Số lần đọc/download: 0 / 53
Cập nhật: 2021-05-22 19:07:47 +0700
Chương 26 - Bà Kate Và Thủy Thủ Trưởng - Câu Chuyện Của Evans - Sau Khi Xuồng Mắc Cạn - Walston Ở Cảng Hòn Gấu - Cái Diều - Động Người Pháp Bị Phát Hiện - Cuộc Trốn Chạy Của Evans - Băng Qua Lạch - Những Dự Định - Đề Xuất Của Gordon - Những Vùng Đất Phía Đông - Đảo Chairman-Hanovre
T
hoạt đầu Gordon, Briant, Doniphan đứng im trước sự xuất hiện quá bất ngờ của Evans. Rồi do bản năng họ lao tới người thủy thủ trưởng như tới một vị cứu tinh. Đó là một người trạc hai lăm đến ba mươi tuổi, vai rộng, thân hình cường tráng, mắt sáng, trán cao, nét mặt thông minh, dễ mến, dáng đi vững vàng, cả quyết, hai má bị che khuất một phần vì bộ râu không cạo từ khi tàu Severn gặp nạn.
Vừa vào sảnh, anh đã quay lại đóng sập cửa và áp tai nghe ngóng. Không thấy gì bên ngoài, anh vào giữa sảnh. Đứng đó, dưới ánh đèn hiệu treo trên vòm, anh nhìn cái nhóm nhỏ vây quanh và lẩm bẩm:
- Đúng! Những cậu bé… chỉ là những cậu bé!
Đột nhiên mắt anh linh hoạt hẳn lên, nét mặt rạng rỡ, hai cánh tay dang rộng. Bà Kate vừa tới gần anh.
- Bà Kate! - Anh kêu lên. - Bà còn sống!…
Rồi anh nắm lấy hai tay bà như để chắc chắn là không phải tay người chết.
- Phải, còn sống như anh, Evans! - Bà Kate trả lời. - Chúa đã cứu tôi như cứu anh và giờ đây Chúa đưa anh tới để cứu các em này!
Thủy thủ trưởng đưa mắt đếm các em đang ngồi quanh chiếc bàn trong sảnh và nói:
- Mười lăm, và chỉ năm, sáu cậu là có khả năng kháng cự… Chẳng sao!
- Thủy thủ trưởng Evans, liệu chúng ta có nguy cơ bị tấn công hay không? - Briant hỏi.
- Không, cậu ạ! Không!… Ít ra là vào lúc này. - Evans trả lời.
Điều dễ hiểu là ai cũng muốn nghe chuyên của thủy thủ trưởng, chủ yếu là những gì xảy ra từ khi xuồng của tàu Severn bị ném lên bờ biển. Lớn cũng như bé, ai nấy đều không ngủ được nếu chưa được nghe những điều hệ trọng dường ấy đối với họ. Nhưng trước hết phải để Evans thay bộ quần áo ướt sũng và ăn chút gì đã. Quần áo ướt là vì anh phải bơi qua lạch Zealand. Anh đói và mệt vì suốt mười hai giờ qua không có chút gì vào bụng và chưa hề được nghỉ ngơi lúc nào.
Briant liền đưa anh sang kho và anh được Gordon cấp cho một bộ áo quần thủy thủ còn tốt. Sau đó Moko dọn ra món thịt nguội, bánh quy, mấy chén trà nóng hổi và một cốc brandy.
Mười lăm phút sau, ngồi trước bàn trong sảnh, Evans kể lại những sự kiện xảy ra từ khi người thủy thủ tàu Severn bị đẩy lên đảo.
- Trước khi xuồng chạm đá ngầm một chút, năm người kể cả tôi bị hất vào những mỏm đầu tiên của dải đá ngầm. Không ai bị va đập mạnh đến nỗi bị thương. Nhưng cái khó là làm sao thoát được khỏi những con sóng dồi trong đêm tối và thủy triều đang xuống sục sôi vì gió bão. Tuy nhiên, sau nhiều cố gắng, cả bọn gồm Walston, Brandt, Rock, Cook, Cope và tôi, thiếu hai người là Forbes và Pike. Họ bị gió bão ném khỏi xuồng hay đã thoát nạn khi chiếc xuồng bị đánh bật lên bãi cát, chẳng biết nữa. Còn bà Kate thì tôi cho là đã bị sóng cuốn đi và nghĩ rằng chẳng bao giờ gặp lại được nữa.
Nói tới đây, Evans không giấu nổi sự xúc động cũng như niềm vui được gặp lại người đàn bà dũng cảm đã cùng anh thoát khỏi cuộc tàn sát trên tàu Severn. Sau khi phải phó mặc mạng sống cho quân giết người ấy, giờ đây cả hai đều đã thoát khỏi sự áp bức tuy vẫn còn nguy cơ bị chúng làm hại sau này.
Evans kể tiếp:
- Vào đến bãi, phải đi tìm cái xuồng mất khá nhiều thời gian. Lúc chúng tôi bị dạt vào bờ là 7 giờ, mà gần nửa đêm mới thấy nó nằm nghiêng trên cát ở bờ…
- Bãi Severn. - Briant giải thích. - Tên ấy do mấy bạn chúng em đặt khi thấy đó là xuồng của tàu Severn, trước khi nghe bà Kate kể về tai nạn của bà.
- Trước à? - Evans ngạc nhiên hỏi lại.
- Phải, thưa thủy thủ trưởng Evans! - Doniphan nói. - Chúng em đã ở đó đúng vào đêm xảy ra tai nạn, khi hai người cùng xuồng của anh còn nằm trên cát… Nhưng sáng ra khi chúng em tới định thực hiện nghĩa vụ cuối cùng đối với họ thì họ đã biến mất.
- Đúng thế, - Evans nói tiếp - bây giờ thì tôi thấy mọi chuyện liên hệ với nhau rồi! Forbes và Pike tưởng đã chết đuối (Lạy Chúa, giá mà thế thì có phải bớt được hai trong lũ bảy tên khốn kiếp ấy không!) thì hóa ra chúng lại bị quẳng lên bãi cách xuồng không xa. Bọn Walston tìm thấy chúng và làm chúng tỉnh lại bằng mấy ngụm rượu gin. May cho chúng và không may cho ta là mấy khoang xuồng không vỡ và cũng không ngấm nước biển, đạn dược, vũ khí, năm cây súng trường, thức ăn còn lại đã được đưa xuống xuồng khi tàu Severn cháy, sau đó lại được chúng lấy ra khỏi xuồng vì sợ đợt thủy triều lên sắp tới sẽ phá mất. Sau đó cả bọn rời khỏi nơi này, men theo bờ biển đi về phía đông. Lúc đó, một tên, Rock thì phải, nhận xét là không thấy bà Kate. Walston liền trả lời: “Mụ ta bị sóng cuốn mất rồi. Thanh toán thế là hay!” Điều ấy khiến tôi nghĩ rằng chúng thích thú vì thanh toán được bà Kate khi không cần đến bà nữa, thì rồi khi không còn ích gì cho chúng nữa, Evans tôi cũng sẽ thế thôi. À mà bà Kate, lúc ấy bà ở đâu?
- Tôi cũng ở gần xuồng, về phía biển, - bà Kate trả lời, - nơi tôi bị sóng quăng lên… Không ai trông thấy tôi, nhưng tôi nghe thấy hết những gì chúng trao đổi với nhau… Khi chúng đi rồi thì, Evans ạ, tôi đứng lên và trốn theo hướng ngược lại để khỏi rơi vào tay chúng lần nữa. Ba mươi sáu giờ sau, tôi gần chết đói thì được các cậu bé này đón nhận và đưa về động Người Pháp.
- Động Người Pháp? - Evans nhắc lại.
- Đó là tên đặt cho nơi cư trú của chúng em, - Gordon trả lời, - để tưởng nhớ nạn nhân người Pháp đã từng ở đây trước chúng em nhiều năm.
- Động Người Pháp, bãi Severn… - Evans nói, - chắc là các cậu đã đặt tên cho nhiều nơi khác nhau trên đảo. Hay đấy!
- Vâng, thưa thủy thủ trưởng Evans, những tên hay - Service tiếp lời - và còn nhiều tên khác: hồ Gia Đình, miền Đất Gò, truông phía Nam, lạch Zealand, rừng Hố Bẫy…
- Tốt!… Tốt!… Các cậu sẽ cho tôi biết… sau… vào ngày mai nhé!… Giờ để tôi kể tiếp đã… Có nghe thấy gì bên ngoài không?
- Không! - Moko từ nãy đứng canh ở cửa sảnh trả lời.
- Hay lắm! - Evans kể tiếp - Một giờ sau khi bỏ xuồng lại, cả bọn tới một rặng cây và nghỉ tại đó. Hôm sau và mấy hôm sau nữa thì quay lại chỗ cái xuồng để thử sửa chữa, nhưng không có dụng cụ gì ngoài một cái rìu bình thường, không thể vá chỗ vỏ tàu vỡ để đi biển dù là một chuyến ngắn. Hơn nữa, nơi đó lại rất bất tiện cho loại công việc này. Thế là phải đi tìm nơi cắm trại khác, đỡ cằn cỗi hơn để săn bắn đủ cho nhu cầu hằng ngày và gần lạch nước ngọt vì nước uống dự trữ đã bắt đầu cạn. Đi theo bờ biển khoảng mười hai dặm thì gặp một con sông nhỏ…
- Sông Đông! - Service nói.
- Sông Đông à! Được lắm! - Evans đáp. - Ở đó cuối một vũng biển rộng…
- Vũng Ảo Tưởng! - Jenkins mách.
- Được, là vũng Ảo Tưởng. - Evans mỉm cười. - Giữa những khối đá có một cảng nhỏ…
- Cảng Hòn Gấu! - Đến lượt Costar chêm vào.
- Ừ, cảng Hòn Gấu, chú nhóc ạ! - Evans gật đầu trả lời. - Chúng nhận định là nếu đưa được xuồng tới đây thì rất dễ cho vào cảng này và biết đâu có thể tu sửa được, chứ ở đằng kia thì chỉ một trận bão là tan tành thôi. Thế là cả bọn quay lại, làm xuồng nhẹ bớt tới mức có thể rồi đẩy xuống biển, tuy xuồng ngập đầy nước, chúng vẫn cố kéo dọc theo bờ biển và đưa được vào cái cảng nhỏ ấy an toàn.
- Xuồng ấy đang ở Hòn Gấu hả anh? - Briant hỏi.
- Đúng thế, cậu ạ! Và tôi nghĩ có thể sửa được nếu có dụng cụ cần thiết.
- Anh Evans, những dụng cụ thì chúng em có. - Doniphan sốt sắng trả lời.
- Thì Walston cũng cho là thế khi tình cờ hắn biết là đảo này có người ở và những người ấy là ai.
- Sao hắn lại biết được? - Gordon hỏi.
- Là thế này, - Evans trả lời, - tám ngày trước, bọn Walston và tôi, vì không bao giờ chúng để tôi một mình, đi xuyên qua rừng để thăm dò. Sau ba, bốn giờ đi bộ ngược dòng sông Đông thì tới một hồ rộng, nơi con sông bắt nguồn và các cậu hãy tưởng tượng xem, cả bọn ngạc nhiên thế nào khi thấy một vật dạt vào bờ. Đó là một cái khung bằng sậy, căng vải…
- Đúng cái diều của chúng em rồi! - Doniphan thốt lên.
- Diều của chúng em rơi xuống hồ, - Briant bổ sung, - rồi gió đưa tới đó.
- À, thế ra là một cái diều! - Evans nói. - Thật tình chẳng ai đoán ra đó là gì và cứ băn khoăn mãi. Tuy nhiên, nó không phải tự nhiên mà có… Phải có ai đó làm ra ngay trên đảo! Không nghi ngờ gì nữa: Đảo này có người ở! Những người ấy là ai? Đó là điều Walston cần biết. Còn tôi, từ hôm ấy, tôi quyết định phải trốn. Dù người trên đảo là ai, thậm chí là người dã man đi nữa thì cũng không thể tệ hại hơn bọn giết người trên tàu Severn. Tuy nhiên, cũng từ đó chúng giám sát tôi chặt chẽ ngày đêm.
- Vậy làm sao anh phát hiện ra động Người Pháp? - Baxter hỏi.
- Tôi sắp nói đây, - Evans đáp. - Nhưng trước khi tôi kể tiếp, các cậu hãy cho tôi biết các cậu dùng cái diều đồ sộ ấy để làm gì? Để làm tín hiệu hay sao?
Gordon bèn kể cho Evans biết việc trại đã làm, với mục đích gì và Briant đã liều mình vì lợi ích chung và đã xác định rằng Walston vẫn còn trên đảo bằng cách nào.
- Thật là một chàng trai gan dạ!
Evans nắm lấy tay Briant, lắc lắc vẻ đầy thiện cảm và nói tiếp:
- Các cậu nên biết rằng lúc ấy Walston chỉ chú tâm tìm hiểu người ở hòn đảo xa lạ này là thế nào. Nếu là người bản xứ thì có thể điều đình với họ, nếu là nạn nhân đắm tàu thì chắc họ có những dụng cụ hắn cần và họ không từ chối giúp hắn sửa xuồng để lại đi biển được. Vậy là cuộc thăm dò bắt đầu, phải nói là rất thận trọng. Chúng chỉ men theo các khu rừng ở bờ hồ bên phải tiến dần xuống mũi hồ phía nam. Nhưng không hề thấy bóng dáng một người nào, không có một tiếng súng nổ nào ở phần đảo này. Tuy nhiên các cậu vẫn bị phát hiện! - Evans vẫn tiếp tục kể. - Và làm sao khác được. Đó là vào đêm 23 rạng ngày 24 tháng 11, một đồng bọn của Walston từ phía nam đi về phía động Người Pháp, rủi làm sao, có lúc hắn thấy ánh sáng lọt ra từ vách đá, có thể lúc đó có ai mở cửa nên ánh đèn hắt ra. Hôm sau, đích thân Walston tới, nấp trong những lùm cỏ cao gần hết một buổi chiều, cách con lạch mấy bước.
- Chuyện ấy chúng em biết. - Briant nói.
- Các cậu biết sao?
- Vâng, Gordon và em thấy ở chỗ ấy có một cái tẩu thuốc đánh rơi, và bà Kate đã nhận ra là của Walston.
- Đúng lắm! - Evans nói tiếp. - Walston đánh rơi tẩu thuốc trong chuyến đi đó, khi về hắn rất bực dọc. Nhưng hắn đã biết sự tồn tại của trại di thực nhỏ. Thực thế, khi nấp trong lùm cỏ cao, hắn đã thấy phần lớn các cậu đi lại bên bờ phải con lạch. Chỉ có mấy đứa trẻ thì làm gì mà bảy người lớn chẳng diệt gọn! Hắn về và kể lại cho đồng bọn điều hắn thấy. Tôi đã bắt gặp Walston và Brandt trao đổi chuyện này với nhau và biết chúng chuẩn bị những gì để tấn công động Người Pháp.
- Lũ quái vật! - Bà Kate kêu lên. - Chúng không thương cả trẻ em…
- Không, bà Kate. - Evans đáp. - Cũng như chúng không chút thương xót ông thuyền trưởng và hành khách tàu Severn. Lũ quái vật! Bà gọi chúng thế là đúng lắm và tên chỉ huy Walston là gian ác nhất. Mong sao hắn sẽ phải đền tội.
- Ơn Chúa! Thế là cuối cùng anh cũng trốn thoát. - Bà Kate nói.
- Vâng! Cách đây khoảng mười hai giờ, lợi dụng Walston và những tên khác vắng mặt, để Forbes và Rock canh chừng tôi, tôi cho rằng đó là thời cơ để thoát thân. Điều phải làm là trốn đi không để lại dấu vết hay ít nhất là đừng để chúng đuổi kịp. Vào khoảng 10 giờ sáng, tôi chạy vào rừng, bị chúng phát hiện gần như ngay lập tức và đuổi theo. Chúng có súng còn tôi chỉ có con dao của thủy thủ để chống cự và đôi chân để chạy. Chúng đuổi theo suốt ngày. Tôi cắt rừng chạy chéo góc sang bờ trái, phải vòng qua mũi hồ vì theo câu chuyện chúng nói với nhau mà tôi nghe được thì các cậu phải ở bên bờ một con lạch từ bờ hồ chảy về phía tây. Thật chưa bao giờ tôi phải chạy nhanh và lâu đến thế! Mười lăm dặm một ngày! Quỷ quái sao, bọn khốn kiếp cũng chạy nhanh như tôi, còn đạn chúng bắn thì bay nhanh hơn, nhiều lần rít ngang bên tai tôi! Các cậu nghĩ mà xem, tôi biết bí mật của chúng. Nếu thoát thân được, tôi có thể tố cáo chúng. Nên chúng phải bắt được tôi bằng mọi giá. Thật ra, nếu bọn chúng không có súng thì tôi sẵn sàng dừng lại đợi bọn chúng với con dao trong tay. Tôi có thể giết chúng hoặc bị chúng giết. Đúng thế, bà Kate ạ. Tôi thà chết còn hơn trở lại nơi cắm trại của lũ cướp! Lúc ấy, tôi hi vọng đến tối thì cuộc đi săn chết tiệt này chấm dứt. Nhưng không được. Tôi đã vượt qua mũi hồ, sang bờ bên kia nhưng vẫn cảm thấy Forbes và Rock đuổi theo sát gót. Lúc này cơn dông đe dọa từ mấy giờ trước nổ ra khiến tôi chạy khó khăn hơn vì trong ánh chớp bọn khốn kiếp thấy rõ tôi giữa đám lau sậy. Cuối cùng, còn cách lạch khoảng một trăm bước, nếu sang được bờ bên kia thì coi như tôi thoát. Chúng không dám vượt qua lạch vì cận kề động Người Pháp. Tôi vẫn chạy và sát tới bờ trái thì một ánh chớp cuối cùng bừng sáng cả không gian, cùng lúc có tiếng súng nổ…
- Có phải tiếng súng chúng em nghe thấy không? - Doniphan hỏi.
- Hẳn rồi! - Evans tiếp tục kể. - Một viên đạn sượt qua vai tôi. Tôi nhảy lên và lao xuống lạch. Chỉ vài lần sải tay là tôi đã sang bờ bên kia, ẩn mình trong cỏ. Còn Forbes và Rock tới bờ trái, chúng hỏi nhau: “Mày bắn trúng chứ? - Tao bảo đảm. - Thế là nó đang ở đáy lạch à? - Chắc chắn là thế, chết… chết thật rồi! - Tốt, thế là rảnh!” Rồi chúng lỉnh đi… Phải, thế là rảnh… rảnh cho tôi và cho bà, bà Kate ạ! À bọn khốn, rồi bọn mi sẽ biết ta đã chết chưa! Một lúc sau tôi ra khỏi bụi cỏ và đi về phía góc của vách đá… Tôi nghe thấy tiếng chó sủa… tôi gọi… Động Người Pháp mở cửa… Và bây giờ, - Evans chỉ tay về phía hồ nói thêm, - bây giờ đến lượt chúng ta, các cậu ạ, phải thanh toán bọn khốn kiếp ấy, giải thoát cho đảo của các cậu! - Anh nói những điều ấy thật kiên quyết khiến tất cả đều đứng lên, sẵn sàng nghe theo anh.
Bây giờ phải kể cho Evans những gì đã xảy ra hai mươi tháng qua, về du thuyền Sloughi đã rời New Zealand trong hoàn cảnh nào, về hành trình trên Thái Bình Dương cho tới đảo, về việc phát hiện hài cốt của nạn nhân người Pháp, về việc định cư của trại ở động Người Pháp, về những cuộc khảo sát trong mùa nóng, về những việc làm trong mùa đông và cuối cùng là về cuộc sống tương đối đảm bảo và an toàn trước khi Walston và đồng bọn tới đảo.
- Thế suốt hai mươi tháng qua, không có tàu thuyền nào tới đảo à? - Evans hỏi.
- Ngay ở ngoài khơi cũng chẳng thấy. - Briant đáp.
- Các cậu có đặt tín hiệu không?
- Có, có một cột buồm đã được dựng trên đỉnh cao nhất của vách đá.
- Và không có kết quả?
- Không, thưa thủy thủ trưởng Evans. - Doniphan đáp. - Nhưng xin nói thêm là chúng em đã hạ xuống từ sáu tuần nay rồi, để bọn Walston không trông thấy.
- Các cậu làm thế là đúng! Và bây giờ, khi lũ cướp đó đã biết đối thủ của chúng là ai thì chúng ta phải đề phòng ngày đêm.
- Tại sao chúng ta lại phải dây dưa với lũ xấu xa ấy, - Gordon nhận xét, - mà không phải với những người tử tế, lương thiện để ta vui vẻ giúp đỡ? Được thế thì trại của ta sẽ mạnh hơn bao nhiêu! Thế là từ giờ, chúng ta phải đương đầu với một cuộc tranh đấu để bảo vệ mạng sống của mình. Một cuộc chiến chưa biết kết cục sẽ ra sao!
- Cho đến nay thì Chúa đã che chở cho các con, - bà Kate trả lời, - Chúa sẽ không từ bỏ các con đâu! Chúa đã đưa Evans dũng cảm đến với các con và cùng anh ấy…
- Evans! Hoan hô Evans! - Toàn thể trại viên đồng thanh hô to.
- Hãy tin ở tôi, các cậu ạ! - Thủy thủ trưởng đáp lại. - Cũng như tôi tin ở các cậu! Tôi hứa là chúng ta sẽ chiến thắng để tự vệ.
- Tuy nhiên, - Gordon nói, - nếu có thể tránh được cuộc chiến, nếu Walston ưng thuận rời khỏi đảo thì sao?
- Cậu muốn nói gì vậy Gordon? - Briant hỏi.
- Mình muốn nói rằng bọn chúng hẳn đã ra đi nếu cái xuồng còn dùng được. Thủy thủ trưởng Evans, có phải vậy không?
- Hẳn là thế!
- Vậy nếu ta thỏa thuận với chúng là cung cấp dụng cụ cần thiết cho chúng thì chúng có chấp nhận không? Biết rằng giao thiệp với quân giết người trên tàu Severn là ghê tởm đấy, nhưng để đẩy được chúng đi, để ngăn chặn cuộc chiến có thể đổ nhiều máu… Anh thấy sao, anh Evans?
Evans chăm chú nghe. Lời đề nghị chứng tỏ một đầu óc thực tế, không bị cuốn theo những cảm tính nông nổi và một bản lĩnh vững vàng, bình tĩnh xem xét mọi hoàn cảnh. Anh nghĩ - và không lầm - rằng đây là chàng trai chín chắn nhất trong bọn trẻ, và đề nghị của cậu xứng đáng để bàn luận.
- Đúng thế, cậu Gordon ạ! - Evans trả lời. - Bất cứ cách gì tống khứ được bọn ấy đi đều tốt. Vì vậy, sau khi sửa chữa xuồng mà chúng thuận tình ra đi thì vẫn tốt hơn là đối đầu mà chưa biết ra sao. Nhưng mà có thể tin Walston hay không? Liệu khi ta thương lượng với hắn, hắn có lợi dụng để bất ngờ tấn công động Người Pháp, chiếm đoạt mọi thứ của các cậu hay không? Hắn có nghĩ rằng hẳn các cậu đã cứu được tiền bạc khi tàu bị nạn hay không? Các cậu hãy tin tôi, bọn khốn nạn ấy chỉ tìm cách hại người đã giúp đỡ chúng thôi! Trong tâm hồn chúng không có chỗ cho sự biết ơn đâu! Thỏa thuận với chúng có nghĩa là đầu hàng…
- Không! Không! - Doniphan và Baxter kêu to và được các bạn phụ họa theo rất kiên quyết, khiến thủy thủ trưởng hài lòng.
- Không! - Briant khẳng định. - Chúng ta không dây dưa với Walston và đồng bọn!
- Thế rồi, - Evans nói tiếp - bọn chúng không chỉ cần dụng cụ mà cần cả đạn dược nữa. Để tấn công một trận thì chúng đủ đấy, chắc chắn là thế!… Nhưng muốn tới những miền khác với vũ khí trong tay thì thuốc súng và đạn chì còn lại chẳng bao nhiêu. Chúng sẽ xin giúp đỡ. Chúng sẽ đòi hỏi. Liệu các cậu có cho chúng không?
- Không, nhất định là không! - Gordon đáp.
- Thế thì chúng sẽ dùng vũ lực cướp bằng được. Cậu chỉ trì hoãn được trận đánh rồi khi nó xảy ra thì ta càng bị bất lợi mà thôi.
- Thủy thủ trưởng Evans, anh nói phải! - Gordon trả lời. - Chúng ta hãy tổ chức phòng ngự và chờ đợi.
- Đúng, đó là quyết định đúng đắn! Cậu Gordon, chúng ta hãy chờ! Và còn có một lí do để chờ đợi mà tôi quan tâm hơn cả.
- Lí do gì vậy?
- Các cậu hãy lắng tai nghe nhé! Có phải Walston chỉ có thể ra đi được bằng cái xuồng của tàu Severn không?
- Tất nhiên! - Briant trả lời.
- Mà cái xuồng ấy hoàn toàn có thể sửa được, tôi khẳng định thế, và Walston chịu không sửa được vì hắn không có dụng cụ…
- Không phải thế thì hắn đã đi xa rồi! - Baxter nói.
- Cậu nói đúng. Vậy nếu các cậu cung cấp dụng cụ cho Walston sửa xuồng, cứ cho là hắn bỏ ý định tấn công động Người Pháp, thì hắn sẽ ra đi mà bỏ mặc các cậu.
- Ồ, giá mà hắn làm như thế nhỉ! - Service kêu lên.
- Quỷ quái chưa! Nếu hắn làm thế, - Evans đáp, - thì còn cái xuồng nào cho chúng ta nữa!
- Sao? - Gordon hỏi. - Anh định dùng xuồng ấy để rời đảo ư, thủy thủ trưởng Evans?
- Tuyệt đối đúng, cậu Gordon ạ!
- Để trở về New Zealand, để vượt Thái Bình Dương sao? - Doniphan hỏi thêm.
- Thái Bình Dương à?… Không, các cậu ơi! - Evans trả lời. - Mà là tới một trạm không xa đợi cơ hội trở về Auckland.
- Anh nói thật chứ, anh Evans? - Briant kêu to.
Cùng lúc vài ba bạn nữa hỏi dồn.
- Cái xuồng làm sao vượt được mấy trăm hải lí? - Baxter hỏi.
- Mấy trăm hải lí? - Evans đáp. - Đâu có! Khoảng ba chục thôi!
- Thế quanh đảo chẳng phải là biển cả đó ư? - Doniphan hỏi.
- Về phía tây thì đúng thế, còn về phía nam, phía bắc, phía đông thì chỉ là những khoảng cách có thể vượt qua dễ dàng trong sáu mươi giờ!
- Vậy chúng em không lầm khi nghĩ rằng có những vùng đất ở gần đảo hay sao? - Gordon hỏi.
- Không lầm chút nào! - Evans trả lời. - Thậm chí ở phía đông còn là những vùng đất rất rộng.
- Đúng… ở phía đông! - Briant thốt lên. - Cái vệt trăng trắng và ánh sáng em đã trông thấy ở phía ấy.
- Vệt trăng trắng… cậu bảo thế à? - Evans hỏi lại. - Hẳn đó là một băng hà, còn ánh sáng là của một núi lửa đang phun trào, chắc chắn là được ghi trên bản đồ! À mà các cậu này, các cậu nghĩ mình đang ở đâu?
- Ở một trong những hòn đảo lẻ loi của Thái Bình Dương. - Gordon trả lời.
- Một hòn đảo… thì đúng, còn lẻ loi… thì không! Các cậu hãy nhớ rằng đảo này thuộc một trong những quần đảo rải rác ở ven biển Nam Mỹ. À, còn chuyện này nữa, các cậu đã đặt tên cho các mũi đất, vũng biển, sông, lạch… trên đảo mà chưa cho tôi biết các cậu gọi hòn đảo của mình thế nào?
- Đảo Chairman, theo tên trường nội trú của chúng em. - Doniphan đáp.
- Đảo Chairman! - Evans nhắc lại. - Vậy là nó có hai tên, vì nó đã được gọi là đảo Hanovre!
Đến đây, sau khi bố trí canh phòng theo nếp đã thành quen và thu xếp chỗ nằm trong sảnh cho Evans, mọi người đi nghỉ. Có hai cảm xúc mãnh liệt quấy rầy giấc ngủ của các trại viên trẻ, một đằng là cuộc chiến đấu gay cấn đang chờ phía trước, và một đằng là triển vọng được trở về quê hương.
Thủy thủ trưởng Evans để đến mai sẽ giảng giải nốt và chỉ ra vị trí chính xác của đảo Hanovre trên bản đồ của tập atlas. Còn Moko và Gordon thì làm nhiệm vụ canh phòng.
Đêm trôi qua yên tĩnh trong động Người Pháp.