Nguyên tác: The Light Between Oceans
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Phần Iii.3
K
ể từ lúc về nhà Isabel cứ tự hỏi Lucy sao rồi – con bé ở đâu rồi? Đã đến giờ ngủ chưa? Trưa nay ăn gì đây? Rồi trí óc cô lên tiếng, nhắc nhở Isabel rằng giờ đây mọi thứ đã khác xưa, và cô lại thấy đau đớn mất mát như mới nguyên. Chuyện gì đang xảy ra với con gái cô? Ai đang cho nó ăn? Ai đang thay áo cho nó? Lucy côi cút một mình.
Isabel thấy nghẹt thở khi nhớ lại gương mặt của Lucy lúc nó bị ép uống cốc thuốc ngủ đắng chát. Cô cố khỏa đi bằng những kỷ niệm khác: Lucy nghịch cát; Lucy bịt mũi lại trước khi nhảy xuống nước; gương mặt nó khi đang ngủ – thư thái, an tâm, hoàn hảo. Trên đời này chẳng có gì đẹp hơn cảnh tượng đứa con của mình đang ngủ. Khắp cơ thể của Isabel ghi dấu của Lucy: ngón tay của cô nhớ lớp tóc mượt mà; hông cô nhớ sức nặng của con bé, nhớ cả cặp chân nó vòng qua eo cô, nhớ cả đôi má ấm áp, mềm mại.
Khi miên man qua những ký ức đó, cố dỗ dành mình như hút mật từ bông hoa đã héo rũ, Isabel còn nhận ra bóng đen đang ở sau lưng, bóng đen mà cô không thể đối mặt. Bóng đen tìm đến với cô trong những cơn mộng mị, mờ mịt và đau khổ. Bóng đen đó gọi tên cô, “Izzy! Izzy, mình à...” nhưng cô không thể quay lại, hai vai cô rụt lên đến tận tai như ngăn không cho ai chạm tới. Cô bừng tỉnh, nghẹt thở, ruột gan rối bời.
Trong lúc đó, cha mẹ Isabel nghĩ rằng Isabel im lặng là để bảo vệ Tom, một lòng một dạ đến mù quáng. “Con chẳng có gì để nói cả,” cô chỉ nói một câu đó trong ngày đầu tiên về đến nhà, rồi cô lặp lại y như vậy khi Bill và Violet cố dò hỏi về Tom, về chuyện vừa xảy ra.
***
Dãy phòng giam ở phía sau đồn cảnh sát xưa nay chỉ phải giam mấy tay say xỉn cho tới khi giã rượu, hoặc giam mấy tay chồng vũ phu, chờ bình tĩnh lại và hứa hẹn sẽ không nổi nóng giơ nắm đấm lên nữa. Cảnh sát trực còn có khi không thèm khóa cửa nhà giam. Có khi, nếu là người quen biết, trong một ca trực dài buồn tẻ thì còn được thả ra làm vài ván bài trong văn phòng. Đương nhiên là phải hứa không được bỏ trốn.
Hôm đó Harry Garstone đặc biệt phấn khích. Cuối cùng cũng có một tên tội phạm nghiêm trọng. Anh ta vẫn còn càm ràm về chuyện một năm trước đây người ta giải Bob Hintching từ Karridale đến dugns ngay hôm anh ta nghỉ trực. Tay đó từ khi trở về từ Gallipoli đã loạn trí, trong cơn giận dữ đã cầm dao phay xông vào người anh trai ở nông trại bên cạnh, chỉ vì tranh chấp thừa kế. Bob Hitching cuối cùng bị phạt tử hình treo cổ. Vậy nên giờ đây Garstone rất thích thú với các thể loại thủ tục. Anh ta rút ra cuốn sổ quy định, kiểm tra tới lui để chắc chắn đúng thủ tục.
Khi Ralph hỏi Tom, viên cảnh sát làm đủ lệ bộ tra cứu sách vở, chậc lưỡi, rồi chu má hết bên này đến bên khác, miệng bạnh như cái khe thùng thư. “Xin lỗi thuyền trưởng Addicott. Tôi ước chi có thể cho bác vào nhưng trong này có nói…
“Đừng có mà bày trò khỉ với tôi, Harry Garstone à, coi chừng tôi mách lại với má cậu đó.”
“Quy định rất cụ thể, và…”
Các bức tường ở đồn cảnh sát rất là mỏng, giọng Vernon Knuckey cắt ngang lời Garstone. Thường Knuckey chẳng thèm đứng dậy khi phải can thiệp những chuyện như vậy. “Đừng làm bộ nữa Garstone. Trong nhà giam là cái anh gác đèn, có phải Ned Kelly[1] gì hả. Để ông ấy vào đi.”
[1] Một tay tội phạm giang hồ khét tiếng người Australia gốc Ireland sống vào cuối thế kỷ 19, thường xuyên đối đầu với cảnh sát và thường đuọc ví là “Robin Hood” của Australia. (ND)
Viên cảnh sát tiu nghỉu giận cá chém thớt, cố tình để chùm chìa khóa khua loạn khi dẫn Ralph qua một lần cửa khóa, xuống cầu thang và đi dọc theo một hành lang tối, tới chỗ mấy phòng giam có chắn song.
Trong một phòng giam như thế Tom ngồi trên chiếc giường vải bố gắn vào tường. Anh nhìn gương mặt Ralph – rầu rĩ và xám xịt.
“Tom à,” người hoa tiêu lên tiếng.
“Bác Ralph,” Tom gật đầu.
“Nghe tin là tôi tới ngay. Hilda gởi lời thăm,” lão nói, “cả Blue nữa,” ông lão làm cái việc chuyển lời chào như thường lệ.
Tom lại gật đầu.
Cả hai ngồi đó, im lặng. Một lúc sau, Ralph lên tiếng, “Nếu anh muốn tôi ra về...”
“Không mà, cháu mừng khi thấy bác vào đây. Chỉ có điều cháu không có gì để nói cả, xin lỗi bác. Nếu mình không nói gì một lúc được không?”
Ralph có rất nhiều câu hỏi, của riêng lão lẫn của bà vợ nhưng lão vẫn im lặng ngồi trên chiếc ghế xập xệ. Trời đang ấm dần lên, mấy bức tường gỗ bắt đầu kẽo kẹt, như một sinh vật dần thức tỉnh, vươn vai. Ngoài kia mấy con chim hút mật và đám chìa vôi vẫn ríu rít. Thi thoảng một chiếc xe rồ máy trên đường, át đi cả tiếng râm ran của đám dế và ve sầu.
Tâm trí Ralph ngổn ngang, lời nói cứ chực phát ra nhưng lão ghìm lại được. Lão đặt tay lên đùi, để kìm lại mà không chồm đến lắc vai Tom. Cuối cùng không nhịn được nữa, lão bật ra, “Trời đất ơi, Tom, chuyện gì vậy hả? Lucy là em bé nhà Roennfeldt có nghĩa là sao?”
“Đúng vậy.”
“Nhưng... làm sao... Chuyện quỷ quái gì vậy...?”
“Cháu đã giải thích hết với bên cảnh sát rồi Ralph à. Những việc cháu đã làm thực đáng xấu hổ.”
“Khi còn ở Janus anh nói chuyện muốn sửa sai, có phải là chuyện này không?”
“Cũng không đơn giản là vậy.”
Hai người im lặng một hồi lâu.
“Anh nói tôi biết chuyện gì đã xảy ra đi.”
“Có ích gì hả Ralph. Cháu đã quyết định sai, giờ đến lúc phải trả giá.”
“Nhưng trời đất, Tom, ít ra anh phải để tôi giúp anh chứ!”
“Bác không thể làm gì được đâu. Việc này mình cháu phải chịu.”
“Anh có làm gì nữa thì anh vẫn là người tốt, tôi sẽ không để anh phải chịu như vậy.” Lão đứng dậy. “Để tôi đi kiếm luật sư đàng hoàng... xem người ta nói gì.”
“Luật sư cũng không làm gì được đâu, Ralph à. Mục sư thì còn có lý hơn.”
“Nhưng mấy chuyện người ta nói về anh, toàn là chuyện bịa đặt, đúng vậy không?”
“Không phải cái gì cũng bịa đặt, Ralph à.”
“Anh nhìn tôi đây mà nói chính anh đã gây chuyện! Nói là anh đã đe dọa Isabel! Nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói, rồi tôi sẽ để cho anh yên.”
Tom nhìn thớ gỗ trên tường.
“Anh thấy chưa?” Ralph thốt lên, đắc thắng. “Anh còn không làm vậy được nữa!”
“Cháu là người phải chịu trách nhiệm, không phải cô ấy.” Tom nhìn Ralph, rồi nghĩ xem liệu anh có thể nói với lão chuyện gì, giải thích cho lão nghe mà không làm hại đến Isabel. Cuối cùng, anh nói, “Izzy chịu khổ đã đủ rồi. Không thể để cô ấy phải khổ nữa.”
“Nhưng nộp mạng của anh như vậy thì giải quyết được gì. Việc phải được suy xét đàng hoàng.”
“Chẳng thể làm gì được cả, Ralph à, không thể thay đổi được gì nữa. Cháu mang nợ với Isabel.”
***
Phép màu là có thật: có chứng cứ rõ ràng. Những ngày sau khi Grace trở về, Cha Norkells nhận thấy giáo đoàn của mình tăng lên rõ rệt, đặc biệt là đàn bà. Nhiều người mẹ đã từng từ bỏ hy vọng gặp lại đứa con trai yêu quý, những quá phụ thời chiến tranh giờ đây lại say sưa cầu nguyện, không còn thấy chuyện cầu nguyện là ngớ ngẩn. Thánh Jude chưa bao giờ được người ta chú ý đến vậy. Những nỗi đau đớn mất mát cũ kỹ trỗi dậy, những nhung nhớ còn nguyên được vỗ về bởi thứ dầu xoa từ lâu tưởng đã cạn kiệt – hy vọng.
***
Gerald Fitzgerald ngồi đối diện với Tom, trên bàn giữa họ đầy giấy tờ và mấy sợi dây hồng dùng để buộc hồ sơ vụ án. Luật sư của Tom thấp người, hói đầu, giống như vận động viên cưỡi ngựa mặc đủ lệ bộ complet. Trông ông ta vừa khỏe khoắn vừa nhanh nhẹn. Ông luật sư đáp tàu từ Perth đến nơi tối hôm qua, lúc ăn tối ở nhà hàng The Empress đã tranh thủ đọc hồ sơ vụ án.
“Anh đã có cáo trạng chính thức. Partageuse có tòa kinh lý hai tháng một lần, ông quan tòa vừa mới ghé qua vậy nên anh sẽ bị giam ở đây đến khi ông ấy quay lại. Bị giam ở đây chắc chắn sẽ tốt hơn nhiều so với ở Albany. Ta sẽ có thời gian để chuẩn bị phiên sơ thẩm”.
Tom nhìn ông luật sư, ra ý thắc mắc.
“Tức là phiên tòa đầu tiên, quyết xem có xét xử chính thức không. Nếu có người sẽ quyết định sẽ mang anh ra tòa ở Albany, hay Perth. Cũng tùy”.
“Xét xử các tội gì kia?”
“Giờ hãy xem các cáo buộc”, Fitzerald đáp, “rồi anh sẽ biết thôi”. Ông luật sư lại lướt mắt qua tờ danh sách trước mặt. “Có vẻ như họ làm rất mạnh tay. Luật hình sự Tây Australia. Luật công chức Khối Thịnh Vượng Chung. Luật Điều tra Tây Australia. Luật Hình sự Khối Thịnh Vượng Chung. Một tờ cáo trạng hổ lốn vừa Luật quốc gia, vừa luật của Khối Thịnh Vượng Chung”. Ông ta mỉm cười, xoa hay tay vào nhau. “Đúng như tôi muốn”.
Tom nhướng mày tỏ ý ngạc nhiên.
“Điều đó cho thấy họ đang rối trí, không biết nên quy anh tội gì”, ông luật sư nói tiếp. “Thiếu trách nhiệm gây hiệu quả nghiêm trọng – hai năm và nộp phạt. Xâm phạm tử thi – hai năm kèm lao động công ích. Không trình báo khi phát hiện tử thi, ừ thì,” ông ta bật cười khẩy, chỉ là phạt mười bảng thôi. Lập giấy khai sinh khống – hai năm lao động công ích và phạt hai trăm bảng”. Ông luật sư gãi cằm.
Tom buộc miệng, “Còn tội… tội bắt cóc trẻ con thì sao?”. Đây là lần đầu tiên anh dùng cụm từ đó, thấy nao núng khi nghe chính miệng mình nói ra.
“Điều 343 luật Hình sự. Bảy năm lao động công ích”. Ông luật sư làm điệu bộ mím miệng, tự gật đầu với chính mình, anh Sherbourne à, lợi thế của anh là ở chỗ luật pháp chỉ có thể quy định được những việc thông thường. Người ta soạn luật cũng chỉ lường đến những việc hay xảy ra. Vậy nên điều 343 chỉ áp dụng được cho…”, ông luật sư cầm cuốn sách đã sờn gáy rồi đọc lớn, “trường hợp có ý định tước đi một đứa trẻ từ cha mẹ nó… lừa gạt, hoặc dùng vũ lực, hoặc dụ dỗ đứa bé đi chỗ khác, hoặc giam giữ đứa bé…”
“Vậy thì sao?”, anh hỏi.
“Tức là họ sẽ không đủ chứng cứ mà buộc anh tội đó. Anh may mắn ở chỗ trong các trường hợp bắt cóc, trẻ em không tự tách mẹ trừ khi có người mang chúng đi. Cũng không có chuyện trẻ con dạt lên đảo hoang. Anh thấy không? Họ không thể nào lý luận được là anh đã bắt cóc đứa nhỏ cả. Anh không hề ‘giam giữ’ đứa bé lại: về mặt pháp lý mà nói đứa bé muốn bỏ đi lúc nào cũng được. Anh cũng không hề ‘dụ dỗ’ đứa bé. Và họ sẽ không bao giờ chứng minh được ‘ý định tước đứa bé từ cha mẹ’ bởi vì ta có thể nói rằng anh thực tâm tin rằng cha mẹ đứa bé đã chết. Vậy nên tôi nghĩ anh sẽ thoát tội đó. Thêm nữa anh còn có công trong chiến tranh, từng được tặng thưởng Huy chương Chữ thập hai lần. Hầu hết các hội đồng xét xử sẽ nhẹ tay với người đã từng đem tính mạng ra bảo vệ đất nước, rồi lại không hề có tiền án gì cả”.
Gương mặt Tom giãn ra, nhưng vẻ mặt ông luật sư lại thay đổi, ông ta nói tiếp, “Nhưng cái họ không ưa ở đây, Sherbourn à, là một kẻ dối trá. Thực tế là họ ghét tội này đến nỗi hình phạt cho tội khai man là bảy năm lao động công ích. Nếu kẻ nói dối bao che cho thủ phạm thực sự thì tội được tính thành làm sai lệch quá trình thực thi công lý, như vậy là thêm bảy năm nữa. Anh hiểu ý tôi không?”
Tom nhìn ông luật sự.
“Mục đích của pháp luật là không để thoát tội. Các vị thẩm phán rất kỹ chuyện đó”. Ông luật sư đứng dậy, bước tới cửa sổ, nhìn qua song cửa sắt ra hàng cây phía xa. “Nhưng giờ nếu tôi bước ra tòa, rồi kể câu chuyện một người đàn bà tội nghiệp, đau khổ vì đứa con đẻ non – đến gần loạn trí, không phân biệt đúng sai – rồi tôi kể câu chuyện về chồng của cô ta, một người tử tế, luôn làm tròn phận sự, nhưng chỉ duy một lần, vì vợ mình mà lấy trái tim đặt lên đầu, nhắm mắt làm theo lời cô ấy… Tôi nghĩ thẩm phán sẽ thấy thuyết phục. Bồi thẩm đoàn cũng sẽ bị thuyết phục. Tòa án có cái quyền cho người ta hưởng lượng khoan hồng – có quyền áp hình phạt nhẹ hơn, cho cả người vợ nữa. Nhưng hiện tại, thân chủ của tôi tự nhận không chỉ là kẻ dối trá mà còn là một tay vũ phu. Hình như chỉ vì sợ người đời đàm tiếu về bản lĩnh đàn ông của mình mà anh ta quyết giữ lấy một đứa bé nhỏ xíu, rồi ép buộc vợ phải nói dối.”
Tom ngồi thẳng dậy. “Tôi đã khai đủ rồi.”
Fitzgerald tiếp tục, “Nếu anh thực là loại người có thể làm được việc đó, thì với phía cảnh sát anh cũng sẽ là loại người sẵn lòng làm mọi thứ để có cái mình muốn. Nếu anh là kẻ táng tận lương tâm, một người sẵn lòng bắt vợ phải làm theo ý mình, thì có lẽ anh cũng sẵn sàng ra tay giết người để được cái anh muốn. Ai cũng biết hồi chiến tranh anh đã làm gì rồi.” Ông luật sư dừng lại. “Họ sẽ nói như vậy đó.”
“Nhưng họ chưa buộc tội tôi chuyện đó.”
“Tới giờ thì chưa. Nhưng tôi biết tay cảnh sát từ Albany rất muốn nhúng tay vào vụ của anh. Tôi đã chạm trán tay này rồi, nói thật với anh, hắn rất khốn nạn.”
Tom hít một hơi sâu, rồi lắc đầu.
“Hắn rất đắc chí chuyện vợ anh không chịu chứng thực lời khai của anh, rằng Roennfeldt đã chết khi anh tìm thấy anh ta.” Ông luật sư vấn dải dây buộc hồ sơ màu đồ quanh ngón tay. “Hẳn cô ấy rất hận anh.” Ông ta tháo dải dây rồi chậm rãi nói tiếp. “Có thể cô ấy hận anh vì anh bắt cô ấy nói dối về chuyện giữ lại đứa trẻ. Hoặc vì anh đã ra tay giết người. Nhưng tôi đoán nhiều khả năng cô ấy hận anh vì anh để lộ chân tướng sự việc.”
Tom không đáp lời.
“Bên Công tố sẽ phải chứng minh chuyện anh ta chết ra sao. Người đã chôn bốn năm thì việc đó không hề đơn giản. Cũng chẳng còn gì nhiều. Không có xương gãy. Không có mảnh xương rời. Tiền sử bệnh tim mạch. Thông thường chứng cứ như vậy công tố viên chỉ có thể tuyên án không nói rõ thủ phạm. Với điều kiện, anh phải khai ra hết sự thật.”
“Nếu tôi nhận tất cả các tội – nói rằng tôi buộc Isabel làm theo ý mình, mà lại không có bằng chứng gì khác thì người ta sẽ không làm gì được cô ấy: có đúng vậy không?”
“Đúng, nhưng...”
“Vậy thì tôi sẽ chịu tội.”
“Vấn đề ở chỗ anh sẽ không lường trước hết được anh phải chịu những gì,” Fitzgerald vừa nói vừa sắp mấy tờ giấy vào cặp. “Ta không hề biết vợ anh sẽ nói là anh đã làm hoặc đã không làm gì, trong trường hợp cô ấy chịu mở miệng. Nếu là anh, tôi sẽ suy nghĩ cho kỹ càng.”
***
Nếu trước đây người ta hay tò mò nhìn Hannah thì giờ đây người ta còn tò mò hơn nữa. Người ta cứ nghĩ rằng hẳn sẽ có sự thay đổi diệu kỳ nào đó, như một thứ phần ứng hóa học, sau khi hai mẹ con được đoàn tụ. Nhưng họ đã phải thất vọng: đứa trẻ trông mệt mỏi còn người mẹ thì toàn đau khổ. Gương mặt Hannah không hề hồng hào tươi tắn lên mà còn gầy mòn hơn trước. Mỗi khi Grace khóc thét, cô lại tự hỏi thực ra việc giành lại con bé là đúng hay sai.
Những cuốn nhật ký trạm đèn trên Janus đã bị cảnh sát tịch thu để so sánh nét chữ với hai bức thư gởi cho Hannah, đều cùng một thứ chữ cứng cỏi, đều đặn. Người ta cũng không đặt nghi vấn gì với chiếc lục lạc mà Bluey chỉ ra. Chỉ có đứa bé là thay đổi đến không thể nhận ra được. Hannah đưa cho Frank một đứa trẻ sơ sinh nhỏ xíu, tóc sẫm, nặng chỉ năm cân rưõi. Giờ đây Số Phận đã gởi trả cho cô một đứa trẻ bị đánh tráo tóc vàng, vừa sợ hãi vừa ngang bướng. Đứa bé này đã đi đứng được, và khóc thét cho đến khi mặt đỏ gay còn cằm thì ướt đẫm nước mắt và dãi dớt. Sự tự tin mà Hannah có được lúc chăm con trong mấy tuần sơ sinh nhanh chóng sụp đổ. Nhịp điệu của sự gần gũi, những điều không cần nói cũng hiểu mà cô cứ tưởng sẽ trở lại ngay, giờ đây đã mất vĩnh viễn: cô không thể đoán trước phản ứng của đứa bé. Hai mẹ con như đang hai người đang khiêu vũ lạc điệu.
Hannah thấy sợ hãi những lúc cô hết cả kiên nhẫn với đứa con gái. Ban đầu con bé vẫn chịu ăn, chịu đi ngủ và đi tắm sau những cơn khóc lóc còn giờ đây chỉ câm nín. Trong những năm thắng cô mơ mộng ngày con trở về, trong cả những cơn ác mộng cô vẫn chưa bao giờ mường tượng ra điều gì kinh khủng đến vậy.
Bất lực, cô đưa đứa trẻ đến gặp bác sĩ Sumpton.
“Thực ra,” vị bác sĩ phốp pháp vừa nói vừa đặt ống nghe xuống bàn, “con bé hoàn toàn khỏe mạnh.” Ổng đẩy chiếc lọ đựng kẹo dẻo hình hạt đậu về phía Grace. “Ăn tự nhiên đi tiểu thơ.”
Vẫn chưa hoàn hồn từ lần đầu gặp ông bác sĩ ở đồn cảnh sắt, đứa bé câm nín. Hannah cầm chiếc lọ đưa cho nó. “Ăn đi con. Muốn ăn màu gì cũng được.” Nhưng con gái cô quay đầu đi, rồi cầm lên một lọn tóc, quấn quanh ngón tay.
“Con bé vẫn còn đái dầm lúc đi ngủ, phải vậy không?”
“Thường xuyên. Nhưng thông thường ở tuổi này...”
“Chị không cần phải nhắc tôi trường hợp của cháu khác thường ra sao.” Ông bác sĩ lắc chiếc chuông trên bàn, rồi sau một cái gật đầu kín đáo, một người đàn bà tóc bạc xuất hiện.
“Bà Fripp à, phiền bà đưa Grace ra ngoài chơi để tôi nói chuyện với mẹ cháu được không?”
Người đàn bà mỉm cười. “Ra đây cưng, để bà lấy bánh quy cho cưng “ bà nói rồi dẫn đứa nhỏ đang lơ đãng đi ra.
Hannah mở lời. “Tôi không biết phải làm sao, phải nói gì nữa. Nó vẫn còn đòi...”cô lúng túng, “đòi Isabel Sherbourne.”
“Chị nói gì với nó?
“Không nói gì cả. Tôi nói rằng tôi là mẹ nó, rằng tôi rất yêu nó và...”
“Nhưng chị phải nói gì đó về chị Sherbourne.”
“Nhưng nói gì?”
“Tôi nghĩ chị chỉ cần nói rằng hai vợ chồng họ đã đi xa rồi.”
“Đi xa đâu kia, mà vì sao?”
“Ở tuổi đó thì không quan trọng. Con bé chỉ cần có câu trả lời. Dần đần nó sẽ quên đi, nếu quanh nó không có thứ gì gợi đến nhà Sherbourne cả. Rồi nó sẽ quen với nhà mới. Tôi đã thấy nhiều trường hợp con nuôi mồ côi như vậy rồi.”
“Nhưng con bé phản ứng dữ quá. Tôi chỉ muốn làm điều đúng.”
“Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập vỏ trứng, chị Roennfeldt à. Con bé đã phải chịu khá nhiều chuyện oái oăm, chị không thể thay đổi được quá khứ. Rồi nó sẽ quên đi hai người kia, miễn là chị đừng giữ liên lạc với họ. Còn hiện tại, nếu nó quấy hay không yên thì chị cho nó một giọt thuốc ngủ. Không sao cả đâu.”