Freedom is not given to us by anyone; we have to cultivate it ourselves. It is a daily practice... No one can prevent you from being aware of each step you take or each breath in and breath out.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Knut Hamsun
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: Markens Grøde
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1219 / 21
Cập nhật: 2017-04-18 13:32:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương V
ó lẽ còn có những thứ khác có thể làm cho Isak ngạc nhiên, nhưng anh là dạng người mỗi lúc chỉ nghĩ tới một thứ duy nhất. “Inger đâu?” Đó là tất cả những gì anh nói khi bước qua cửa bếp. Anh chỉ nôn nóng muốn trông thấy Geissler được tiếp đón nồng hậu.
Inger à? Inger đang ra ngoài hái dâu rừng; đã ra ngoài hái dâu rừng từ lúc Isak lên đường. Nàng và Gustaf người Thụy Điển, Phải, đã già theo năm tháng, đang yêu trở lại với cả trái tim và điên lên vì nó; đang là mùa thu và sắp tới đông rồi, nhưng nàng lại thấy ấm áp tự trong lòng, lại nở bùng như những bông hoa. “Hãy đến và chỉ chỗ có dâu rừng,” Gustaf nói; “nam việt quất,” gã nói. Và làm sao một người đàn bà có thể nói không? Inger chạy vào căn phòng nhỏ của mình và trở nên nghiêm chỉnh sùng đạo trong nhiều phút; nhưng Gustaf đang đứng chờ ở ngoài, thế gian đang nằm dưới gót chân nàng, và tất cả những gì nàng làm là bới tóc gọn gàng, cẩn thận nhìn mình trong gương, rồi bước ra ngoài. Và nàng đã làm gì? Ai lại không làm điều tương tự? Ồ, một người đàn bà không thể hiểu được người đàn ông này từ một người đàn ông khác; không phải lúc nào cũng thế, không thường xuyên.
Và hai người bọn họ đi hái dâu rừng ở ngoài truông, bước từ thảm cỏ này sang thảm cỏ kia, và nàng nhấc cao mép váy lên, để lộ đôi chân săn chắc. Khắp chốn hoàn toàn yên tĩnh; con gà gô mẹ trắng không bay lên và kêu rít nữa, vì lũ con của nó đã lớn; họ tìm chỗ nấp dưới những bụi cây giữa trảng. Chưa đầy một giờ kể từ lúc họ khởi hành, thế mà họ đã ngồi xuống nghỉ. Inger nói: “Ồ, tôi không nghĩ là anh lại như thế?” Ôi chao, nàng hoàn toàn yếu đuối trước mặt gã, mỉm cười một cách đáng thương, đắm mình quá sâu trong tình yêu. Phải, yêu đương là một thứ ngọt ngào và tàn ác, cả hai thứ đó! Nàng có thái độ đúng đắn và chừng mực. Phải, chỉ nhượng bộ vào phút cuối. Inger lún quá sâu vào tình yêu. Một cách tuyệt vọng, một cách tàn nhẫn; quả tim nàng tràn ngập lòng tử tế đối với gã, nàng chỉ quan tâm tới việc tỏ ra gần gũi và quý giá đối với gã.
Phải, một người đàn bà đang già đi theo năm tháng…
“Khi công việc hoàn tất, anh lại ra đi,” nàng nói.
Không, gã sẽ không đi. À, vào một lúc nào đó, tất nhiên, nhưng chưa, chưa đi trong vòng một hai tuần.
“Không phải tốt hơn chúng ta nên trở về nhà hay sao?” Nàng nói.
“Không.”
Họ hái thêm dâu rừng. Một lúc sau họ tìm thấy một chỗ nấp trong bụi rậm, và Inger nói: “Gustaf, anh điên rồi khi làm vậy.” Nhiều giờ trôi qua. Lúc này họ đang ngủ không chừng, trong bụi rậm. Ngủ à? Thật tuyệt diệu. Ở giữa cõi hoang dã xa xăm, trong vườn Địa đàng. Thế rồi Inger đột nhiên ngồi thẳng lên và lắng nghe: “Hình như tôi nghe tiếng ai đó đang đi xuống trên đường.”
Mặt trời đang lặn, những thảm cỏ của cánh đồng hoang thẫm lại trong bóng tối khi họ trở về nhà. Họ đi qua nhiều chỗ nấp, Gustaf thấy chúng, và cả Inger cũng thấy chúng, nhưng suốt buổi nàng luôn cảm thấy như thể có ai đó đang đánh xe đi phía trước họ. Ồi, nhưng ai có thể đi suốt chặng đường về nhà với một chàng trai đẹp mã và lúc nào cũng phải đề phòng cảnh giác? Inger quá yếu, nàng chỉ có thể mỉm cười và nói: “Tôi chưa hề gặp một người như thế.”
Nàng về nhà một mình. Và nàng về vừa đúng lúc, thật may. Chậm hơn một phút sẽ không hay chút nào. Isak vừa mới bước vào sân với cái lò rèn với Aronsen, và có một cỗ xe độc mã đang tiến lên.
“Chúc ngày lành,” Geissler nói, và cũng chào cả Inger. Và họ đứng đó, tất cả nhìn nhau. Không thể nào tốt đẹp hơn được nữa…
Geissler đã quay lại. Đã nhiều năm kể từ lần trước ông tới đó, nhưng ông đã quay lại, già thêm chút ít, tóc bạc thêm chút ít, nhưng vẫn rạng rỡ vui tính như ngày nào. Và lần này ăn mặc chỉnh tề, với một cái áo gilê và dây chuyền vàng. Một con người khó hiểu!
Có lẽ ông đã ngờ rằng có điều gì đó đang diễn ra ở khu mỏ và muốn đích thân lên xem xét? Vâng, ông đã có mặt đây rồi. Rất tỉnh táo nhìn ngó, quan sát trong trại, trên mảnh đất, quay đầu và đảo mắt khắp nơi. Có những thay đổi lớn cần để ý; Bá tước đã mở rộng lãnh địa của anh ta. Và Geissler gật đầu.
“Anh đang cõng cái gì thế?” ông hỏi Isak. “Đó là một gánh nặng đối với ngay cả một con ngựa.”
“Nó là một cái lò rèn,” Isak giải thích. “Một thứ rất có ích trong một trang trại nho nhỏ,” anh nói, phải, gọi Sellanraa là một trang trại nho nhỏ, không hơn!
“Anh kiếm đâu ra nó vậy?”
“Ở trên khu mỏ. Ông kỹ sư tặng nó cho tôi làm quà, ông ta nói thế.”
“Tay kỹ sư của công ty hả?” Geissler nói, như thể ông chưa hiểu.
Và chả lẽ Geissler bị một tay kỹ sư trên một khu mỏ đồng qua mặt? “Tôi nghe nói anh đã mua một cái máy cắt cỏ,” ông nói, “tôi có mang theo một cái cào rất tiện dụng.” Và ông chỉ tay về phía món đồ trên xe. Nó đứng đó, xanh xanh đỏ đỏ, một cái cào cỏ khổng lồ, được kéo đi bằng ngựa. Họ nhấc nó ra khỏi xa và nhìn nó; Isak cột người vào cái máy và kéo thử nó. Chẳng lạ gì khi miệng anh ta há hốc! Hết chuyện diệu kỳ này tới điều kỳ diệu khác cứ kéo tới Sellanraa!
Họ nói về khu mỏ, về công việc trên đồi. “Họ đang hỏi thăm về ông rất nhiều,” Isak nói.
“Ai?”
“Ông kỹ sư, và tất cả các quý ông khác. ‘Phải tóm bằng được ông,’ họ bảo thế.”
Chà, có lẽ Isak đã nói quá nhiều. Geissler bị xúc phạm, không ngờ gì nữa; ông nói, gắt gỏng và cộc lốc: “Tốt, tôi đang ở đây, nếu họ muốn gặp tôi.”
Ngày hôm sau hai người đưa tin quay về từ Thụy Điển, đi cùng họ là hai người chủ khu mỏ; họ đi ngựa, những quý ông lịch thiệp và bệ vệ; qua dáng vẻ có thể thấy họ là những tay rất giàu. Họ gần như không dừng lại ở Sellanraa, chỉ hỏi thăm đường một hai câu, vẫn ngồi trên lưng ngựa, rồi phi ngựa lên đồi. Họ vờ như không trông thấy Geissler dù ông đứng gần ngay đó. Những người đưa tin và mấy con ngựa thồ nghỉ lại một tiếng, trò chuyện với hai người đàn ông về việc xây cất, biết rằng quý ông già mặc áo gilê trắng và đeo dây chuyền vàng chính là Geissler, rồi họ lại đi tiếp. Chiều hôm đó một trong hai người phi ngựa xuống trang trại để chuyển tin nhắn miệng mời Geissler lên gặp mấy quý ông tại khu mỏ. “Nếu họ muốn gặp tôi thì xuống đây,” Geissler nhắn gửi lời đáp như thế.
Có vẻ như ông đã trở thành một nhân vật quan trọng; dù bản thân ông vốn là một người có thế lực, trong số mọi quyền thế trên đời; có lẽ ông cho rằng việc nhắn tin miệng mời ông là một chuyện hạ thấp phẩm giá. Nhưng làm sao mà ông tới Sellanraa đúng ngay lúc đó, khi người ta cần ông nhất? Hẳn ông phải là một con người vĩ đại, hiểu thấu mọi điều.
Dù sao, khi mấy quý ông trên khu mỏ nhận được phản hồi của Geissler, họ chẳng làm được gì khác ngoài việc đích thân trở xuống Sellanraa. Viên kỹ sư và hai chuyên gia mỏ cùng đi với họ.
Có khá nhiều con đường quanh co ngoắt ngoéo trước khi cuộc gặp gỡ đó diễn ra. Trông nó có vẻ không ổn lắm vào lúc khởi đầu. Geissler rất đỗi kiêu kỳ.
Lần này mấy quý ông tỏ ra khá nhã nhặn; xin lỗi ông về việc đã gửi tin nhắn miệng hôm trước, đó là do họ đã quá mệt sau cuộc hành trình. Geissler cũng nhã nhặn đáp lại, và bảo cả ông cũng đã quá mệt sau cuộc hành trình của mình, không thì ông đã lên đó. Và họ bắt đầu bàn việc; Geissler có muốn bán miếng đất ở phía nam nguồn nước hay không?
“Tôi xin phép hỏi các ông mua nhân danh chính mình hay với tư cách người đại diện?” Geissler nói.
Câu hỏi này không là gì khác ngoài một sự trêu tức của Geisselr; chắc chắn ông có thể thấy rằng mấy quý ông giàu sang bệ vệ cỡ đó không thể là người đại diện. Họ tiếp tục thảo luận về các điều khoản. “Giá cả thế nào?” Họ hỏi.
“Giá cả ư? Vâng,” Geissler nói, và ngồi suy nghĩ một lúc. “Hai triệu,” ông nói.
“Thật thế ư?” Hai quý ông hỏi và mỉm cười. Nhưng Geissler không cười.
Viên kỹ sư và hai chuyên gia đã tiến hành một cuộc điều tra cẩn thận về mảnh đất, nổ mìn và khoan thăm dò các thứ, và đây là báo cáo của họ: mạch quặng có khuynh hướng tăng vọt; điều này là bất thường, và từ cuộc điều tra ban đầu của họ đó là chỗ sâu nhất trong vùng lân cận ranh giới giữa đất của công ty và đất của Geissler. Trong khoảng một dặm cuối cùng thì số quặng không đáng bỏ công khai thác.
Geissler lắng nghe tất cả với sự thờ ơ tuyệt đối. Ông moi từ túi ra một số giấy tờ, và cẩn thận xem qua chúng; nhưng những giấy tờ đó không phải là sơ đồ hay bản đồ. Có thể chúng chẳng liên quan gì tới khu mỏ.
“Các anh khoan chưa đủ sâu,” ông nói, như thể ông đã đọc được điều đó trong những mảnh giấy. Hai quý ông thừa nhận ngay điều đó, nhưng viên kỹ sư hỏi: “Làm thế nào mà ông biết điều đó. Tôi cho là ông chưa từng tự mình khoan thăm dò, phải không?”
Geissler mỉm cười, như thể ông đã từng khoan cả mấy trăm dặm xuyên qua quả địa cầu và sau đó lấp mấy lỗ khoan trở lại.
Họ làm việc cho tới trưa, nói chuyện này chuyện khác, và cuối cùng bắt đầu xem đồng hồ. Lúc này họ đã thuyết phục được Geissler chịu giảm xuống giá nửa triệu đồng, nhưng không nhích thêm được một sợi tóc nào nữa. Không; hẳn họ đã làm cho ông bực mình gì đó. Dường như họ nghĩ ông nôn nóng muốn bán; bắt buộc phải bán, nhưng không phải thế. Ái dà, chẳng phải thế chút nào; ông ngồi đó, thoải mái và thờ ơ như bản thân họ, không còn ngờ gì nữa.
“Dù sao có thể nói mười lăm hoặc hai mươi ngàn là một cái giá khá rồi,” họ bảo.
Geissler đồng ý rằng đó có thể là một cái giá khá cao đối với bất kỳ một ai thật sự cần tiền, nhưng hai trăm năm mươi ngàn thì tốt hơn. Thế rồi một trong số mấy quý ông xen vào – nói theo kiểu nhằm ngăn Geissler không nâng cao quá mức: “Nhân tiện, tôi đã gặp vợ con ông ở Thụy Điển. Họ gửi lời hỏi thăm ông.”
“Cám ơn,” Geissler nói.
“Thôi được,” quý ông kia nói, thấy rằng khó mà thắng được Geissler theo cách đó, “hai trăm năm mươi ngàn… đâu phải chúng tôi đang mua vàng, chỉ là quặng đồng thôi mà.”
“Chính xác,” Geissler nói. “Nó là quặng đồng.”
Tới đây họ mất kiên nhẫn, tất cả bọn họ, năm cái vỏ đồng hồ được mở ra và đóng cạch trở lại: không còn thời gian để dung dăng dung dẻ nữa: đã tới giờ cơm. Họ không yêu cầu thức ăn ở Sellanraa mà phi ngựa trở lên mỏ để ăn.
Và đó là kết thúc của cuộc họp.
Geissler bị bỏ lại một mình.
Đầu óc ông nghĩ gì trong suốt thời gian đó, ông suy tính, ngẫm nghĩ cái gì? Không gì cả, có lẽ, mà chỉ ngồi nhàn rỗi thờ ơ? Không thật ra ông đã nghĩ tới một điều gì đó, nhưng khá là bình thản. Sau bữa cơm, ông quay sang Isak và bảo: “Tôi sẽ đi lên chỗ đất của mình trên đó; và tôi muốn Sivert đi với tôi, giống như lần trước.”
“Vâng, được thôi,” Isak nói ngay.
“Không; ngay lúc này nó đang có việc khác phải làm.”
“Nó sẽ đi với ngài ngay,” Isak nói và gọi Sivert gác lại công việc đó. Nhưng Geissler giữ tay anh lại và nói ngắn gọn: “Không.”
Ông đi vòng vòng mảnh sân nhiều lần, quay trở lại trò chuyện với mấy người đàn ông đang làm việc, tán chuyện một cách thoải mái với họ rồi lại đi và vòng trở lại. Lúc nào cũng nghĩ tới vấn đề trĩu nặng trong đầu, thế nhưng vẫn trò chuyện như không có gì quan trọng. Từ lâu Geissler đã quen với những thay đổi của vận may, có thể ông cảm thấy có một thứ gì đó đang đe dọa, bất kể nó là gì trong bầu không khí.
Ông ở đây, là một con người gặp may đơn giản nhất. Ông đã bán miếng đất nhỏ đầu tiên của mình cho những người bà con bên vợ, rồi thì sao nữa? Ra ngoài và mua toàn bộ đất ở phía nam nguồn nước. Để làm gì? Họ có phiền lòng với việc trở thành người láng giềng của ông không? Đầu tiên, không ngờ gì nữa, ông chỉ nghĩ tới việc mua một dải đất nhỏ ở đó, nơi một làng mới sẽ được dựng lên nếu việc khai thác mỏ tiến triển. Nhưng rốt cuộc ông đã trở thành chủ nhân của cả vùng đất cao. Miếng đất được mua với giá gần như cho không, và ông không muốn bận bịu với những ranh giới. Thế là, từ sự lười nhát hoàn toàn ông trở thành một ông vua mỏ, chúa tể của những ngọn núi; ông đã nghĩ tới một chỗ để dựng lều và kho chứa máy móc, và nó đã trở thành một vương quốc, trải dài tới tận biển.
Ở Thụy Điển, miếng đất đầu tiên đã được mua đi bán lại từ tay này sang tay khác, và Geissler luôn quan tâm tới những tin tức về nó. Dĩ nhiên là những người mua đầu tiên đã mua nó một cách ngốc nghếch, không hề nghĩ ngợi gì; gia tộc đó không phải là những chuyên gia về mỏ, thoạt đầu họ không nghĩ tới việc đất đai, mà chỉ nghĩ tới việc mua từ một gã Geissler cụ thể rồi tống khứ hắn ta đi. Nhưng những chủ nhân mới không phải là kẻ dễ chế giễu; những người thế lực, không ngờ gì nữa, những người có thể tự cho phép mình đùa chơi, mua đất chỉ để làm vui, chỉ vì một cuộc đánh cược trong cơn say rượu, hay lý do gì đó chỉ có Trời mới biết. Nhưng khi đã làm thử và khai thác nghiêm chỉnh mảnh đất, đột nhiên họ phát hiện ra rằng mình đang chạm trán phải một bức tường – Geissler.
Bọn trẻ con! Có lẽ Geissler đang nghĩ trong đầu; lúc này ông cảm nhận được quyền lực của mình, thấy mình khá mạnh mẽ để nói năng cộc lốc và thô lỗ với bọn người đó. Hẳn nhiên họ đã cố hết sức khiến ông phải co vòi lại; họ tưởng rằng họ đang giao dịch với một người cần tiền, và gợi ý về một khoản tiền 15 hoặc 20 ngàn gì đó. Phải, bọn trẻ con. Họ chưa biết Geissler. Và lúc này ông đang đứng ở đây.
Ngày hôm đó họ không trở xuống, không ngờ gì nữa, nghĩ rằng tốt nhất là không lộ vẻ nóng ruột. Sáng hôm sau họ xuống, ngựa thồ các thứ, để trở về nhà. Và coi kìa: Geissler không có ở đó.
Không có ở đó?
Việc đó đã chấm dứt bất kỳ ý tưởng nào họ có thể nghĩ ra về việc giải quyết vụ việc một cách khôn ngoan kẻ cả, từ trên yên ngựa; họ phải xuống ngựa và chờ đợi. Và anh có thể cho biết Geissler đang ở đâu không? Không ai có thể nói cho họ biết; ông ta đi khắp chốn, quan tâm tới Sellanraa và mọi thứ của nó; lần cuối người ta nhìn thấy ông ta là ở chỗ chiếc máy cưa. Hai người đưa tin được cử đi tìm ông, nhưng hẳn là Geissler đã đi sang nơi khác, có vẻ như vậy, vì ông không trả lời khi họ hét gọi ông. Hai quý ông nhìn đồng hồ, và rõ ràng tỏ ra bực mình vào lúc đầu, bảo rằng: “Chúng ta không rỗi hơi để chờ đợi thế này. Nếu Geissler muốn bán, ông ta phải ở đây.” Chà, nhưng chỉ lát sau họ phải thay đổi giọng điệu; không tỏ ra bực dọc nữa, mà bắt đầu tìm ra một điều thú vị trong tất cả chuyện này, để nói đùa về nó. Họ đang trong một trường hợp tuyệt vọng; có thể họ phải nằm đó suốt đêm trên dãy đồi hiu quạnh. Bị lạc và chết đói giữa đồng hoang, để lại những nắm xương tàn trắng xóa mà những bà con đau thương của họ không tìm ra được. Phải họ đã nói đùa như thế.
Rốt cục Geissler tới. Đã đi nhìn quanh một lúc, vừa trở về từ chỗ quây gia súc. “Trông có vẻ như chẳng bao lâu nữa nó sẽ trở nên quá nhỏ,” ông nói với Isak. “Anh có tất cả bao nhiêu đầu gia súc trên đó vậy?” Phải, ông có thể chuyện trò như thế, trong lúc những quý ông lịch sự kia đang đứng đó với đồng hồ trên tay. Mặt Geissler đỏ một cách kỳ lạ, như thể ông vừa uống rượu. “Phù, tôi nóng cả người, do đi bộ,” ông nói.
“Chúng tôi đã mong là ông ở đây khi chúng tôi tới.” một trong hai quý ông nói.
“Tôi không nghe thấy lời nào về việc các ông muốn gặp tôi,” Geissler đáp, “không thì tôi đã ở tại đây.”
Được, thế thì bây giờ tính sao về công việc? Hôm nay Geissler có sẵn sàng chấp nhận một đề nghị hợp lý hay không? Không phải ngày nào ông cũng có một cơ may hốt được 15 hay 20 ngàn. Sao nào? Dĩ nhiên, trừ phi… số tiền đó chẳng là gì đối với ông. Nếu thế…
Đề nghị cuối này không hợp ý Geissler chút nào; ông bị xúc phạm. Thật là một cách nói hay ho làm sao! Chà, hẳn là họ không nói thế, có lẽ, nếu lúc đầu họ không bực dọc; và Geissler, không ngờ gì nữa, hẳn sẽ không tái mặt đi với những lời của họ nếu ông không đi đâu đó ra ngoài một mình và bị đỏ mặt. Sự thể là vậy, ông tái mặt và lạnh lùng đáp:
“Tôi không muốn đưa ra một đề nghị với các ông, những người ở vị trí trả tiền. Nhưng tôi biết tôi sẽ sẵn lòng chấp nhận cái gì và không chấp nhận cái gì. Tôi không muốn nói chuyện con trẻ tầm phào về khu mỏ nữa. Giá của tôi vẫn như hôm qua.”
“Hai trăm năm mươi ngàn Kroner?”
“Phải.”
Mấy quý ông lên ngựa. “Nghe này, chúng tôi sẽ trả hai mươi lăm ngàn.”
“Các ông vẫn còn muốn nói chơi, tôi thấy,” Geissler nói. “Nhưng tôi sẽ đề nghị các ông một cách nghiêm chỉnh: các ông có nghĩ tới chuyện bán lại khu mỏ của các ông trên đó hay không?”
“Sao,” họ nói, hơi thoái lui lại, “sao, có lẽ chúng tôi có thể làm vậy.”
“Tôi sẵn sàng mua nó,” Geissler nói.
Ôi chao, cái ngài Geissler đó! Với mảnh sân trong lúc này đầy nghẹt những người, đang lắng nghe từng lời, những người nhà trong trại, hai người thợ đá và hai người đưa tin. Có khả năng ông không bao giờ có thể đủ tiền cho một giao dịch như thế; nhưng, ai có thể nói được? Geissler là một con người không thể hiểu nổi. Dù sao, những lời cuối của ông khiến mấy quý ông trên lưng ngựa khá bối rối. Phải chăng đây là một trò lừa đảo? Phải chăng ông ta muốn làm cho miếng đất của mình trông có giá với thủ thuật này?
Hai quý ông suy nghĩ; phải, thậm chí họ bắt đầu trao đổi khẽ với nhau về chuyện đó; họ lại xuống ngựa. Rồi viên kỹ sư xen vào; ông ta nghĩ chắc chắn là nó có giá nằm ngoài mọi khả năng chi trả. Và dường như ông ta có một quyền lực nào đó, một dạng thẩm quyền nào đó ở đây. Mảnh sân đầy những người đang lắng nghe xem điều gì sẽ xảy ra. “Chúng tôi sẽ không bán,” ông ta nói.
“Không à?” Mấy người cùng phe với ông ta hỏi.
“Không.”
Họ lại thì thầm với nhau, và một lần nữa lên ngựa. Lần này nghiêm chỉnh. “Hai mươi lăm ngàn!” Một trong hai quý ông nói. Geissler không trả lời, quay lưng đi tới nói chuyện với những người thợ đá.
Và đó là kết thúc của cuộc gặp cuối cùng giữa họ.
Geissler tỏ vẻ không quan tâm mấy về chuyện gì sẽ tới. Ông đi lòng vòng nói chuyện này chuyện nọ; dường như ông đặc biệt chú ý tới việc đặt những xà nhà nặng trên sườn của cái chuồng bò mới. Họ tính sẽ hoàn thành công việc trong tuần đó, với một cái mái tạm thời – một cái gác xép chứa cỏ khô sẽ được dựng lên bên trên nó sau đó.
Lúc này Isak không cho Sivert chạm tay vào việc xây cất, để cho cậu ở không. Anh làm điều này là có mục đích, để Geissler có thể thấy chàng trai trẻ rảnh rỗi vào bất cứ lúc nào nếu ông muốn cùng cậu đi thăm dò trên đồi. Nhưng lẽ ra Isak chẳng cần phải bận tâm tới việc đó; Geissler đã từ bỏ ý định đó, hoặc có lẽ đã quên khuấy mất. Điều ông làm là nhờ Inger gói cho ông ít thức ăn, rồi đi xuống chỗ con đường. Ông ở lại bên ngoài cho tới chiều tối.
Ông đi qua hai khoảnh đất phát quang mới ở mé dưới trại Sellanraa, trò chuyện với những người ở đó; đi thẳng xuống trại Maaneland để xem Axel Ström đã làm được gì năm đó. Hình như không có gì to tát cho lắm; không nhiều như anh muốn, nhưng anh đã làm được vài việc tốt trên mảnh đất. Geissler cũng chú ý tới chỗ này và hỏi anh: “Có ngựa chưa?”
“Có.”
“Tốt, tôi có một cái máy cắt cỏ và một cái máy bừa ở phía nam, cả hai còn mới hết; tôi sẽ gửi lên đây nếu cậu thích.”
“Là sao?” Axel hỏi, không thể tưởng tượng một điều tuyệt vời đến thế, và mơ hồ nghĩ tới việc trả góp dần dần.
“Ý tôi là tôi muốn tặng chúng cho cậu,” Geissler nói.
“Khó mà tin được điều đó,” Axel nói.
“Nhưng cậu phải giúp đỡ những người láng giềng của cậu ở mé trên khai thêm đất mới.”
“Ồ, đừng lo về chuyện đó,” Axel nói; anh vẫn chưa hiểu hết ý định của Geissler. “Vậy là ông có những thứ máy đó ở phía nam?”
“Tôi có nhiều thứ phải chăm sóc,” Geissler nói. Thật sự, Geissler không có gì nhiều để chăm sóc, nhưng ông thích tỏ ra như thế. Còn về cái máy cắt cỏ và cái bừa, ông có thể mua chúng ở bất kỳ thị trấn nào rồi gửi lên từ đó.
Ông ở lại trò chuyện một lúc lâu với Axel Ström về những cư dân khác gần đó; về Storborg, trạm mua bán; về anh trai của Axel, kẻ vừa mới lấy vợ và đã tới Breidablik, đã đặt ống dẫn nước trên cánh đồng và đưa nước ra. Axel than rằng không tìm đâu ra một người phụ nữ giúp việc; anh chẳng có người nào trừ bà cụ Oline; không tốt lắm trong hầu hết mọi lúc, nhưng anh phải biết ơn khi có bà chừng nào còn bà ở lại đây. Axel đã làm việc suốt ngày đêm vào mùa hè đó. Có lẽ anh có thể tìm được một người ở vùng quê của mình, Helgeland, nhưng điều đó có nghĩa là phải trả tiền đi đường cho người ấy, ngoài tiền công. Một vụ quá tốn kém. Axel cũng nói thêm anh đã nhận làm thanh tra đường dây thế nào, nhưng chỉ ước gì anh có thể gác nó sang một bên.
“Loại việc đó chỉ phù hợp với loại người như Brede,” Geissler nói.
“Phải, câu đó thật đúng,” Axel thừa nhận. “Nhưng có một khoản tiền phải cân nhắc.”
“Cậu có mấy con bò cái?”
“Bốn, và một con bò đực trẻ. Từ đây lên Sellanraa để lấy giống thì quá xa.”
Nhưng còn có một vấn đề nặng nề hơn mà Axel rất muốn nói với Geissler; vụ của Barbro đã bị phát hiện, vì lý do nào đó, và một cuộc điều tra đang tiến triển. Bị phát hiện? Tất nhiên. Barbro đã đi ra ngoài, có thể nhìn thấy rõ ràng là đang mang thai, và cô đã rời khỏi trại một mình không chút gì vướng víu và cũng chẳng có đứa bé nào. Mọi việc là thế nào?
Khi Geissler hiểu ra vấn dề, ông nói rất ngắn gọn: “Đi với tôi.” Và ông dẫn Axel rời khỏi nhà. Geissler tỏ ra nghiêm trọng, như một người đang mang trọng trách. Họ ngồi xuống ở bìa rừng, và Geissler nói: “Nào, hãy kể cho tôi đầu đuôi câu chuyện.”
Đã bị phát hiện? Tất nhiên là thế; làm sao ngăn cản được? Chốn này không còn là nơi vắng vẻ không một bóng người suốt nhiều dặm đất; ngoài ra, Oline đã tới đó. Oline thì có quan hệ gì tới chuyện đó? Thế đấy! Và, tệ hơn nữa, Brede Olsen đã tự biến mình thành một kẻ thù của bà ta. Giờ không có cách gì giữ miệng Oline; bà ở tại đây, và có thể dần dà moi móc mọi chuyện từ Axel. Bà sống chính vì những công việc lừa lọc như thế; phải, ở mức độ nào đó, sống nhờ vào chúng. Và đây chính là thứ dành cho bà. Hãy tin rằng Oline sẽ đánh hơi ra nó! Thật sự, giờ Oline đã quá già để có thể chăm sóc nhà cửa và gia súc ở Maaneland; bà nên thôi làm. Nhưng làm sao bà có thể? Làm sao bà có thể rời một nơi đang chôn giấu một bí mật chỉ chờ được đưa ra ánh sáng? Bà cố xoay xở với những công việc mùa đông; phải, bà cũng vượt qua mùa hè, và bà đã đạt được một sức mạnh diệu kỳ chỉ từ một ý nghĩ giản đơn là một ngày nào đó có thể lôi ra ánh sáng cô con gái của Brede. Mùa xuân đó khi tuyết chưa tan Oline đã bắt đầu sục sạo. Bà tìm thấy nấm mộ xanh nho nhỏ cạnh dòng suối, và thấy ngay lập tức rằng cỏ đã được đặt lên trong những ô vuông. Thậm chí một hôm nọ bà còn may mắn bắt gặp Axel đứng cạnh ngôi mộ nhỏ, đang dẫm lại đất. Vậy là Axel biết hết mọi chuyện! Và Oline gục gặc mái đầu bạc trắng. Phải, giờ đã tới lượt của bà!
Không phải Axel là một người tử tế dễ sống chung, mà khá là bủn xỉn; đếm từng mẩu pho mát và để ý tới từng cuộn len; Oline không thể làm gì tùy thích với các thứ. Và còn cái vụ tai nạn hồi năm ngoái, khi bà cứu anh thoát chết. Nếu Axel là loại người đàng hoàng, lẽ ra anh phải tạo mọi uy tín cho bà, và chỉ công nhận món nợ của anh với một mình bà. Phải, anh có thể bảo rằng nếu Oline không tới, hẳn anh đã nằm đó suốt đêm trong tiết trời lạnh cóng; nhưng Brede cũng đã giúp khá nhiều trên đường về nhà. Và đó chính là tất cả những lời cám ơn mà bà nhận được! Oline phẫn nộ vô cùng. Chắc chắn là Chúa Trời toàn năng cũng phải quay mặt khỏi những tạo vật của Người! Việc Axel dẫn một con bò cái từ chuồng ra, đưa nó tới bên bà và nói: “Oline à, đây là con bò cái cho bà,” thật là dễ dàng biết bao! Nhưng không. Không một lời về chuyện đó.
Được, cứ để cậu ta chờ. Chờ và sẽ thấy rốt cuộc cậu ta còn tốn kém nhiều hơn trị giá của một con bò cái!
Dù mùa hè đó, Oline luôn mong ngóng từng người khách qua đường để thì thầm với họ, gục gặc đầu và kể cho họ nghe điều bí mật. “Nhưng đừng nói lại lời nào những gì tôi đã kể,” lần nào bà cũng dặn dò họ thế. Oline cũng xuống làng không chỉ một lần. Và lúc này đã có những lời đồn đại và chuyện trò về những sự việc ở Maaneland, phải, nó trôi giạt như một đám sương mù, đọng lại trên những gương mặt và luồn vào những đôi tai; ngay cả những đứa bé đi học gần trại Breidablik cũng bắt đầu xì xào với nhau những câu chuyện bí mật. Cuối cùng ngài Lensmand phải xét đến nó; phải đích thân tìm hiểu và báo cáo về nó; và xin chỉ thị. Thế rồi một hôm ông đến với một cuốn sổ và một viên phụ tá; tới Maaneland để điều tra ghi chép các thứ, rồi trở xuống. Nhưng ba tuần sau ông lại quay lên lần nữa, lại điều tra và ghi chép, và lần này ông khai quật một nấm đất xanh bên dòng suối, lấy lên thi hài của một đứa bé. Oline là sự trợ giúp vô giá đối với ông; và đổi lại ông phải trả lời một số câu hỏi của bà.
Trong số những câu mà ông đáp phải, có thể đi đến việc bắt giữ cả Axel. Khi nghe thấy thế, Oline xiết chặt đôi bàn tay bà lại trong cơn thất đảm về chuyện xấu xa tệ hại mà bà đã mắc vào ở đây, và chỉ ước gì ra khỏi chốn này, tránh xa mọi thứ. “Nhưng cô gái đó,” bà thì thầm, “về chính Barbro thì sao?”
“Cô Barbro hả,” vị cựu Lensmand đáp, “hiện cô ta đang bị giam giữ ở Bergen. Pháp luật phải ra tay,” ông nói. Rồi ông mang cái thi hài nhỏ xíu quay trở về làng…
Không có gì là lạ khi Axel Ström lo lắng. Anh đã nói hết với vị cựu Lensmand, không giấu diếm điều gì; anh cũng có một phần trách nhiệm về việc mang thai đứa bé, ngoài ra, anh đã đào cho nó cái huyệt. Giờ đây anh hỏi Geissler tốt hơn anh nên làm gì kế tiếp. Anh có phải bị đưa xuống thị trấn cho một cuộc điều tra mới và tệ hại hơn, và sẽ bị hành hạ ở đó hay không?
Geissler không còn là ông trước đó. Không. Và câu chuyện dài dòng làm ông thấy mệt, hiện giờ ông tỏ ra thẫn thờ hơn, bất kể lý do là gì. Ông không còn là một con người rạng rỡ và tự tin của buổi sáng hôm đó nữa. Ông nhìn đồng hồ, đứng lên và bảo:
“Cần phải nghĩ cặn kẽ về chuyện này. Tôi sẽ xem xét nó rồi cho cậu biết trước khi tôi đi.”
Và Geissler lên đường.
Tối hôm đó ông quay trở lại Sellanraa, ăn một chút xúp rồi lên giường; ngủ cho tới sáng bạch ngày hôm sau; ông mệt, không ngờ gì nữa, sau cuộc gặp với những người chủ khu mỏ; chỉ hai ngày sau đó ông mới sẵn sàng để lên đường. Ông trở lại là chính mình khi đó, trả tiền một cách thoải mái và cho bé Rebecca một đồng Kroner lấp lánh.
Ông chuyện trò với Isak và bảo: “Không có gì quan trọng nếu không thỏa thuận được gì vào lần này; sau này nó sẽ ổn thỏa thôi. Còn hiện tại, tôi sẽ dừng hoạt động trên đó lại và rời đi một ít lâu. Còn về phần mấy tay đó, bọn trẻ con! Chúng nghĩ chúng có thể dạy tôi à? Anh có nghe chúng đề nghị tôi gì không? Hai mươi lăm ngàn!”
“Phải.” Isak nói.
“Thôi,” Geissler nói và vẫy tay như thể xua đi mọi lời đề nghị xấc xược về những khoản tiền nhỏ bé ra khỏi đầu ông, “à, sẽ không có tổn hại gì cho huyện nếu tôi ngưng hoạt động ở đó một thời gian. Trái lại, nó sẽ dạy cho dân chúng gắn bó với đất đai của họ. Nhưng trong làng họ sẽ cảm thấy điều đó. Họ đã kiếm được khối tiền từ đó vào mùa hè trước; quần áo đẹp và cuộc sống tốt đẹp cho tất cả. Nhưng giờ thì đã kết thúc việc đó. Phải, những người dân tốt dưới đó sẽ không mất đi đâu nếu như họ tiếp tục quan hệ với tôi; mọi chuyện khi đó có thể khác đi. Bây giờ, nó sẽ theo ý muốn của tôi.”
Nhưng khi ông lên đường, trông ông không có vẻ gì là một người kiểm soát vận mệnh của những thôn làng. Tay ông cầm một gói thức ăn và chiếc áo gi-lê trắng của ông không còn hoàn toàn sạch sẽ nữa. Người vợ tốt của ông hẳn đã trang bị cho chuyến đi này của ông từ số bốn mươi ngàn đồng mà trước đây bà đã nhận. Ai có thể nói được, có lẽ là thế. Dù sao, ông trở về khá nghèo nàn.
Ông không quên ghé qua chỗ Axel Ström trên đường đi xuống, và trao cho anh kết quả những suy nghĩ của ông. “Tôi đã xem xét nó ở mọi phương diện,” ông nói. “Vụ việc hiện đang bị đình chỉ, vì thế chưa cần phải làm gì cả. Cậu sẽ được triệu tập cho một cuộc điều tra sâu hơn, và cậu sẽ phải nói mọi việc đã xảy ra thế nào…”
Chỉ là những ngôn từ, không hơn không kém. Có lẽ Geissler đã không hề suy nghĩ gì về chuyện đó. Và Axel chán ngán đồng ý với tất cả những gì ông nói. Nhưng cuối cùng Geissler lại trở thành một người mạnh mẽ, nhíu đôi mày và nói một cách trầm ngâm: “Có lẽ là trừ phi tôi có thể xoay xở để đích thân xuống thị trấn và theo dõi quá trình đó.”
“Phải, nếu ông có lòng tốt,” Axel nói.
Geissler quyết định trong chớp mắt. “Tôi sẽ xem tôi có lo liệu được không nếu có thời gian. Nhưng tôi còn khối việc phải trông nom dưới phía nam. Tôi sẽ tới nếu có thể. Giờ thì tạm biệt. Tôi sẽ gửi cho cậu mấy cỗ máy đó.”
Và Geissler đi.
Ông có còn trở lại nữa không?
Phúc Lành Của Đất Phúc Lành Của Đất - Knut Hamsun Phúc Lành Của Đất