What's meant to be will always find a way.

Trisha Yearwood

 
 
 
 
 
Tác giả:  M. L. Stedman
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Light Between Oceans
Dịch giả: Hồ Thị Như Mai
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 38
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Iii.2
ũng như nhiều tòa nhà khác trong thị trấn, đồn cảnh sát ở Mũi Partaguese được làm từ thứ đá tại chỗ và gỗ của những cánh rừng quanh đó. Mùa hè đồn cánh sát nực như lò nướng còn mùa đông thì lại như thùng đá, khiến đồng phục cũng phải thay đổi những hôm nóng quá hay lạnh quá. Mỗi khi có mưa lớn, mấy phòng giam bị ngập lụt, nhiều mảng trần nhà võng xuống, có lần còn rơi hẳn xuống khiến một tù nhân phải bỏ mạng. Perth không hề muốn chi tiền để sửa sang lại cho đàng hoàng, vậy nên đồn xứ Mũi luôn có cái vẻ thương vong vĩnh viễn, chắp vá tạm bợ hơn là được sửa sang chỉn chu.
Septimus Potts ngồi ở chiếc bàn đặt gần quầy lễ tân, điền tờ đơn với nhũng chi tiết ít ỏi mà ông biết về anh con rể. Ông biết tên đầy đủ của Frank, biết ngày sinh – những thông tin đó có trên tờ biên nhận bia mộ. Nhưng còn nơi sinh, tên cha mẹ… “Anh nghe đây, tôi nghĩ có thể giả định Frank cũng có cha mẹ, vậy là được rồi. Giờ cần tập trung vào chuyện chính,” ông ta lớn giọng, khiến Garstone phải ngả người lùi lại phía sau, Septimus quá thạo động tác đó qua nhiều năm trên thương trường. Viên cảnh sát đành nhượng bộ, xem như bản cáo trạng ban đầu của Tom đã được viết xong. Ngày nạn nhân mất tích thì quá dễ rồi – lễ Anzac, 1926; nhưng còn ngày chết thì sao?
“Anh đi mà hỏi tay Sherbourne vậy,” Potts chua chát nói, vừa lúc Bill Graysmark bước vào đồn.
Septimus quay lưng lại. Hai người nhìn nhau, hằn học như hai con bò tót già. “Tôi sẽ đi gọi hạ sĩ Knuckey,” viên cảnh sát lập bập nói rồi đứng dậy, chân ghế đập chan chát xuống nền nhà. Anh ta đập rầm rầm lên cửa phòng ông hạ sĩ cảnh sát rồi quay ra ngay để gọi Bill vào. Bill bước vội qua mặt Potts, tiến vào văn phòng của Knuckey.
“Vernon!” Bill lên tiếng ngay khi cánh cửa vừa đóng lại. “Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra nhưng tôi yêu cầu anh trả cháu gái tôi về với mẹ nó, ngay bây giờ. Làm sao các anh lôi nó đi như vậy được! Nó còn chưa được bốn tuổi, trời đất ơi.” Bill hơ tay về phía trước đồn. “Chuyện nhà Roennfeldt rất buồn, nhưng Septimus Potts không thể cướp lấy cháu gái tôi để bù đắp lại.”
“Bill,” viên hạ sĩ lên tiếng, “Tôi biết giờ chuyện rất khó khăn…”
“Biết gì mà biết! Có là chuyện gì đi nữa thì cũng đã rối tung lên, chẳng qua cũng chỉ vì lời nói của người đàn bà loạn trí đã mấy năm.”
“Làm một chút brandy rồi…”
“Tôi không cần brandy gì cả! Tôi cần một chút lý lẽ ở đây, nếu anh không phiền. Kể từ khi nào mà anh có quyền tống giam người ta chỉ với lời buộc tội vô căn cứ của… của một người điên?”
Knuckey ngồi xuống bàn, vân vê cây viết trên đầu ngón tay. “Nếu anh ám chỉ Hannah Roennfeldt thì thực ra cô ấy chưa hề có một lời buộc tội Tom. Bluey Smart mới là người khơi chuyện – chính anh ta nhận ra cái lục lạc.” Knuckey dừng lại. “Isabel chưa hề nói tiếng nào. Không chịu mở miệng.” Viên cảnh sát nhìn cây viết đang xoay trên tay, rồi tiếp, “Anh không thấy như vậy thật lạ lùng sao, nếu mọi chuyện chỉ là một sự nhầm lẫn?”
“Thì rõ là nó bị sốc, tự dưng lại bị bắt con như vậy.”
Knuckey nhìn lên. “Vậy anh có trả lời được câu này không hả Bill: Tại sao Tom Sherbourne không hề lên tiếng phủ nhận?”
“Bởi vì anh ta…” Những lời nói bật ra trước khi Bill kịp hiểu người cảnh sát vừa nói gì, ông lập tức hỏi lại: “Ý anh là sao, không phủ nhận là sao?”
“Lúc tụi tôi ra Janus, anh ta khai là đứa bé bị dạt lên đảo trên chiếc xuồng với một người chết. Anh ta đòi giữ nó lại. Anh ta cho là người mẹ đã chết đuối, vì trên xuồng có một chiếc áo len phụ nữ. Còn kể rằng Isabel muốn báo cáo lại hết nhưng bị anh ta cản. Anh ta đổ thừa là vì Isabel không sinh con được cho anh ta. Từ đó về sau toàn là dối trá, nguyên một màn kịch. Tụi tôi phải điều tra, Bill à.” Viên cảnh sát ngập ngừng, rồi hạ giọng. “Rồi còn chuyện Frank Roennfeldt làm sao mà chết nữa. Ai mà biết Sherbourne còn giấu chuyện gì? Ai mà biết anh ta bắt Isabel phải im lặng về những chuyện gì nữa? Tình hình xấu lắm Bill à.”
***
Lâu lắm rồi thị trấn mới xôn xao như thế. Như lời vị tổng biên tập tờ South Western Times nói với đồng nghiệp trong quán rượu, “Thiếu điều Chúa Jesus xuất hiện, mua cho mỗi người một ly nữa thôi. Mẹ con đoàn tụ, một cái chết bí ẩn, còn già Potts thì tung tiền như thể... như thể là đang lễ Giáng Sinh vậy! Dân tình tò mò bao nhiêu cũng không đủ.”
***
Ngày hôm sau khi đứa bé trở về, căn nhà của Hannah vẫn còn treo những dải trang trí bằng giấy kếp. Một con búp bê mới, mặt sứ nhỏ xinh sáng lên trong nắng chiều ngồi lạc lõng trên chiếc ghế trong gốc nhà. Hai mắt nó mở to, im lặng mời gọi. Chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi vẫn tích tắc thản nhiên, và chiếc hộp nhạc cứ chơi bài “Rock-a-bye Baby”, âm điệu nghe quai quái, dọa dẫm. Tiếng khóc vọng lại từ sân sau át cả tiếng nhạc.
Trên bãi cỏ đứa bé đang gào thét, gương mặt nó tối sầm lại, vừa sợ hãi vừa giận dữ. Gò má nó căng chặt, hàm răng nhỏ nhe ra như phím đàn trên cây dương cầm tí hon. Nó đang cố chạy thoát khỏi Hannah. Cô cố ôm nó dậy, mỗi lần vậy con bé lại vùng chạy, la hét.
“Grace con yêu, thôi mà, Grace. Lại đây đi mà.”
Đứa bé vẫn hét vô vọng, “Con muốn gặp má con. Gặp ba con. Cô đi đi! Con không thích cô!”
***
Mọi sự vô cùng chộn rộn khi cảnh sát giao trả đứa bé. Người ta chụp hình, rồi những lời cảm ơn và ngợi khen được tung ra cho cả phía cảnh sát lẫn Chúa trời, hai bên có công như nhau. Miệng lưỡi người thị trấn tiếp tục bận rộn truyền tin, thêm thắt câu chuyện về vẻ mặt mơ màng của đứa nhỏ, nụ cười mãn nguyện của người mẹ. “Ôi chao đứa nhỏ tội nhgiệp –lúc gặp mẹ thì quá buồn ngủ rồi. Trông như thiên thần. Chỉ còn biết tạ ơn Chúa là cuối cùng nó cũng thoát khỏi nanh vuốt của con người kinh khủng đó!” Fanny Darnley bình phẩm. Bà này giờ đây chuyên moi móc tin tức từ mẹ của cảnh sát Garstone. Hôm đó Grace không buồn ngủ nhưng không thể tỉnh táo sau khi đã được bác sĩ Sumpton cho uống một liều thuốc ngủ khá mạnh. Con bé vô cùng hoảng loạn khi bị tách ra khỏi Isabel.
Giờ đây Hannah như kẹt trong một cuộc đối đầu với đứa con gái vẫn còn sợ hãi. Bao năm rồi cô giữ đứa bé trong tim mình, nên không hề tưởng được chuyện nó không biết cô là ai. Khi Septimus Potts bước vào vườn, ông thấy khó mà biết được giữa hai mẹ con ai mới đau khổ hơn.
“Grace con à, mẹ sẽ không làm con đau, con yêu. Đến đây với mẹ đi,” Hannah nài nỉ.
“Con không phải tên Grace! Con là Lucy!” đứa bé hét lên. “Con muốn đi về nhà! Má ở đâu rồi? Cô không phải là má con!”
Mỗi lời con bé thốt ra lại làm Hannah nhói lòng, cô chỉ biết thầm thì, “Bao lâu rồi mẹ cứ thương nhớ con. Bao lâu rồi…”
Septimus còn nhớ sự bất lực của chính mình khi Gwen, lúc đó cũng bằng tuổi Grace bây giờ cứ đi theo đòi mẹ, như thể ông vừa giấu bà vợ quá cố ở đâu đó trong căn nhà. Giờ nhìn cảnh này ông vẫn thấy xót xa.
Hannah thoáng thấy cha. Gương mặt ông cho thấy ông đang nghĩ gì. Nỗi tủi thân xâm chiếm cô.
“Con bé cần có thời gian để quen với con. Con phải kiên nhẫn, Hanny à,” ông nói. Con bé vừa tìm được một cái hốc nấp ngay sau cây chanh già và bụi tầm bóp. Nó đứng đó giữ thế, sẵn sàng vùng chạy.
“Nó không biết con là ai cả, cha à. Không biết gì hết. Thì đúng thôi. Nó không muốn lại gần con,” Hannah thổn thức.
“Rồi nó sẽ nguôi ngoai,” Septimus nói. “Sẽ mệt mỏi rồi ngủ gục ngay đó, hay đói bụng mà chui ra. Kiểu gì thì con cũng phải chờ đợi.”
“Con biết mà cha, con biết là nó phải tập quen với con trở lại.”
Septimus đặt tay lên vai cô. “Không có chuyện ‘trở lại’ ở đây. Với con bé con là một người hoàn toàn xa lạ.”
“Cha thử xem. Con xin cha, xem thử nó chịu đi ra không... Nó cũng vùng chạy khỏi Gwen.”
“Cha thấy hôm nay nó gặp quá nhiều người lạ rồi. Nó không cần thêm bộ mặt già nua xấu xí này đâu. Cứ để cho nó yên một lúc.”
“Con đã làm gì sai hả cha, để phải chịu cảnh này?”
“Con không có lỗi gì cả. Con bé là con gái con, nó đang ở ngay nhà nó. Chỉ cần kiên nhẫn, con gái à. Phải kiên nhẫn.” Ông vuốt tóc cô. “Cha sẽ không để Sherbourne thoát tội. Cha hứa với con.”
Khi Septimus quay trở vào nhà, ông thấy Gwen đứng ngay dưới bóng cây ở lối đi, chăm chú nhìn chị gái. Cô lắc đầu, thầm thì, “Cha ơi, con bé tội nghiệp quá chừng. Cứ nghe nó khóc cũng thấy xót cả gan ruột.” Cô thở dài. “Biết đâu rồi nó cũng quen,” cô nhún vai nói, nhưng đôi mắt cho thấy dường như cô không nghĩ vậy.
***
Ở quanh xứ Mũi mọi sinh vật đều có cơ chế tự vệ riêng. Thường những thứ di chuyển nhanh, sống nhờ biết cách biến mất thì chẳng hề đáng ngại, chẳng hạn như loài nhông cát, loài vẹt cổ vàng hay chuột túi đuôi chổi. Chỉ thoáng nghe động chúng sẽ biến mất, bằng cách rút lui, lẩn tránh, ngụy trang, bằng những cách riêng. Có những loài chỉ nguy hiểm nếu ta đối mặt với chúng. Rắn hổ, cá mập, nhện bẫy chỉ tấn công để tự vệ khi bị con người đe dọa.
Nhưng đáng sợ nhất vẫn là những loài tĩnh lặng, không bị chú ý, dường như không ai nhận ra cơ chế tự vệ của chúng, cho tới khi đột ngột bị khiêu khích. Chúng không cần biết gì cả. Chỉ cần ăn lá hình tim có độc thì tim sẽ ngừng đập. Những loài như vậy thực ra cũng chỉ muốn tự vệ. Nhưng nếu ta đến gần chúng thì chỉ có Chúa mới cứu nổi. Chỉ khi bị đe dọa, bản năng tự vệ của Isabel mới trỗi dậy.
***
Vernon Knuckey ngồi gõ ngón tay lên bàn trong khi Isabel đang chờ thẩm vấn ở phòng bên cạnh. Làm cảnh sát ở xứ Mũi nói chung cũng khá nhàn. Mỗi tuần giỏi lắm là có một vụ say xỉn ẩu đả, gây rối trật tự. Viên hạ sĩ đã có thể chuyển Perth để dễ bề thăng tiến và có cơ hội chứng kiến nhiều tội ác đen tối hơn, những vết xẹo xấu xí trong đời những kẻ mà Knuckey chẳng xem ra gì. Nhưng ông đã chứng kiến quá đủ trò đời từ chiến tranh, đủ để mà không muốn phải thấy nữa trong suốt phần đời còn lại. Nên giờ đây xử mấy vụ ăn cắp vặt và phạt những tay say xỉn lắm trò cũng đủ rồi. Ngược lại Kenneth Spragg rất nóng lòng thăng tiến, muốn ra thành phố lớn. Nếu anh ta có cơ hội làm vụ này thì tuyệt vời. Rõ là anh ta sẽ xem vụ án như chiếc vé để mà leo cao hơn, để mà chuyển về Perth. Spragg chẳng biết mà cũng chẳng thèm quan tâm đến ai ở xứ Mũi, Knuckey nghĩ thầm: Bill và Violet chẳng hạn, rồi cả hai đứa con trai đã mất. Knuckey nghĩ về những năm tháng ông từng chứng kiến Isabel chỉ là cô bé, với giọng hát ngọt ngào và gương mặt đáng yêu, luôn có mặt trong ca đoàn nhà thờ mỗi dịp Giáng Sinh. Rồi viên cảnh sát lại nghĩ đến ông già Potts, gà trống nuôi hai con gái từ khi vợ mất, đau khổ biết bao khi Hannah lấy chồng. Rồi còn cả Hannah nữa… Mặc dù vẻ ngoài cũng thường, nhưng là người rất trí tuệ, và tử tế. Ông đã luôn nghĩ rằng hẳn Hannah đã loạn trí vì cô cứ tin có ngày con gái sẽ trở về, vậy mà giờ đây…
Knuckey hít một hơi sâu, vặn nắm cửa và bước vào phòng. Ông mở lời với Isabel, ngắn gọn, lịch sự. “Isabel – chị Sherbourne – Tôi phải hỏi chị một vài câu. Tôi biết Tom là chồng chị, nhưng đây là chuyện vô cùng nghiêm trọng.” Ông tháo nắp cây viết, đặt lên tờ giấy. Một đốm mực đen chảy rỉ ra từ ngòi viết, ông nguệch ngoạc mấy đường, đẩy dòng mực thành hàng từ điểm bắt đầu đó.
“Anh ta khai là chị muốn báo cáo về vụ chiếc thuyền dạt nhưng bị anh ta ngăn cản. Có đúng như vậy không?”
Isabel nhìn xuống hai bàn tay.
“Khai tiếp là anh ta hận chuyện chị không sinh con được cho anh ta, nên mới làm như vậy.”
Những lời đó đánh động sâu thẳm bên trong cô. Biết đâu trong lời nói dối, Tom đã để lộ ra sự thật?
“Không phải là khi đó chị cố ngăn cản anh ta hay sao?” Knuckey hỏi tiếp.
Không hề dối trá, cô đáp, “Khi Tom Sherbourne nghĩ rằng việc anh ta làm là đúng thì không cách gì làm anh ta đổi ý cả.”
Knuckey nhẹ nhàng hỏi tiếp, “Anh ta có đe dọa chị không? Có đánh đập chị không?”
Isabel ngừng lại, cơn giận dữ trong đêm thao thức quay về. Cô im lặng như tảng đá.
Knuckey đã quá nhiều lần chứng kiến những người vợ và con cái của mấy tay thợ gỗ, bị hiếp đáp đến mức chỉ biết phục tùng, chỉ cần nhìn thấy bóng dáng chồng hay cha là sợ rúm ró. “Chị sợ anh ta à?”
Hai môi Isabel mím chặt. Không thốt lên lời nào.
Knuckey đặt khủy tay xuống bàn rồi chồm người tới. “Isabel, luật pháp đã quy định rằng người vợ hoàn toàn bất lực khi bị chồng ép buộc. Theo luật, chị không hề phải chịu trách nhiệm nếu bị chồng ép buộc hay ngăn cấm làm điều gì, vậy nên chị không có gì phải lo lắng cả. Chị sẽ không bị trừng phạt vì những tội lỗi của anh ta. Bây giờ tôi muốn hỏi chị một câu, tôi muốn chị suy nghĩ cho thật kỹ. Chị nhớ đó, chị không có lỗi gì nếu khi đó anh ta ép buộc chị.” Knuckey hắng giọng. “Theo như Tom khai thì Frank Roennfeldt đã chết khi chiếc thuyền dạt vào đảo.” Ông nhìn thẳng vào mắt cô. “Có đúng như vậy không?”
Isabel ngạc nhiên. Cô như nghe tiếng mình nói “Đương nhiên là đúng rồi!” nhưng trước khi cô kịp mở miệng, tâm trí cô lại quay về sự phản bội của Tom. Cô thấy choáng váng – cô đã mất Lucy, cô thấy giận dữ, thấy mệt lã. Isabel nhắm hai mắt lại.
Viên cảnh sát lại dò hỏi, nhẹ nhàng, “Có đúng vậy không hả Isabel?”
Cô nhìn chằm chằm vào chiếc nhẫn cưới trên tay, trả lời, “Tôi không có gì để nói cả,” rồi khóc nấc lên.
***
Tom chậm rãi hớp trà, ngắm hơi nước tan vào không khí ấm áp. Nắng chiều chiếu xiên góc qua cửa sổ cao trong căn phòng trống trải. Anh cọ tay vào chiếc cằm lởm chởm, nhớ lại cảm giác khi còn có thể cạo râu, tắm rửa.
“Uống nữa không?” Knuckey điềm đạm hỏi.
“Không, cảm ơn.”
“Anh có hút thuốc không?”
“Không.”
“Vậy ra, một chiếc thuyền bị dạt lên đảo hải đăng. Từ đâu đâu dạt tới.”
“Tôi đã khai hết lúc ở Janus rồi.”
“Tôi muốn thì bao nhiêu lần anh cũng phải khai lại! Vậy là, anh phát hiện ra chiếc thuyền.”
“Vâng.”
“Trong thuyền có một đứa bé.”
“Đúng vậy.”
“Đứa bé lúc đó ra sao?”
“Khỏe mạnh. Khóc thét, nhưng khỏe mạnh.”
Knuckey vừa ghi chép vừa. “Trong thuyền còn có một người đàn ông nữa.”
“Một thi thể.”
“Một người đàn ông,” Knuckey sửa lời Tom.
Tom nhìn ông cảnh sát, cân nhắc cách ông sửa lời mình vừa khai.
“Anh cứ tưởng ở đảo anh là vua muốn làm gì cũng được, có phải vậy không?”
Tom nghĩ về sự oái ăm trong câu nói đó, bất kỳ ai biết về cuộc sống ở trạm hải đăng cũng có thể nhận ra, nhưng anh không trả lời. Knuckey tiếp tục, “Anh cứ nghĩ anh muốn làm gì cũng được, đúng không. Chung quanh không có ai cả mà.”
“Chẳng liên quan gì ở đây.”
“Vậy là anh quyết định giữ đứa bé ở lại. Isabel đã mất con. Chẳng ai có thể biết được. Có phải vậy không?”
“Tôi đã nói với ông rồi: chính tôi quyết định giữ đứa bé ở lại. Tôi bắt Isabel làm theo ý mình.”
“Anh hay đánh đập vợ lắm phải không?”
Tom nhìn viên cảnh sát. “Ông nghĩ vậy sao?”
“Có phải vì vậy mà cô ấy bị sảy thai không?”
Gương mặt Tom bàng hoàng. “Cô ấy khai như vậy sao?”
Knuckey im lặng, Tom hít một hơi sâu. “Tôi đã khai hết mọi chuyện. Cô ấy đã cố cản tôi. Ông muốn kết tội tôi ra sao cũng được, vậy nên làm luôn đi, đừng động tới vợ tôi nữa.”
“Anh đừng có mà dạy tôi phải làm gì,” Knuckey gằn giọng. “Tôi không phải là thuộc cấp của anh. Khi nào muốn thì tôi sẽ làm.” Viên cảnh sát đẩy ghế ra khỏi bàn, khoanh tay lại. “Người đàn ông trong thuyền…”
“Chuyện gì kia?”
“Lúc anh tìm thấy anh ta thì anh ta ra sao?”
“Anh ta đã chết rồi.”
“Anh có chắc không?”
“Tôi lạ gì xác chết nữa.”
“Tại sao tôi nên tin lời anh?”
“Tại sao tôi phải nói dối?”
Knuckey dừng lại, để câu hỏi lơ lửng trong không khí, để kẻ phạm tội thấy hết được sức nặng của câu trả lời đang đè lên anh ta. Tom trở người trên ghế. “Đúng vậy,” Knuckey tiếp. “Tại sao anh phải nói dối?”
“Vợ tôi sẽ nói cho ông biết rằng anh ta đã chết khi chiếc thuyền dạt vào đảo.”
“Cũng chính là người vợ đã bị anh ép phải nói dối?”
“Nhưng ở đây là hai chuyện khác hoàn toàn, giữ nuôi một đứa bé và...”
“Giết người?” Knuckey cắt ngang.
“Cứ hỏi cô ấy đi.”
“Tôi đã hỏi rồi,” Knuckey khẽ đáp.
“Vậy thì ông đã rõ là anh ta chết rồi.”
“Tôi chẳng rõ gì cả. Cô ấy không muốn nói gì đến chuyện đó cả.”
Tom thấy như có tay búa vừa giáng xuống ngực mình. Anh tránh ánh mắt của Knuckey. “Cô ấy đã nói gì?”
“Nói là cô ấy chẳng có gì để nói cả.”
Tom gục đầu. “Lạy Chúa tôi,” anh lẩm bẩm trong miệng, trước khi đáp trả, “Tôi chỉ có thể khai những việc đã khai rồi. Tôi chưa bao giờ thấy anh ta còn sống cả.” Anh đan ngón tay vào nhau. “Nếu ông để tôi gặp cô ấy, nói chuyện với cô ấy…”
“Không có chuyện đó đâu. Ngoài chuyện anh không được phép thì tôi thấy cô ấy không hề muốn gặp lại anh.”
***
Thủy ngân. Thứ chất lỏng thú vị, nhưng không thể đoán trước được. Chất lỏng đó có thể chịu được cả tấn thủy tinh trong ngọn đèn nhưng chỉ cần chạm tay vào một giọt thôi thì thủy ngân đã chạy ra xa nhiều hướng. Tom cứ liên tưởng đến hình ảnh đó khi ngồi nghĩ về Isabel sau cuộc thẩm vấn với Knuckey. Anh nhớ lại lần sảy thai lần cuối cùng, lúc đó anh cố an ủi cô.
“Tụi mình sẽ không sao mà. Nếu chỉ có tôi với mình trong suốt quãng đời còn lại tôi cũng thấy đủ rồi.”
Đôi mắt cô mở ra nhìn anh, biểu cảm trên gương mặt cô khiến anh thấy lạnh sống lưng. Một nỗi tuyệt vọng. Cô đã bị đánh gục.
Anh tiến đến gần chạm vào cô, nhưng cô quay đi. “Rồi mình sẽ khỏe lại. Mọi thứ sẽ tốt lên. Chỉ cần có thời gian.”
Đột nhiên cô đứng phắt dậy, chạy ào ra cửa, sững người lại vì đau đớn, rồi tập tễnh bước vào màn đêm.
“Izzy! Thôi mà, dừng lại đi. Mình sẽ tự làm mình đau đớn thêm!”
“Đau thì đã là gì!”
Mặt trăng treo lơ lửng trên nền trời đêm lặng gió, ấm áp. Chiếc áo ngủ trắng dài mà Isabel từng mặc trong đêm tân hôn bốn năm trước nổi bật trong màn đêm, phập phòng như một chiếc lồng đèn giấy khi cô đứng đó, chỉ là chấm trắng nhỏ trong màn đêm. “Tôi không chịu được nữa!” cô hét lên, giọng lớn và đanh thép đến nỗi bầy dê đang ngủ cũng giật mình, bắt đầu di chuyển, chuông reo leng keng. “Con không chịu được nữa rồi! Chúa ơi, tại sao Người để con sống khi con của con phải chết? Cứ để con chết đi thì hơn!” Cô loạng choạng đi về phía vách núi.
Anh chạy về phía cô, ôm lấy cô trong vòng tay. “Bình tĩnh mà Izzy.” Nhưng cô vùng ra rồi chạy tiếp, chân khập khiễng, cơn đau lại bùng phát.
“Anh đừng có nói tôi phải bình tĩnh, anh là đồ tồi! Là do anh cả. Tôi hận cái nơi này! Tôi hận anh! Tôi chỉ muốn có con tôi thôi!” Ánh đèn quét một vệt đằng xa, để Isabel đứng trọn trong bóng tối.
“Anh không muốn có con! Vậy nên nó mới chết. Nó cũng biết là anh chẳng cần gì nó!”
“Thôi mà Izz. Đi về nhà đi.”
“Anh chẳng có cảm xúc gì cả, Tom Sherbourne à! Tôi không biết anh làm gì với trái tim của mình nhưng rõ là nó không có ở trong ngực anh, chắc là vậy rồi!”
Sức chịu đựng của con người có giới hạn. Anh đã thấy quá nhiều lần. Những người lính trẻ đầy nhiệt huyết, sẵn sàng dạy cho bọn Đức một bài học, sống sót qua trận bom, qua tuyết đổ, qua bao cháy rận và sình lầy, đôi khi là hằng năm trời. Thế rồi dường như thẳm sâu trong họ điều gì đó tắt phụt, biến mất, mãi không thể chạm đến. Đôi khi họ trở mặt với chính đồng đội, xông vào nhau bằng lưỡi lê, rồi cười điên dại, rồi lại bật khóc. Lạy Chúa, anh nhớ lại tâm trạng chính mình khi cuộc chiến chỉ vừa kết thúc...
Anh là ai mà dám phán xét Isabel? Cô ấy đã hết sức chịu đựng, chỉ có vậy thôi. Ai cũng vậy cả. Ai cũng thế. Khi tách Isabel khỏi Lucy, anh đã đẩy cô đến bờ vực.
***
Khuya hôm đó, Septimus tháo đôi giầy, lóng ngóng cho chân vào tất len mịn. Ông khẽ rên rỉ, tấm lưng già rã rời. Ông ngồi một bên chiếc giường bằng gỗ bạch đàn nguyên khối, đốn từ khu rừng riêng. Âm thanh duy nhất trong căn phòng rộng thênh thang là tiếng tích tắc từ chiếc đồng hồ quả lắc đặt trên bàn ở đầu giường. Ông thở dài, nhìn những vật đẹp đẽ quanh mình – tấm ra giường được gột hồ thẳng thớm, bàn ghế sáng bóng, bức chân dung Ellen người vợ quá cố đặt dưới ánh đèn ngủ, chụp đèn làm bằng thủy tinh đục màu hồng. Hình ảnh đứa cháu ngoại đau đớn, sợ sệt buổi chiều hôm đó hãy còn sống động trước mắt ông: Grace, đứa bé mà ai cũng tin là đã chết. Chỉ trừ có Hannah. Cuộc đời. Ai mà biết được đời sẽ ra sao?
Sau khi Ellen qua đời, ông không thể hình dung được có ngày sẽ lại phải chứng kiến lại sự bấn loạn và nỗi tuyệt vọng của đứa trẻ lạc mẹ, cho đến khi thấy đứa cháu gái trong vườn. Ngay lúc này ông vừa tưởng đã thấy đủ trò đời thì cuộc đời lại xoay chuyển, như một lá bài nghiệt ngã. Ông hiểu đứa nhỏ đang phải chịu chuyện gì. Chút ngờ vực len lỏi vào góc tâm trí Septimus. Có lẽ... có lẽ... thật tàn nhẫn khi tách nó khỏi cô Sherbourne đó...
Ông nhìn lại chân dung Ellen. Grace cũng có khuôn miệng như vậy. Biết đâu nó sẽ lớn lên, xinh đẹp như bà ngoại. Ông miên man nghĩ đến những mùa Giáng Sinh, những buổi sinh nhật sắp tới. Một gia đình hạnh phúc, ông chỉ muốn vậy. Ông nghĩ đến gương mặt đau khổ của Hannah, dằn vặt khi nghĩ đến cũng gương mặt đó, lúc ông cố ngăn cản cô lấy Frank.
Không. Đây mới là nhà của đứa bé, mới là gia đình thực sự của nó. Nó sẽ có được những thứ tốt đẹp nhất. Rồi nó sẽ quen với gia đình thực sự và người mẹ ruột thịt. Nếu Hannah có thể kiên nhẫn chịu đựng, chờ đợi...
Ông thấy mắt mình rớm ướt, rồi cơn giận tràn về. Ai đó phải trả giá. Ai đó phải nếm những đau khổ mà con gái ông từng gánh chịu. Làm sao có thể bắt gặp một đứa bé nhỏ như vậy mà đang tâm giữ lại, như người ta giữ một mẫu gỗ dạt làm kỷ niệm?
Ông xua đuổi những ngờ vực đang len đến. Ông không thể thay đổi quá khứ, thay đổi những năm tháng ông không thừa nhận sự tồn tại của Frank, nhưng giờ đây ông có thể đền bù cho Hannah. Sherbourne phải bị trừng phạt. Ông sẽ không để cho anh ta thoát tội.
Septimus tắt đèn, ngắm ánh trăng phản chiếu lấp lánh trên chiếc khung bạc lồng ảnh Ellen. Rồi ông cố xua đuổi những suy nghĩ về nhà Graysmark, không biết giờ đây họ đang cảm thấy ra sao.
Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương -  M. L. Stedman Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương