Số lần đọc/download: 4352 / 180
Cập nhật: 2016-06-18 07:55:12 +0700
Chương 27: Em Nhỏ, Hầm Biệt Giam Và Giáng Sinh
M
ấy tháng trước, người ta nhốt Cu lai dưới hầm biệt giam, tôi chưa rõ hầm biệt giam chỗ nào và ra sao. Bây giờ tôi rõ, quá rõ. Hầm dài ba mét, dư sức tống nhét hai chục thằng tù nhãi vi phạm kỷ luật nặng, bề ngang khoảng tám tấc, sâu gần một mét. Người ta kê gạch cách một tấc một cục theo chiều dài miệng hầm và đậy những miếng tôn xếp dọc lên kín mít. Như thế, kẻ bị nhốt dưới hầm thở hít khó khăn qua những khoảng cách hở của những cục gạch. Trên những miếng tôn là những tảng đá lớn. Kẻ bị nhốt không thể đứng thẳng dậy. Đứng thẳng, đầu sẽ đụng nắp hầm và vệ binh tưởng trốn sẽ ria đạn. Đành đứng khom lưng. Người ta không đào hầm thật sâu, vì vậy. Vì muốn kẻ vi phạm kỷ luật khổ sở, điêu đứng với tội lỗi của nó. Bề ngang của hầm chỉ giới hạn khoảng tám tấc để kẻ bị nhốt không thể duỗi thẳng chân. Đành ngồi dựa lưng, thả chân chứ khó nằm ngủ. Nếu nhốt hai chục đứa, chắc sẽ ngộp thở và phải ngồi. Số tôi còn may, hầm có một mình nên nằm dọc được. Mùa này khô nắng, chứ mùa mưa thì nằm ngồi trên nước bùn lõng bõng, cóc nhái, rắn tha hồ rơi xuống kết bạn với tù.
Tôi khom lưng đi hết chiều dài của hầm biệt giam xem có con rắn, con rết, con bò cạp nào không. Ở Phước Long nhiều rắn lắm, hàng trăm loại. Tôi có thể phân biệt ngày đêm nhờ những khoảng cách hở của những cục gạch. Lúc này là chiều, Mai bím vừa báo giờ, các đội chưa về mà nắng còn dữ dội. Mái hầm nóng bỏng. Người ta vất sẵn dưới hầm cái thùng đạn đại liên để kẻ bị nhốt tiêu vào đó. Còn tiểu thì tự do ở đáy hầm. Tôi không biết, trên thế giới, có kiểu biệt giam nào ghê gớm như kiểu biệt giam dưới hầm này không. Chứ, lạy Chúa, nếu Chúa đừng bắt con chết như thằng Cu lai, Chúa cho con sống, con sẽ thấy được niềm bí ẩn lung linh trong cuộc đời những ngày con bị quăng xuống hầm biệt giam. Tôi uống thêm ngụm nước nữa rồi ngồi thở. Tôi chưa thèm ăn. Đội về, nghe tiếng ồn ào tôi biết. Tôi còn biết cả giờ giấc qua từng hồi kẻng. Bóng tối trùm đen đặc trại, đen đặc hầm biệt giam, tôi mới ăn chén cơm và húp hết cóng canh của Mai bím. Tôi nhớ Bé Hai, không nhắm mắt nổi. Tôi cũng sợ Cu lai chết oan tức tưởi hóa thành ma, rình tôi ngủ bóp cổ tôi. Tôi làm dấu, cầu nguyện mà tâm hồn vẫn bối rối. Người ta khen tôi ngoan ngoãn, chăm chỉ, không chửi thề, văng tục rồi người ta đánh tôi vì tội đeo tượng Chúa và bỏ tôi xuống hầm tối tăm, hôi hám, ngộp thở, nơi đã có đứa chết dập thê thảm mà tôi biết rõ là Cu lai. Trước ngày tôi về trại, những đứa nào đã chết dưới hầm, tôi không biết.
Mái hầm đã nguội dần từ lúc mặt trời lặn. Bây giờ nó mát và lạnh. Nửa đêm thì lạnh buốt, rờ vào nó như rờ nước đá. Tôi ngồi co quắp không rét buốt, thèm cái chăn. Khó mà ngủ nổi dưới hầm mái tôn mùa đông rừng rú. Đêm chịu đựng lạnh. Ngày chịu đựng nóng. Những cơn gió quái ác, ban ngày mong nó nổ đom đóm mắt, nó không tới, ban đêm nó đùa rỡn chui qua kẽ hở tạo nên những tiếng rú đâm vào thân thể mong manh chiếc áo phạm của tôi. Tuy mùa đông khô ráo nhưng đất hầm vẫn ẩm và đũng quần tôi ướt nhẹp. Tôi phải chịu đựng mười lăm ngày đêm. Tôi ước ao giá Mai bím, Bé Mai hay bất cứ đứa nào bị nhốt chung với tôi thì đỡ sợ hãi. Tôi sợ ma và sợ chết. Tôi đã nhiều lần muốn chết, giờ gần cái chết, tôi run rẩy và mong sống. Dù sống để lao động quần quật, sống để ăn sắn, ăn ngô, ăn khoai và ăn đòn! Tôi thèm sống, thèm về với gia đình để kể cho bố mẹ tôi, các em tôi, bạn bè tôi nghe chuyện phiêu lưu các nhà tù của tôi.
Cứ nghĩ miên man, tôi thức trắng một đêm dưới hầm. Sáng sau, khi đội tập họp lao động, hầm bớt lạnh, tôi mới ngủ. Và ngủ đến lúc Mai bím gõ nắp hầm thì tôi biết là giờ cơm kỷ luật.
- Tao đây, Mai bím đây, Vũ ạ!
- Rõ.
- Đưa ca cóng lên đổi ca cơm, cóng canh mới.
- Rõ rồi.
- Mày nhấm nháp nước thôi kẻo hết là chết khát. Ngày hai gô, ráng uống cầm chừng. Tao mang cái khăn cho mày lau mặt.
- Mang mền được không?
- Cấm.
- Đêm tao rét run.
- Tao biết. Mày ngủ được chứ?
- Tao thức.
- Tao cũng vậy, tao lo mày không ngủ nên thức luôn. Bé Hai khóc sưng cả mắt. Liệu mày chịu đựng nổi không?
- Tao nghiến răng.
- Phải thế thôi, thoát phen này là hết sợ tù đày. À, mai lại Giáng Sinh, lẹ ghê. Mày muốn chào mừng Chúa một cóng canh nhái cải trời dưới hầm không?
- Muốnn.
- Giá có tượng Chúa khác nữa nhỉ?
- Ừ.
- Tao sẽ khắc tượng khác tặng mày.
- Bảo Bé Hai làm cho tao cái cây Noel như năm ngoái.
Mai bím đã nhích cái nắp hầm. Tôi chuyền ca cóng lên và nó thả cơm, nước xuống cho tôi. Mai bím hành động thật chậm, cốt ý che mắt vệ binh trên chòi canh.
- Đừng nghĩ cái con …
Nó khựng lại. Tôi hiểu tại sao nó khựng lại.
- Hãy nghĩ tới ba má mày, em mày và hai đứa tao, ráng ăn no ngủ kỹ nhé, Vũ!
Tôi cố ngước nhìn Mai bím. Hình như, tôi thấy Chúa trong đôi mắt buồn bã của nó.
- Mày bắt tao hứa, mày cũng phải hứa với tao.
- Tao hứa, Mai ạ!
Mai bím kéo nắp hầm kín lại. Nó đè đá tảng lên và bỏ về. Tôi thấm chút nước lạnh trong gô của tôi mang theo hôm qua vào cái khăn. Lau mặt và cổ gáy xong, tôi dễ chịu. Đói quặn bụng từ sớm tới giờ, tôi ăn hết sạch ca cơm và cóng canh. Nếu Mai bím không làm trật tự, tôi chỉ được một bữa một cục cơm bằng cái hột vịt ăn nhạt. Chúa vẫn còn thương tôi. Chúa muốn tôi nếm mùi đòn và mùi hầm biệt giam đây mà. Tôi nằm, gối đầu lên gô nước dựng đứng lót cái khăn, đợi mặt trời đổ lửa xuống mái hầm tôn. Mai bím khuyên tôi đừng nên nghĩ ngợi gì, nhưng tôi cứ nghĩ lại đêm mưa mù mịt ở sân Hoa Lư, chuyến đi Đà Nẵng kinh hoàng và trận roi giây điện lạnh ớn xương.
Đêm mai Giáng Sinh. Năm ngoái Bé Hai và tôi chơi Giáng Sinh bằng cây bằng lăng nhỏ xanh mướt tấm lòng của Bé Hai. Hai chúng tôi ngắm sao trời và tưởng Chúa nhìn mình thương xót. Bé Hai hát thánh ca như thiên thần ru ngủ. Năm nay, tôi ở dưới hầm biệt giam, không được ngắm vì sao đơn độc run rẩy phía trời xa, không được nghe Bé Hai hát thánh ca ngọt lịm, không được thấy những bông hoa dại đủ màu trên cây Giáng Sinh của Bé Hai. Năm ngoái, Bé Hai ao ước làm cái hang đá, nặn tượng Chúa Hài đồng, tượng Đức Mẹ, các Thiên thần và các vua. Nếu Bé Hai đã làm hang đá, nó đã xuống hầm rồi. Nghĩ tới cái hang đá mơ ước của Bé Hai, tôi ngồi vụt dậy. Tôi sẽ có cái hang đá tuyệt vời.
Tôi mở cái nắp gô, khom lưng đi tới giữa hầm. Đất mềm dễ đào thôi. Tôi ngồi, dùng cái nắp gô khoét cái hang ngang tầm đầu tôi. Kẻng tan lao đã gầm gừ. Mặc xác nó gầm gừ. Đội đã về, sân trại ồn ào. Nắng đang gay gắt. Nắp hầm nóng hừng hực. Ngồi dưới hầm như ngâm mình trong nước ấm già. Không khí ngột ngạt hôi hám nên con người lúc nào cũng lờ đờ mệt mỏi. Tôi khoét cái hang nhỏ hình cánh cung chẳng khó khăn gì. Khoét xong, tôi miết cái nền hang phẳng lì, nhẵn bóng. Ba bề hang, tôi chà cẩn thận. Tôi đã có cái hang đá dưới hầm ngục một cách dễ dàng. Dơ hai bàn tay gần sát mái tôn cho mau khô, tôi phủi đất cát sạch sẽ. Tôi chùi tay vào quần, không dám rửa, sợ hết nước uống. Ở hầm biệt giam, uống cần hơn ăn. Nhờ tôi bị đòn ít nên mới còn sức. Chứ, sáng bị quần, đêm bị quần như Mẫm điếc, Cu lai, chắc chắn, tôi đã chết rồi.
Nóng quá, tôi không ngủ nổi, cứ ngồi dựa lưng vào vách đất ẩm, thả dài chân, ngủ gà ngủ vịt. Ban ngày mong chóng tối cho đỡ phí mồ hôi, ban đêm mong chóng sáng cho đỡ lạnh cóng. Ngày khổ, đêm khổ. Nắng khổ, lạnh khổ. Nếu nhằm mùa mưa còn khổ cực chừng nào! Chú Tường bảo ý nghĩa của đời sống chỉ tìm thấy trong những nỗi thống khổ. Và niềm bí ẩn, từ đó, phóng ra lung linh màu sắc, rực rỡ hào quang. Tôi chưa tìm thấy trong nỗi thống khổ một ý nghĩa nào của đời sống. Phải đến một tuổi nào chăng, hoặc là, ý nghĩa ấy đã thâm nhập vào tim óc tôi, đã biến thành máu, thành thịt làm tôi lớn lên, khôn ra mà tôi chẳng hề biết. Tôi không muốn làm thanh thép non nhưng đã là thanh thép non, thanh thép non đang tôi luyện trong lò lửa cực nóng. Thép không thể chảy. Tôi không thể chết. Tôi mới biết tin thế, và điều đó liệu có thể gọi là ý nghĩa của đời sống chưa nhỉ?
- Vũ, Vũ, tao nè …
- Rõ.
- Trưa mai mày có cây của Bé Hai. Mày ăn hết cơm canh chứ?
- Hết sạch.
- Tốt.
- Nhà bếp còn nhiều khoai sống không?
- Còn cả tỷ! Tụi nó thổi ác mô ni ca dài dài. Cả trại đau răng vì gặm bắp đá cứng đơ. Mày nóng ruột thèm cạp khoai sống hả?
- Không. Mày lấy khoai khắc cho tao ít tượng được không?
- Tượng gì?
- Hỏi Bé Hai ấy. Bảo nó là tao có cái hang đá rồi.
- Xiện chứ?
- Xiện. À …
- Gì nữa. Nói lẹ kẻo nó nghi!
- Mày kiếm được tí dầu nhớt không?
- Dễ ợt. Ra cơ quan xin thằng lái xe.
- Cho tao chút xíu đựng vào cái ve nhỏ.
- Gì nữa?
- Mấy que diêm có vỏ hộp.
- Nguy thấy mồ, nó bắt được là mày chết rũ dưới đó.
- Tao thắp ngọn đèn nhỏ xíu, nó không biết đâu. Nửa đêm tao mới thắp, nó ngủ hết trơn, hơi nào đi xét.
- Để tao nghĩ cái đã. Lấy cơm ăn đi!
Nắp hầm kéo khít lại. Mai bím đã về. Tôi tin rằng Mai bím không từ chối sự xin xỏ của tôi. Cán bộ trực trại “khoán” cái hầm biệt giam cho bọn trật tự. Bọn trật tự cử một thằng phụ trách cơm, nước và kiểm tra hàng ngày xem tù kỷ luật còn sống hay chết. Hẳn là bọn trật tự đã cử Mai bím vì bọn nó biết Mai bím thân với tôi. Dân vỉa hè độc ác thì vô cùng và khi tình nghĩa thì tình nghĩa đáo để. Bọn trật tự ngán Mai bím đã đành mà còn thương Mai bím “anh hùng” liều lĩnh nên ngó lơ chuyện Mai bím tiếp tế cơm ăn, nước uống cho tôi vượt tiêu chuẩn. Tù bệnh còn chẳng được ăn uống như tôi, nữa là tù kỷ luật nhốt hầm biệt giam. Ban đêm cán bộ trực trại, vệ binh không vào trại. Con nít không dám nổi loạn phá trại, người ta khỏi cần đề phòng. Người ta chỉ vào trại nếu phát hiện đứa trốn trại hay chém giết nhau. Còn thì giao cho bọn trật tự canh gác ban đêm. Tôi sống ở trại này hơn một năm rồi, tôi hiểu rõ sinh hoạt của trại nên mới đòi hỏi Mai bím vụ dầu, diêm. Ăn cơm chiều xong, tôi bắt đầu sợ hãi cái lạnh đêm thứ hai. Khó lòng chống cự với nó. Tôi cảm tưởng tôi là miếng thịt. Đêm, thịt ướp đông lạnh. Ngày, thịt chảy nước, mềm nhũn.
Lại suốt một đêm thứ hai dưới hầm, tôi không ngủ. Cứ ngồi bó gối chặt cho chân tay khỏi run. Cu lai và những thằng nào khác nữa đã chết, chắc vì đói quá hết sức chống cự với cái lạnh quái ác. Giá nắp hầm xây bê tông cốt sắt hay đậy bằng gỗ thì sẽ không bị rang nóng và ướp lạnh. Vậy thì còn chi là kỷ luật! Kỷ luật làm mòn mỏi tâm hồn, rã rời thể xác. Kỷ luật làm con người khiếp đảm và hèn hạ. Kỷ luật làm con người phải xác nhận con bò có ba chân, đôi khi con bò giống hệt con người, tùy thuộc kỷ luật cao mức độ nào và người chơi trò kỷ luật muốn nó ra sao. Thí dụ, người chơi trò kỷ luật muốn con bò là vị cứu tinh của tổ quốc, là cha già dân tộc, là lãnh tụ quang vinh, người bị kỷ luật phải răm rắp tin tưởng con bò là cha già dân tộc. Cho nên, kỷ luật còn làm con người ngu xuẩn, kể cả người chơi nó lẫn kẻ bị nó chơi. Tôi quen chưa nói là, trước ngày tôi bị đày xuống hầm, bọn văn hóa đã cắt tóc cho tôi. Mỗi hai tháng, trại viên được cắt tóc một lần. Để tóc rậm bù, sẽ vi phạm điều lệ Nếp sống văn hóa mới. Lỡ cắt trọc lốc sẽ phạm tội chống cách mạng. Để kim khí bén nhọn thì cấm xử dụng nhưng móng tay dài thì vi phạm điều lệ vệ sinh. Bọn văn hóa, vệ sinh không cắt móng tay, móng chân cho trại viên. Trại viên đành cắt móng tay, móng chân bằng i nốc, sắt mỏng mài sắc hoặc bằng mảnh thủy tinh, hoặc cắn bằng răng rồi mài nhẵn lên mắt đá phẳng.
Càng gần sáng, sương xuống càng nhiều. Cuối năm, sương mù mịt. Mặt trời mọc thật muộn. Sương rừng nặng hạt lắm, nó rơi lõm bõm trên mái tôn. Nó là những viên đá nhỏ. Nó đọng ở nắm hầm. Nó đâm từng mũi buốt xuyên qua da thịt tôi, ớn tận xương. Tôi phải tưởng tượng bát bún bò Huế cay bỏng lưỡi, bát phở nóng hổi, ly cà phê sữa, cục đường phổi để chiến đấu chống lạnh giá. Bếp lửa nấu bánh chưng đêm ba mươi Tết là thiên đường, bây giờ. Và cái giường đệm, cái chăn dầy đã hạnh phúc trọn đời mình. Cùng lắm là mười giờ sáng hôm sau, giờ cơm, nắng đã khô sương.
- Vũ, Vũ, mày thức chưa? Mai bím đã tới.
- Ngủ đâu mà thức.
- Cả đêm mày không ngủ à?
- Lạnh chết người.
- Tội nghiệp mày, sáng giờ cũng không ngủ sao?
- Không.
- Tao mang đủ thứ mày dặn đây. Tao túm gọn vào cái bao giấy. Mấy ông tượng khoai, tao khắc nhanh, xấu ỉn.
- Tốt, có là tốt.
- Bé Hai chưa về, chiều mới có cành cây.
- Nhớ đấy.
- Ừ, tao về nhé! Cố ngủ chút kẻo gục, Vũ ạ!
- Tao sẽ cố.
Mai bím đã về. Nắp hầm kéo kín. Tôi chưa vội ăn uống. Mở bọc giấy ra, tôi sung sướng quên cả nóng lạnh. Bé Hai đã chỉ dẫn Mai bím khắc các thứ tượng bằng khoai lang. Chúa Hài Đồng năm trên nôi, Đức Mẹ, các Thiên Thần, các vua, thánh Giu Se, hai chú chiên con. Mai bím không nhớ mặt Chúa Hài Đồng. Nó có biết Giáng Sinh là gì đâu! Nó khắc mặt Chúa Hài Đồng già nua và buồn bã như nó đã khắc trên gỗ mun. Đức Mẹ, thánh Giu se, Thiên Thần, các vua, Mai bím khắc hình sai hết. Nhưng hai chú chiên con, Mai bím gọt khắc thật đẹp. Mai bím tài ghê. Nó sáng tạo cái nôi là củ khoai và khắc Chúa luôn trên củ khoai. Nó chế cái đèn bằng lọ dầu cù là thủy tinh, châm dầu Gasoil đầy nhóc. Giữa cái nắp nhôm vặn chặt, Mai bím làm cái tim vải. Tôi bỏ hộp quẹt còn vài cái diêm vô túi, sợ nó ẩm quẹt hết cháy, rồi khuân tượng tới hang. Cất tượng vào hang, tôi về chỗ của tôi ăn cơm. Bữa cơm trưa nay ngon miệng quá. Tôi cảm thấy tôi chưa khổ, tôi vẫn nhiều hạnh phúc, tôi còn Mai bím và Bé Hai cho tôi những thứ tôi mong muốn. Nếu Mai bím và Bé Hai cũng là ý nghĩa của đời sống thì tôi đã biết cái ý nghĩa đó, cái ý nghĩa tuyệt vời trong tâm hồn một đứa bé cô nhi viện và một thằng móc túi vỉa hè. Ý nghĩa ấy đong đưa và bay lơ lửng thành điệu ru êm ái ru tôi ngủ ngon dưới hầm hấp nóng. Tôi có giấc ngủ tường chừng không bao giờ có.
- Vũ, Vũ, Vũ… Mai bím đang bê những tảng đá trên nắp hầm. Mày ngủ được hả, Vũ?
- Ừ, tôi đáp, mắt còn thèm nhắm tít.
- Ngủ ngon chứ?
- Ngon lắm.
- Tao mừng đấy, tao lo mày mất ngủ. Có cành cây, ốc ma trắng và hoa lu bù của Bé Hai. Có cái này nữa…
- Cái gì?
- Lát nữa mày sẽ biết. Cái này của tao, mày nói với Chúa là tao dâng ổng nhé! Quên, quên, tao dâng Chúa. Buồn thối ruột, xoay mãi không ra mấy cục đường đen thổ tả!
- Tối nay mày với Bé Hai đảo quanh đây nhé!
- Ừ.
- Bảo Bé Hai chỉ cho mày thấy vì sao trên trời.
- Ừ.
- Mày phải cầu nguyện với Bé Hai.
- Tao biết gì mà cầu!
- Nghe Bé Hai đọc kinh rồi mày xin Chúa điều gì mày thích.
- Tao sẽ xin cho mày về nhà mày ở Sài gòn thôi, còn tao chả cần xin xỏ.
- Bậy bạ mày! Mày cầu xin Chúa cho ba đứa mình về sống với bố mẹ và em tao.
- Ừ, ừ…
- Khi kẻng báo ngủ, mày nhắc Bé Hai hát thánh ca, may ra tao nghe rõ đấy.
- Tao sẽ nhắc nó. Đêm nay ráng ngủ ngon nữa nghe, Vũ! Này, cóng canh những mười chú nhái mập thù lù đó.
- Cám ơn mày.
- Cám ơn cái khỉ mốc gì. Mày còn cám ơn, tao bỏ đói mày luôn. Tao ghét đứa nào cám ơn tao lắm.
- Mai!
- Gì?
- Tại sao mày thương tao thế?
- Tao… tao không hiểu. Tao về nhé!
Mai bím suýt buột miệng nói “Tao đéo hiểu”, nó ghìm được. Nó đã hứa với tôi không chửi thề, văng tục mà. Nó về, sau khi đã chuyền cơm, nước và cái “lát nữa mày sẽ biết” gói trong tờ báo cũ. Tôi ngạc nhiên thích thú. Đó là cái bánh làm bằng bột sắn. Mai bím phàn nàn “xoay mãi không ra đường” thì chắc là bánh mặn. Tôi biết cách Mai bím làm cái bánh này. Nó kiếm miếng nhôm mỏng hoặc vỏ hộp bia, cắt ra, bẻ phẳng rồi lấy đinh nhọn đóng lỗ lí nhí sát nhau. Rồi bẻ cong lại. Nó mài củ sắn bằng cái bào trong ca nước. Bột củ sắn tươi với nước đặc quánh. Mai bím quấy chút muối, đổ vô nồi, nhóm bếp nướng, khơi than hồng đặt kín nắp. Nếu có đường, có nho, có bơ, bánh sẽ ngon lắm. Vì không đường, không cả mỡ phết đáy nồi nên cái bánh bị cháy đít. Chúa đã hiểu lòng Mai bím rồi.
Tôi bứt ít lá rắc trên thềm hang và ít hoa dại cắm ở ba bề rải rác. Và tôi bày tượng. Chúa Hài Đồng nằm đây. Đức Mẹ đứng gần Chúa. Thánh cả Giu se chỗ này. Thiên Thần canh chúa. Các vị vua hướng mặt về phía Chúa. Hai chú chiên con ngơ ngác trước cửa hang. Ngọn đèn đặt giữa hang. Cây Giáng Sinh của Bé Hai được cắm sâu vào tường hầm gần “hang đá”. Tôi cầm tờ báo cũ, gấp tư, quạt khẽ làm gió thổi. Những con ốc ma trắng toòng teng chạm nhau kêu lách cách. Mải mê trang hoàng hang đá, tôi quên khuấy mình đang ở trong lò nướng bánh mì. Tôi ngồi chờ kẻng gầm gừ. Hôm nay tôi mong nó gầm gừ. Tan lao. Bé Hai đã về trại. Bé Hai xách cóng canh Ốc rau tàu bay. Tưởng tượng bước chân và nụ cười của Bé Hai. Điểm số. Bé Hai xếp hàng. Bé Hai sắp thoát ra sân, lại gần hầm biệt giam với Mai bím.
Nắng đã tắt ngóm. Hầm tối om. Tôi mò tới hang đá, quẹt diêm châm đèn. Ánh sáng tràn ngập hang đá. Và, lạ lùng khó mà tả, những tượng khoai của Mai bím rạng rỡ, tươi vui như sống thật và đáng muốn nói với tôi điều gì. “Bé Hai, lại đây”, Mai bím gọi lớn, báo hiệu cho tôi là Bé Hai và nó đang quanh quẩn cách hầm biệt giam không xa mấy. Ánh sáng của ngọn đèn không thể thoát lên sân trại được. Nó chỉ đủ làm rực rỡ cái hang đá một đời tôi, cái hang đá, sau này, tôi nghĩ hai nghìn năm đã qua và hai nghìn năm sẽ đến chẳng có ai sáng tác nổi. Dễ hiểu thôi, bởi vì, đã và sẽ chẳng có ai, bằng tuổi tôi, ngụp lặn chới với giữa giòng nghịch lũ khốn khổ, bởi vì, đã và sẽ chẳng có ai trả giá cái hang đá này bằng những ngọn roi giây điện hằn lươn tím bầm đầy mình mẩy và những ngày đêm nóng chảy mỡ, lạnh đông máu dưới hầm biệt giam mùa đông ở rừng già hiu quạnh Phước Long. Và nữa, đã và sẽ chẳng có ai được Bé Hai tặng cây Giáng Sinh bằng lăng non kết nhiều vỏ ốc ma trắng, nhiều hoa dại và được Mai bím tặng tượng Chúa Hài Đồng, Đức Mẹ, thánh Giu se, Thiên Thần, các vua khắc bằng khoai lang sống.
Ánh sáng của đêm vô cùng từ hang đá của tôi không thể thoát lên thời đại khốn cùng nhưng lại đang chập chờn trong đôi mắt thiên thần Mai bím, Bé Hai. Chúng nó đứng cách tôi không xa mấy. Chúng nó gần tôi lắm. Hai đứa đây này, hai thiên thần khoai lang hiền hậu đang nhìn tôi. Tôi say mê ngắm hang đá, say mê ngắm vùng ánh sáng huyền diệu và, sau này, tôi dám đoan quyết, cái hang đá dưới hầm biệt giam của tôi mới giống hệt cảnh tượng Chúa Giáng Sinh trong máng cỏ đêm đông Bê lem diễn tả ở Thánh Kinh. Linh hồn ba đứa chúng tôi đã nhập vào tượng khoai. Ôi, Mai bím, nhà nghệ sĩ thánh thiện của tôi, đứa trẻ vỉa hè móc túi đã khăng khăng không tin Chúa thương nó lại sáng tạo nổi tượng Chúa Hài Đồng ngủ ngoan trên củ khoai lang oan nghiệt. Tôi quỳ trước hang đá, làm dấu và cầu nguyện. Trên kia, Bé Hai đang chỉ cho Mai bím nhìn vì sao cô độc, run rẩy góc trời xa và bảo Mai bím rằng Chúa đấy. Bé Hai cầu nguyện. Bé Hai đọc kinh Kính Mừng. Mai bím ngoan ngoãn nghe và cầu xin.
Tôi không thấy kẻng báo ngủ gầm gừ nhưng rõ mồn một giọng hát thánh ca của Bé Hai… “Ơn Thiên Chúa vô bờ bến, biết tìm kiếm của chi đền”. Tiếng hát tan trong không gian mù mịt. Rồi hoàn toàn im lặng. Hoàn toàn vô cùng. Bé Hai, Mai bím đã về nhà. Tôi vẫn chắp tay quỳ nguyên trước hang đá. Cho đến khi ngọn đèn tắt thì tôi không còn biết gì nữa.
- Vũ, Vũ, Vũ, Vũ!
- Rõ.
- Mày ngủ kỹ thế, tao gọi lớn, gọi hoài, suýt nữa tao phải dở nắp hầm xem mày còn sống không. Mày làm tao hoảng quá.
- Tao ngủ từ đêm qua tới giờ.
- Bánh mừng Giáng Sinh của tao ngon chứ?
- Tao chưa ăn.
- Cóng canh ngọt lịm?
- Tao cũng chưa ăn uống gì cả. Cơm, canh, bánh, nước y nguyên.
- Kỳ vậy!
- Ờ, kỳ lắm. Tao quỳ trước hang đá cầu nguyện rồi tao ngủ quỳ, mày ạ!
- Mày đói ngấu.
- Chẳng đói khát tí nào. Tao hết mệt mỏi, đau nhức luôn. Những vết roi nó quất tao, giờ lại ngưa ngứa, gãi thú vị ghê.
- Chúa thương mày đấy, Vũ ạ!
- Đêm qua mày có cầu nguyện với Bé Hai không?
- Có.
- Vậy nhờ mày cầu xin nên Chúa mới thương tao, Mai ạ! Này Mai…
- Gì?
- Mày khắc tượng đẹp nhất thế giới.
- Thôi mày, chuyền cơm canh cũ lên tao phát cho Bé Hai. Bữa nay mày dư cóng nước. Lẹ đi, bể hết bây giờ.
Mai bím thả cơm canh, nước mới xuống. Tôi chuyền cơm canh cũ lên. Ổ bánh của nó, tôi bẻ đôi, một nửa gởi tặng Bé Hai, một nửa tôi giữ lại ăn dần. Nó kéo nắp hầm, vọt lẹ. Tôi ngồi bình thản ăn uống. Nắng hừng hực trên đầu tôi. Không sao, tôi đã quen rồi. Cơm nước xong, tôi nhổ cây Giáng Sinh của Bé Hai, bỏ gọn vào hang. Rồi tôi lấp đất kín, chà miết phẳng phiu. Tượng, đèn, cây lá bị nhốt trong làng. Bấy giờ, tôi chỉ muốn phi tang chúng. Nhưng, bây giờ, khi ngồi viết những giòng chữ này, tôi bỗng có ý nghĩ lạ lùng. Biết đâu tượng khoai chẳng hóa thành tượng đá. Và mấy nghìn năm sau, các nhà khảo cổ khai quật vùng đất Phước Long, bắt gặp một cái hang đủ bộ tượng đá, đặc biệt, tượng Chúa Hài Đồng giống hệt tượng Chúa tòa thánh La Mã, họ sẽ giải thích ra sao. Họ sẽ đánh giá nghệ sĩ Mai bím thế nào và có xác định nổi thời đại nghệ sĩ Mai bím sáng tạo tượng đá với sự cố vấn tạo hình của nghệ sĩ Bé Hai là thời đại ngô, khoai, sắn ăn thay cơm gạo không? Tôi nghi ngờ các nhà khảo cổ lắm. Ý nghĩ lạ lùng khác. Biết đâu khoai tượng chả nẩy mầm, chồi lên từ lòng đất sâu chôn chặt rồi đơm bông, kết trái. Trái bung vỏ, tỏa khắp nhân gian một nền văn minh mới. Một nền văn minh Việt Nam, nền văn minh mà hiền nhân Tây phương hằng mong ước phát xuất ở Đông phương, cứu rỗi chúng sinh ta bà thế giới thoát khỏi móng vuốt của những nền văn minh phi nhân bản hiện đại. Ở nền văn minh Việt Nam mới, con người gần gũi con người, yêu thương nhau thắm thiết, không gian dối, không thù hận, không kỳ thị màu da, chủng tộc, không buôn bán súng đạn, xác chết, không còn ai dại dột, ngu xuẩn đem chiến tranh ý thức hệ vào đất nước mình, không nhà tù lao cải và con bò nhất định phải có bốn chân! Ý nghĩ của tôi lạ lùng mà rất con nít. Nhưng tôi có nhận tôi người lớn đâu? Tôi vẫn là con nít khi ngồi ghi lại quãng đời niên thiếu thui chột của mình.
Bắt chước Mai bím, tôi lấy ngón tay vạch vào tường hầm để tính từng ngày mình bị đày đọa dưới hầm. Tôi đã vạch được chín cái. Quá tuần lễ rồi. Tôi chào mừng năm 1977 ở hầm biệt giam. Năm nay tôi mười lăm tuổi. Tôi không thấy mình lớn bao nhiêu. Có lẽ, mẹ tôi mới thấy tôi lớn. Mai bím nuôi tôi đều đặn. Nó vừa báo tin buồn cho tôi. Kể từ mồng 2 tháng 1 năm 1977, trại ăn khoai, sắn, ngô trăm phần trăm. Nhà bếp hết gạo nấu cơm, Mai bím không xoay đâu ra cơm bồi dưỡng tôi nữa. Nó chỉ còn khả năng kiếm chác thêm khoai. Tôi bình thản trước cái tin buồn của Mai bím. Đã chịu đựng quen, tôi hết sợ hãi nắng ban ngày, lạnh ban đêm. Hôm tôi vạch cái thứ mười bốn thì Mai bím nói đã nhắc khéo cán bộ tôi sắp mãn hạn kỷ luật.
Mười bốn ngày dưới hầm biệt giam, đối với thằng bé mười lăm tuổi chưa đủ tháng, phải chống chọi với sự sợ hãi, sự im lặng, kể cũng đáng một thành tích cải tạo tư tưởng! Cái thùng đại liên sắp không đậy nắp được. Mỗi lần đi tiêu, tôi bốc đất lấp phân nên thùng đạn mau đầy. Nếu không có mấy tờ báo cũ Mai bím gói dấu thức ăn cho, tôi đành xé áo chùi đít hoặc đi tiêu như con heo, con bò, con chó. Nước chẳng đủ uống, nói chi bớt phần rửa đít. Những chỗ xước máu trên những lằn roi đóng vảy làm da non ngứa ngáy dữ. Tôi gãi nhẹ một cách thú vị. Cáu ghét rơi lả tả. Mười đầu ngón tay tôi là mười cái muỗng nhỏ nhớp nhúa cáu ghét. Buồn tình, tôi tập kiểu tắm búng của dân nghiền thuốc phiện. Ở hầm biệt giam, không có gì đáng ghê rợn bằng sự im lặng. Người ta có thể “khắc phục” được đói khát, lạnh giá, nóng bỏng, nhưng khó mà “khắc phục” nổi sự im lặng. Sự im lặng không móng vuốt. Nó chỉ là cái bóng mơ hồ chụp kín tâm hồn ta. Và ta sẽ phát điên vì cái bóng đó. Giá không có Mai bím kéo nắp hầm nói chuyện từng khoảng khắc trong ngày, tôi đã điên rồi, tôi đã hò hét, đã đập phá và bị đánh chết. Người bị nhốt dưới hầm biệt giam là người hoàn toàn cô độc. Hắn tụt xuống khỏi dương thế và ở trên địa ngục. Hắn xa lạ cả hai nơi. Người khu trừ và ma quỷ không nhận. Tôi đã có mười bốn ngày đêm và sẽ đủ mười lăm ngày đêm kinh dị.
Hết ngày thứ mười lăm, nhờ Mai bím nhắc nhở cán bộ, tôi được ngoi lên cuộc đời, thứ cuộc đời chẳng đáng chi mừng rỡ. Mai bím mở tung một miếng tôn. Nó bảo tôi hít thở một lúc cho quen. Rồi nó đưa tay để tôi nắm. Nó kéo tôi lên. Tôi ngã vật, khó chịu. Mai bím bảo tôi say… khí trời. Khi tôi tỉnh tỉnh, Mai bím kéo tôi dậy. Nó nhìn tôi. Đôi mắt nó mở tháo láo. Nó không nói gì nhưng tôi hiểu nó nhìn thằng người nào đó gớm ghiếc chứ không phải nhìn tôi. Nước mắt nó ứa ra. Nó khẽ lắc đầu. Khuôn mặt nó thật buồn bã. Mai bím xách ca, cóng giùm tôi. Nó dắt tôi đến phòng cán bộ trực trại, cũng là phòng của bọn trật tự thuộc Nhà 1. Cán bộ trực trại lên lớp tôi một chập rồi khuyên tôi đừng để tôn giáo phỉnh phờ, lừa gạt. Tôi dạ dạ, vâng vâng qua nạn. Cán bộ rời phòng đi về cơ quan. Mai bím bảo tôi ngồi chơi chốc lát rồi sẽ xách nước cho tôi tắm. Lúc ấy, kẻng giải lao vừa điểm. Buổi sáng ở trại yên tĩnh và mát mẻ.
Mai bím lại nhìn tôi không chớp mắt. Tôi hỏi nó:
- Tại sao mày nhìn tao như nhìn quái vật thế?
Nó mím môi. Và bật tiếng khóc. Tôi sững sờ:
- Tại sao mày khóc, Mai?
Mai bím đưa ống tay áo quệt nước mắt. Nó mếu máo:
- Tao thương mày.
- Tao hiểu, tao hiểu rồi.
- Chúa ơi!
Đến lượt tôi nhìn Mai bím không chớp mắt. Tôi hỏi nó:
- Tại sao mày nhìn tao như nhìn quái vật thế?
Nó mím môi. Và bật tiếng khóc. Tôi sững sờ:
- Tại sao mày khóc, Mai?
Mai bím đưa ống tay áo quệt nước mắt. Nó mếu máo:
- Tao thương mày.
- Tao hiểu, tao hiểu rồi.
- Chúa ơi!
Đến lượt tôi nhìn Mai bím không chớp mắt. Nó đã biết gọi Chúa ơi. Hai tiếng Chúa ơi từ miệng Mai bím thoát ra nghe mới dịu dàng, êm ái, vuốt ve làm sao! Tôi đã có nhiều giờ học giáo lý, tôi đã đi lễ ở nhiều nhà thờ, tôi chưa hề nghe sư huynh nào, linh mục nào nói hai tiếng Chúa ơi ngọt ngào, mời mọc, yêu thương như Mai bím. Tôi ngạc nhiên sung sướng. Một thằng móc túi vẫn có thể trở thành thiên thần. Và một thiên thần cũng có thể trở thành thằng móc túi. Tôi bỗng nhớ chú Tường. Nếu tôi chưa giành lại được danh dự và phẩm cách mà cuộc đời đã tược đoạt của bọn nhãi vỉa hè, hoặc tôi chưa giúp chúng nó thu hồi lại danh dự và phẩm cách làm người mà chúng cố tình vất bỏ thì, ít ra, tôi đã khơi dậy từ đáy tâm hồn Mai bím một đốm lửa thiên lương tưởng chừng đã lịm tắt.
- Chúa ơi! Tôi gọi Chúa. Chúa thương nó nhiều, Chúa dạy nó xưng danh Chúa thiết tha biết mấy.
- Mày nói lảm nhảm gì đấy, Vũ? Mai bím hốt hoảng.
- Tao ghen mày với Chúa. Mày gọi Chúa ơi ngọt lịm.
Mai bím chưa hết hốt hoảng. Nó cầm chặt tay tôi:
- Mày chưa khùng, hả?
Tôi cười:
- Tại sao mày nghĩ tao khùng? Tao không sao cả, không bệnh tật gì.
- Chắc chắn mày không đau đớn trong người chứ?
- Chắc.
- Bao tử?
- Không.
- Tim?
- Không. Tao đã nói không bệnh tật gì cả.
- Ủa, kỳ cục!
Nó buông tay tôi ra, rờ rẫm tóc tôi đã đời. Tôi nghi Mai bím khùng. Nó lại nghĩ tôi khùng.
- Mày có đau đầu không? Nó hỏi.
- Không, tôi đáp.
- Mày nhìn rõ tao không?
- Rõ.
- Vũ ạ, tóc mày dựng đứng như chông tua tủa, mắt mày thồi lồi như cá tàu ấy. Trông khiếp lắm.
- Thế à?
- Ừ. Ghê rợn, hầm biệt giam ghê rợn thật! Tao muốn chửi thề quá.
- Đừng chửi thề.
- Bao giờ mình đục được tụi nó như đục thằng Cung củ đậu mới sướng. Sẽ có ngày thôi … Sẽ có ngày liều lĩnh.
Tôi không ngăn Mai bím. Để mặc nó lẩm bẩm. Phú mù và bọn trật tự đi dòm ngó các nhà đã về. Mai bím hỏi chúng nó có thằng nào nằm hầm biệt giam về bị dựng tóc, lồi mắt như tôi không. Phú mù nói thằng nào bị nhốt bảy ngày trở lên là bị dựng tóc, lồi mắt hết. Vì ngộp thở, vì hơi đất độc, vì sợ hãi, vì phải mở căng mắt đề phòng… Ít lâu sau, tóc sẽ nằm và mắt sẽ xẹp như cũ. Mai bím yên tâm. Bây giờ, nó nhìn tôi cười chế nhạo âu yếm. Nó hỏi bọn trật tự có đứa nào có miếng gương soi cho nó mượn. Phú mù đưa tôi cái gương nhỏ vỡ đôi. Nó lượm ngoài cơ quan, của cán bộ đánh vỡ vất bỏ. Tôi soi khuôn mặt tôi trong cái gương nứt rạn. Hai năm rồi tôi mới thấy tôi. Tóc tôi dựng đứng dễ khiếp. Mắt tôi lồi ra. Tôi chẳng còn giống tôi tí nào. Tôi vừa từ địa ngục chui lên. Nhưng tôi vẫn sống. Thế là tốt đẹp.
(Trích Đồi Fanta)