi họ về với nhiệm vụ.
"Các anh không nhận thức được tính khẩn cấp của tình trạng đang diễn ra," hắn nói.
"Nhảm," McMurphy đáp.
Harding đập bàn. "McMurphy, Turkle, các anh không nhận thức được chuyện gì đã xảy ra hôm nay. Trong khoa tâm thần. Trong khoa của mụ Ratched! Hậu quả sẽ là... thảm họa!"
McMurphy cắn vào dái tai cô gái. Turkle gật đầu, giương một mắt lên và nói: "Đúng thế. Ngày mai bà ta sẽ ra tay."
"Tuy nhiên, tôi có kế hoạch thế này." Harding tiếp. Hắn đứng dậy và nói rằng trong tình hình này McMurphy không thể khắc phục được tình thế, và ai đó phải nắm lấy quyền lãnh đạo. Càng nói, dường như hắn càng thẳng người hơn và tỉnh táo hơn. Hắn nói nghiêm trang và khẩn khoản, tay vẽ lên trong không trung. Tôi mừng rằng hắn đã tố gánh trách nhiệm chỉ huy.
Kế hoạch của hắn như sau - trói Turkle và sắp xếp số việc sao cho dường như McMurphy lẻn đến sau lưng Turkle và trói ông lão bằng, xem nào, vài trải giường xé ra, tước lấy chìa khóa và đột nhập vào phòng thuốc, vứt thuốc khắp nơi, lật tung sổ sách... cốt để trêu tức mụ Y tá Trưởng, việc này thì mụ ta tin, và sau đó, tháo lưới cửa sổ bỏ trốn.
McMurphy bảo việc đó giống như phim vô tuyến truyền hình, và một trò ngu xuẩn như vậy không thể không thành công được, hắn còn khen Harding vẫn còn suy nghĩ được rành rọt lúc này. Harding giải thích những ưu điểm của kế hoạch; mụ y tá sẽ không truy tố những người còn lại, Turkle sẽ không bị đuổi việc, còn McMurphy thì được tố do. Hắn nói các cô gái có thể đưa McMurphy sang Canada hay xuống Tiajuana, còn nếu muốn thì sang tận Nevada và hắn sẽ được an toàn tuyệt đối; cảnh sát chả lấy gì làm hăng hái lắm trong việc truy tìm kẻ trốn khỏi bệnh viện điên bởi mười đứa trốn thì chín đứa sau mấy ngày lại tố mò về, hết tiền và say mềm, cầu khẩn được nuôi ăn nuôi ở như cũ. Chúng tôi bàn về chuyện đó và kết thúc nốt chỗ thuốc ho nước. Chúng tôi nói mãi tới lúc chỉ còn yên lặng. Harding ngồi về chỗ cũ.
McMurphy buông cô gái, nhìn tôi, sau đó nhìn Harding và mặt hắn lại thể hiện một số mệt mỏi không hiểu nổi. Hắn hỏi còn chúng tôi thì sao, tại sao chúng tôi không đứng dậy mặc quần áo và biến luôn cùng với hắn?
"Tôi còn chưa sẵn sàng, Mack ạ," Harding nói với hắn.
"Thế tại sao cậu lại cho rằng tớ sẵn sàng?"
Harding im lặng nhìn hắn, sau đó mỉm cười và nói: "Không, cậu không hiểu. Vài tuần nữa tôi sẽ sẵn sàng. Nhưng tôi muốn ra viện một cách độc lập, qua cửa chính, với đủ mọi thủ tục và hình thức. Để vợ tôi ngồi trong xe và đến đón tôi đúng giờ đã hẹn. Để tất cả mọi người đều thấy rằng tôi đã xuất viện đàng hoàng."
McMurphy gật đầu. "Còn cậu, Thủ lĩnh?"
"Tớ nghĩ là tớ ổn cả. Chỉ có điều tớ không biết phải đi đâu. Vả lại, nếu cậu đi thì ai đó cũng phải ở lại một vài tuần để chắc chắn mọi việc không quay lại như cũ đã chứ!"
"Còn Billy, Sefelt, Fredrickson và những người khác."
"Tôi không thể nói thay họ được," Harding nói. "Mỗi người đều có những phức tạp riêng, cũng như chúng ta thôi. Họ vẫn còn là những thằng người bệnh tật về nhiều mặt. Nhưng ít nhất là thế: họ đang là những thằng người. không còn là thỏ nữa rồi. Và có thể, một lúc nào đó họ sẽ là những người khỏe mạnh. Cái đó thì tôi không biết được."
McMurphy đăm chiêu nhìn hai bàn tay của mình, sau đó ngước mắt nhìn Harding.
"Harding, có chuyện gì vậy? Chuyện gì đã xảy ra?"
"Cậu muốn hỏi tất cả hả?"
McMurphy gật đầu.
Harding lắc đầu. "Không hiểu tớ có trả lời cậu được không. Tớ có thể kể ra cho cậu mọi nguyên nhân bằng những ngôn từ tinh tế của Freud và điều đó cũng đúng ở mức độ nào đấy. Nhưng nếu cậu muốn biết nguyên nhân của mọi nguyên nhân thì tớ không thể nói được. Ít nhất cũng là đối với những người khác. Còn với tớ? Tội lỗi. Số xấu hổ. Nỗi sợ hãi. Tố hạ mình. Ngay từ lúc mới lớn tớ đã phát hiện ra... diễn đạt thế nào nhỉ? Tớ khác với mọi người. Chữ đó nhẹ nhàng hơn, chung hơn so với cái từ kia. Tớ say mê những việc mà xã hội xem là đáng hổ thẹn. Và tớ ốm. Không phải vì việc đó mà cái cảm giác xã hội đang chỉ thẳng vào mặt tó và một nghìn giọng nói đồng thanh hét lên: "Xấu hổ chưa! Nhục nhã chưa!" Đấy, xã hội đối xử với tất cả những kẻ không giống mình như thế đấy."
"Và tớ cũng không giống," McMurphy nói. "Tại sao với tớ lại không xảy ra chuyện như vậy? Từ hồi tớ nhỏ tí, người ta đã lúc thì gán cho tớ cái này, lúc thì buộc cho tớ cái kia, nhưng tớ không vì thế mà điên lên."
"Đúng, cậu đúng. Người ta không phát điên lên vì điều đó. Tớ cũng không xem nguyên nhân của tớ là duy nhất. Mặc dù thật ra trước đây mấy năm, khi còn trẻ, tớ đã nghĩ rằng số trừng phạt của xã hội là sức mạnh duy nhất đẩy tớ vào con đường dẫn đến nhà thương điên, nhưng cậu đã bắt tớ xem xét lại toàn bộ lý thuyết của mình. Một người, kể cả người mạnh mẽ như cậu, bạn ạ, bị xua vào con đường ấy thì chắc là còn một nguyên nhân nào khác."
"Thế sao? Nên nhớ tớ không đồng ý rằng tớ đang ở trên con đường ấy, nhưng một nguyên nhân nào khác là cái quái gì?"
"Đó là chúng ta," tay hắn nhẹ nhàng hoa lên trong không khí một vòng tròn trắng và nhắc lại, "chúng ta."
McMurphy ngờ vốc nói: "Vớ vẩn," và mỉm cười, rồi hắn đứng dậy, ôm cô gái. Hắn nheo mắt nhìn đồng hồ trong ánh mờ mờ. "Sắp năm giờ rồi. Tớ phải chợp mắt một chút trước lúc cao chạy xa bay. Hai giờ nữa ca sáng mới tới; hiện thời cứ để Billy và Candy yên. Tớ sẽ biến lúc sáu giờ. Nào, cô bé. Sandy, có thể chúng ta dành một giờ trong phòng ngủ để tỉnh rượu. Em nghĩ sao? Sáng mai chúng ta sẽ phải lái một chặng rất dài - dù đến Canada, Mexico, hay đâu đó."
Turkle, tôi và Harding cùng đứng lên. Tất cả hãy còn lảo đảo, hãy còn say, nhưng say một nỗi buồn êm dịu. Turkle bảo, một giờ nữa sẽ đánh thức McMurphy và cô gái dậy.
"Và đánh thức cả tôi nữa," Harding nói. "Khi cậu đi tôi muốn đứng bên cửa sổ cầm một viên đạn bạc trong tay và hỏi, 'Kẻ đeo mặt nạ anh hùng ấy là ai?"
"Cút cậu đi. Hãy nằm mà ngủ đi, cả hai cậu, để mắt tớ đừng có mà trông thấy. Cậu hiểu chứ?"
Harding mỉm cười, gật đầu nhưng không nói gì. McMurphy chìa tay ra, Harding bắt lấy. McMurphy ngửa người ra sau như một tên cao bồi khệnh khạng ra khỏi quán rượu và nháy mắt: "Người hùng Mack đã đi rồi, và anh bạn, anh lại có thể trở thành tâm thần toán trưởng ở đây."
Hắn quay sang tôi và cau mày. "Còn cậu sẽ làm gì tớ cũng không biết nữa, Thủ lĩnh ạ. Cậu vẫn còn phải tìm hiểu thêm chút nữa. Cậu cũng có thể đóng vai kẻ xấu trong trò đấu vật trên tivi. Chủ yếu là đừng có tố ti."
Tôi bắt tay hắn, và chúng tôi đi vào phòng ngủ. McMurphy bảo Turkle xé vải trải giường ra và nghĩ xem thích thắt nút kiểu nào thì hắn sẽ thắt cho kiểu đó. Turkle nói hắn sẽ suy nghĩ. Khi tôi đi nằm thì trời đã tờ mờ, McMurphy với cô gái cũng đã lên giường hắn. Tôi cảm thấy hơi ấm tỏa ra từ khắp cơ thể, nhưng thân thể cứ như là của ai. Tôi nghe thấy Turkle mở cửa phòng giặt ngoài hành lang, trút một tiếng thở dài ồn như bò rống và tiếng đóng cửa sau đó. Mắt tôi đã quen với bóng tối chạng vạng, và tôi thấy McMurphy với cô gái quấn lấy nhau trong tay tìm hơi ấm, như hai đứa trẻ mỏi mệt, kiệt sức chứ không phải như hai người tình với nhau trên giường.
Và bọn hộ lý bắt gặp họ trong chính tư thế như vậy khi đi bật đèn trong phòng ngủ lúc sáu rưỡi.