Nếu bạn cứ chằm chằm nhìn vào mặt xấu của một ai đó sẽ làm anh ta càng trở nên tồi tệ hơn. Nhưng nếu khuyến khích anh ta vươn tới những điều hay mà anh ta có thể, chắc chắn anh ta sẽ làm được.

Johann Goethe

 
 
 
 
 
Tác giả: Knut Hamsun
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: Markens Grøde
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1219 / 19
Cập nhật: 2017-04-18 13:32:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương IV
hững đoàn ngựa tiến lên qua những truông hoang, chở những ngôi nhà cho các cư dân mới ở vùng hoang dã; hết chuyến này sang chuyến khác, suốt nhiều ngày cho tới khi kết thúc. Bốc dở mọi thứ xuống trên một mảnh đất sẽ được gọi là Storborg; sẽ có lúc nó phải trả lời cho cái tên của nó, không còn ngờ gì nữa. Có bốn người đang thu gom đá trên đồi, để làm một bức tường và hai hầm chứa.
Chở thêm đồ, thêm nữa. Các bức vách của ngôi nhà đã được làm sẵn trước đó, chỉ cần dựng chúng lên khi mùa xuân tới; mọi thứ đều được tính toán gọn gàng chính xác trước cả, mỗi mảnh đều được đánh số, không thiếu một cánh cửa cái, cửa sổ nào, cả những tấm kính màu ở mái hiên. Và một hôm, một cỗ xe lên tới, chở đầy những cọc nhỏ. Để làm gì? Một trong những cư dân miền hạ có thể bảo cho họ biết; anh ta đến từ miền nam, và đã nhìn thấy cuộc sống này trước đó. “Chúng dành cho một khu vườn có hàng rào,” anh ta bảo. Vậy là người mới tới này sẽ có một khu vườn nằm giữa chốn hoang vu. Một khu vườn lớn.
Mọi thứ có vẻ tuyệt vời; trong vùng truông hoang trảng trống này chưa bao giờ có những chuyến ngựa xe đi lại dập dìu nhộn nhịp đến thế, và nhiều người đã kiếm bộn tiền nhờ vào việc cho thuê ngựa. Đây cũng là một vấn đề để bàn hươu tán vượn. Có triển vọng làm ra tiền trong tương lai; tay nhà buôn này sẽ mua hàng từ nhiều vùng khác; trong nội địa hay từ hải ngoại, chúng sẽ được những đàn ngựa thồ lên từ mé biển.
Phải, trông như thể mọi thứ sẽ mang một tầm vóc lớn lao hơn. Có một tay đốc công hay quản lý trẻ phụ trách việc chuyên chở; một thanh niên sắc sảo, hách dịch; hắn càu nhàu khi không có đủ ngựa, dù sắp tới không còn nhiều chuyến thồ cho lắm.
“Nhưng giờ đâu có còn chi nhiều để chở chứ, khi những căn nhà đã dựng lên,” họ bảo.
“Thế à, còn hàng hóa thì sao?” Hắn đáp.
Sivert ở trại Sellanraa đánh ngựa lóc cóc ngang qua đó trên đường về, xe trống rỗng như mọi khi, và tay đốc công cất tiếng gọi cậu: “Xin chào, anh đi lên xe trống để làm gì? Sao không chở giùm chúng tôi một chuyến?”
“Sao, có thể,” Sivert nói. “Nhưng tôi không biết gì về chuyện này.”
“Cậu ta ở Sellanraa; ở đó họ có hai con ngựa,” có ai đó xì xào.
“Cái gì? Anh có hai con ngựa à?” Tay đốc công nói. “Vậy mang chúng xuống đây, cả đôi, để chở giúp đồ đạc ở đây. Chúng tôi sẽ trả khá cho anh.”
“Chà,” Sivert nói, “chuyện đó không tệ lắm, dám nói thế. Nhưng lúc này chúng tôi đang bận bịu, không có thời gian.”
“Sao? Không thể dành thời gian để kiếm tiền?” Tay đốc công nói.
Nhưng ở Sellanraa không phải lúc nào người ta cũng có thời gian, có quá nhiều việc phải làm. Họ đã thuê người giúp việc. Lần đầu tiên mới có một việc như thế xảy ra ở Sellanraa: hai người thợ đá đến từ Thụy Điển, để đẽo đá cho một cái chuồng bò mới.
Việc cất một cái chuồng bò đúng nghĩa đã là một ý tưởng lớn của Isak suốt nhiều năm qua. Túp lều cỏ đang nhốt đàn gia súc quá nhỏ, và không thể sửa chữa được nữa; anh cần có một chuồng bò bằng đá với những bức tường đôi và một hầm chứa phân đúng nghĩa bên dưới. Giờ nó sẽ được tiến hành. Nhưng cũng có nhiều việc khác cần thực hiện, bởi việc này luôn kéo theo việc khác; ở bất cứ giá nào, công việc xây dựng dường như không bao giờ kết thúc. Anh đã có một cái máy cưa, một máy xay và một kho chứa cỏ mùa hè cho đàn gia súc; việc có thêm một cái lò rèn cũng là điều hợp lý; quãng đường xuống làng quá xa khi có một cái búa tạ bị vênh lưỡi hoặc một cái móng ngựa cần chữa lại. Chỉ đủ để xoay xở, thế thôi. Tại sao anh lại không làm chứ? Tính tất cả, có khá nhiều căn nhà phụ lớn bé ở Sellanraa.
Trang trại đang ngày càng phình to lên, một nơi khá lớn lao đồ sộ. Hiện giờ không thể xoay xở mà không có một cô giúp việc, và Jensine đã ở lại. Ông thợ rèn cha cô thỉnh thoảng lại hỏi thăm chừng nào cô sẽ về nhà; nhưng ông không đặt nặng vấn đề cho lắm, một con người dễ chịu, và có lẽ cũng có những lý do riêng để cho phép cô ở lại. Và trang trại Sellanraa, xa xôi nhất trong những khu cư ngụ mới, cứ ngày càng to lớn thêm lên; trang trại, nghĩa là những ngôi nhà và mảnh đất. Chỉ có những cư dân thì vẫn như cũ. Cái thời mà một tay người Lapp lang thang có thể tới nhà và nhận tất cả những thứ họ hỏi xin đã qua rồi; giờ họ hiếm khi tới đó, dường như thích đi vòng ra xa và ở bên ngoài tầm mắt hơn; không còn thấy một tay nào vào trong nhà nữa, nếu có tới, họ cũng chỉ đứng chờ bên ngoài. Những người Lapp luôn gắn bó với những mảnh đất xa xôi hẻo lánh, trong những nơi tăm tối; ánh sáng và không khí khiến họ khó chịu, họ không thể phát đạt; họ không khác gì những loài giòi bọ. Thỉnh thoảng một con bê hoặc một con cừu non biến mất không chút tăm hơi ở mé ngoài trại Sellanraa, chỗ rìa xa nhất của mảnh đất. Không thể ngăn được điều đó. Và Sellanraa có thể chịu được tổn thất đó. Ngay cả khi Sivert có thể bắn, cậu cũng không có súng, và dù sao thì cậu cũng không thể bắn; một chàng trai tốt bụng, không có chút máu hiếu chiến nào; một tay thích đùa cợt bẩm sinh: “Và, dù sao, tôi ngờ là có một đạo luật ngăn cấm việc bắn những người Lapp,” cậu nói.
Phải, Sellanraa có thể chịu được việc thỉnh thoảng mất mát một đầu gia súc; nó đứng đó, lớn và mạnh. Nhưng không phải không có những rắc rối. Inger không hoàn toàn hài lòng với bản thân và cuộc sống tẻ nhạt quanh năm, không; nàng đã từng có một chuyến đi tới một nơi xa, và dường như nó đã để lại trong nàng một nỗi bất mãn khó chịu. Nó có thể biến mất một thời gian, nhưng rồi luôn luôn trở lại. Nàng vẫn thông minh và cần mẫn như trong những ngày tươi đẹp nhất của nàng, một người vợ xinh đẹp, mạnh khỏe đối với một người đàn ông vạm vỡ. Nhưng lẽ nào nàng không còn nhớ gì tới Trondhjem; lẽ nào nàng không hề mơ tưởng? Có, nhất là vào mùa đông. Đôi khi nàng thấy hưng phấn và tràn trề nhựa sống, và mong muốn nhiều vô hạn. Nhưng một người đàn bà không thể khiêu vũ một mình, vì thế không có cuộc khiêu vũ nào ở Sellanraa cả. Những ý nghĩ nặng nề và những quyển kinh cầu nguyện? Ờ, có… Nhưng có một điều gì đó, trời đất biết, ở một loại đời sống khác, một điều gì đó tuyệt diệu và độc nhất vô song. Nàng đã học được cách tạm chấp nhận những điều bé nhỏ; dù sao thì hai người thợ đá Thụy Điển cũng mang tới một điều gì đó; những gương mặt lạ và những giọng nói mới mẻ trong trang trại, nhưng họ là những người đàn ông lớn tuổi, trầm lặng, thích làm việc hơn chơi đùa. Tuy nhiên, có còn hơn không. Và một trong hai người hát rất êm tai khi đang làm việc; thỉnh thoảng Inger dừng lại để lắng nghe. Tên anh ta là Hjalmar.
Và đó chưa phải là tất cả mọi phiền toái ở Sellanraa. Chẳng hạn, còn có Eleseus nữa – đang thất vọng ngoài thị trấn. Cậu viết thư bảo rằng vị trí của cậu trong văn phòng của viên kỹ sư không còn nữa, nhưng cậu sẽ tìm được một công việc khác, chỉ phải chờ. Rồi một lá thư khác đến; cậu đang chờ một sự xoay chuyển tình hình rất chóng váng, một chức vụ hàng đầu; nhưng đồng thời cậu không thể sống bằng không khí, và khi họ gửi cho cậu một trăm Kroner, cậu viết thư bảo rằng nó chỉ vừa đủ để thanh toán một số món nợ nhỏ… “Ừm,” Isak nói. “Nhưng chúng ta còn phải trả tiền cho hai người thợ đá, và nhiều thứ khác… hãy viết thư hỏi xem nó có muốn trở về nhà và giúp một tay không.”
Và Inger viết, nhưng Eleseus không hề nghĩ tới chuyện quay về nhà; không, chẳng có nghĩa lý gì trong việc thực hiện một chuyến đi khác mà không có mục đích gì; thà cậu chết đói còn hơn.
Chà, có lẽ chẳng có một chỗ trống nào cho chức vị hàng đầu ở thành phố, và có lẽ Eleseus không đủ sắc bén như một lưỡi dao cạo để tiến thân. Có Trời mới biết. Có lẽ cậu cũng không xuất sắc lắm trong công việc. Viết lách ư? Phải cậu có thể viết khá tốt, và nhanh nhẹn, chuyên cần, nhưng có thể vẫn thiếu một cái gì đó cho công việc. Và nếu thế, chuyện gì sẽ xảy ra với cậu đây?
Khi cậu rời nhà tới đó với hai trăm Kroner, thành phố đang chờ đón cậu với những món nợ cũ, và khi đã trả xong những món đó, vâng, cậu phải có một cây gậy đàng hoàng chứ không phải một cái cán dù. Còn có nhiều thứ nhỏ nhặt nhưng hợp lý khác nữa: một cái mũ lông cho mùa đông, như tất cả những đồng bạn của cậu, một đôi ván trượt để đi trên băng như mọi người khác, một cái tăm xỉa răng bằng bạc, thứ mà người ta dùng để làm sạch hàm răng và cầm nghịch một cách quý phái khi chuyện gẫu với bạn bè trong một cuộc chè chén này khác. Và chừng nào còn tiền, cậu vẫn còn xử sự rất phong lưu; trong một buổi dạ tiệc để ăn mừng việc quay lại thị trấn, cậu kêu nửa chục bia, và khui chúng một cách thoải mái, hết chai này sang chai khác. “Sao, hai mươi hào cho người hầu bàn ư?” Bạn cậu nói; “Mười hào là đủ rồi.”
“Đừng có bủn xỉn thế,” Eleseus nói.
Eleseus không hề keo kiệt hay bủn xỉn, không; cậu xuất thân từ một gia đình khấm khá, một trang trại lớn, nơi vị Bá tước cha cậu sở hữu vô số gỗ rừng, bốn con ngựa, ba mươi con bò và ba cỗ máy cắt cỏ. Eleseus không phải là một tên nói dóc, và không phải cậu là người đã gieo rắc đủ mọi chuyện không tưởng về thái ấp Sellanraa; mà chính là viên thanh tra huyện, kẻ tự mua vui cho mình khi thêu dệt về nó trước đây một dạo. Nhưng không phải Eleseus không hài lòng khi thấy những câu chuyện đó cũng có ít nhiều sự thật. Vì bản thân cậu chẳng là gì cả, tốt nhất cậu nên là con trai của một ai đó có chút danh giá; điều này đem lại cho cậu uy tín, và khá hữu ích theo cách đó. Nhưng nó không thể kéo dài mãi mãi; cái ngày đó đã tới khi cậu không còn trì hoãn được việc trả nợ, và khi đó cậu làm gì? Một trong số các bạn cậu tới giúp, đưa cậu vào làm ở chỗ cha anh ta, một cửa hiệu tạp hóa nơi những người nông dân mua các thứ cần dùng. Có còn hơn không. Thật khốn khổ cho một chàng thanh niên chớm tuổi trưởng thành khi phải bắt đầu với mức lương tập sự trong một cửa tiệm nhỏ bé; không có con đường tắt nào đi tới chức vụ Lensmand; tuy nhiên, nó cũng đủ cho cậu sống, giúp cậu vượt qua tình cảnh tồi tệ nhất. Vâng, nói cho cùng, việc này cũng không tệ lắm. Eleseus cũng sẵn lòng và thấy dễ chịu ở đó, và mọi người mến cậu; cậu viết thư về nhà bảo rằng cậu đang tập tành buôn bán.
Đây là thất vọng lớn nhất của mẹ cậu. Eleseus đang phục vụ trong một tiệm tạp hóa, chẳng khá hơn chút nào so với việc phụ bán hàng tại một tiệm nhỏ trong làng. Dạo trước cậu từng có cái gì đó cách biệt, khác với những người còn lại; chưa có ai trong số hàng xóm láng giềng của họ ra thị trấn sống và làm việc trong một văn phòng. Chẳng lẽ cậu đã để lạc mất mục tiêu lớn của mình? Inger không ngu ngốc; nàng biết khá rõ có sự khác biệt giữa người bình thường và người khác thường, dù có lẽ không phải lúc nào nàng cũng suy ngẫm về điều đó. Isak đơn giản hơn và suy nghĩ chậm hơn; hiện giờ anh ngày càng ít nghĩ tới Eleseus, nếu như có ngồi ngẫm nghĩ; đứa con trai cả của anh đã dần dần trượt ra khỏi tầm tay. Isak không còn nghĩ tới việc phân chia Sellanraa giữa hai đứa con trai khi anh xuôi tay nhắm mắt.
***
Vào đầu mùa xuân, những viên kỹ sư và công nhân đến từ Thụy Điển; làm đường, dựng lều trại, làm nhiều việc khác nhau, nổ mìn, san lấp mặt bằng, nhận thực phẩm tiếp tế, thuê ngựa, thương lượng với những người chủ đất về mép nước; tất cả những chuyện này là gì vậy? Đây là chốn hoang vu, nơi không ai lui tới trừ những cư dân tại chỗ. À, họ sắp khởi sự khai thác cái mỏ đồng đó, chỉ thế thôi.
Vậy là rốt cuộc việc này cũng đã diễn ra; Geissler không hề nói khoác.
Đây không phải là những nhân vật quan trọng đã tới cùng ông lần đó. Không. Hai người bọn họ ở lại phía sau, bận bịu làm ăn đâu đó, chắc chắn là vậy. Nhưng có viên kỹ sư cũ, và tay chuyên gia mỏ đã tới hồi đầu. Họ mua lại tất cả những tấm ván thừa của Isak, mua thức ăn, và trả giá cao cho mọi thứ, trò chuyện một cách tử tế và tỏ ra hài lòng với trại Sellanraa. “Xe trượt trên không,” họ bảo. “Kéo cáp treo từ đỉnh cao nguyên xuống tới mép nước,” họ bảo.
“Sao, xuống chỗ cánh trảng ở đây à?” Isak hỏi, do suy nghĩ chậm chạp. Nhưng họ phá ra cười khi nghe thấy thế.
“Không, ở mé bên kia, anh bạn ạ; không phải mé này, sẽ phải đi nhiều dặm quá. Không, ở mé bên kia cao nguyên, đâm thẳng tới bờ biển; độ dốc tốt và quãng cách không xa lắm. Chở quặng xuyên qua không trung trong những thùng sắt; ồ nó sẽ hoạt động tốt, anh cứ chờ xem. Nhưng thoạt đầu chúng tôi phải chở xuống; làm một con đường, và sẽ chở quặng xuống bằng xe ngựa. Chúng tôi sẽ cần năm mươi con ngựa. Anh thấy đó, chúng tôi sẽ làm ăn tốt đẹp. Và chúng tôi có nhiều nhân công hơn so với số người ở đây. Sẽ có nhiều hơn nữa đến từ mé bên kia, những toán thợ, với lều may sẵn, và những lều kho chứa đồ đạc, dụng cụ các thứ, rồi chúng tôi sẽ gặp họ và hợp nhất với họ ở giữa đường, trên đỉnh đồi, anh hiểu không? Chúng tôi sẽ làm cho mọi việc trôi chảy, đừng lo, rồi sẽ chở quặng tới Nam Mỹ. Có thể kiếm ra nhiều triệu đồng từ nó.”
“Thế mấy quý ông lần trước tới đây đâu rồi?” Isak hỏi.
“Sao, à, họ đã bán lại. Anh còn nhớ họ à? Không, họ đã bán lại. Và những người đã mua của họ lại bán đi lần nữa. Hiện giờ chủ của cái mỏ này, chủ của bất cứ khoản tiền nào nằm sau nó, là một công ty lớn.”
“Thế còn Geissler, hiện giờ ông ấy ở đâu?” Isak hỏi.
“Geissler, chưa hề nghe tên ông ta. Ông ta là ai?”
“Lensmand Geissler, người đã bán cho anh chỗ này hồi đầu.”
“Ồ, ra là ông ấy! Ông ta tên là Geissler hả? Có Trời biết giờ ông ta ở đâu. Vậy ra anh cũng nhớ cả ông ta?”
***
Những toán thợ nổ mìn phá đá trên đồi suốt mùa hè. Trong trang trại cũng có nhiều công việc. Inger bận rộn bán sữa và nông sản, và việc này khiến nàng thấy vui. Tập tành kinh doanh buôn bán, có thể nói vậy, và gặp gỡ tất cả những người thợ đến và đi. Isak đi quanh với cái dáng nặng nề của anh và làm việc trên đồng ruộng; không gì có thể quấy nhiễu được anh. Sivert và hai người thợ đá dựng cái chuồng bò mới. Đó là một công trình đẹp đẽ, nhưng mất khá nhiều thời gian để hoàn thành nó, khi chỉ có ba người làm; ngoài ra Sivert còn phải thường xuyên ra giúp việc trên đồng. Lúc này cái máy cắt cỏ thật là hữu dụng; và cũng thật là tốt khi cả ba người phụ nữ xông xáo có thể thay phiên nhau cắt cỏ.
Mọi sự diễn ra tốt đẹp; giờ đã có sự sống giữa chốn hoang vu, và tiền bạc mọc lên, nở hoa khắp chốn.
Và hãy nhìn qua Storborg, trang trại của người thương gia mới tới. Có công việc làm ăn với quy mô tầm cỡ! Cái tay Aron này hẳn phải là một phù thủy, một anh chàng tinh quái; anh ta đã biết trước về những hoạt động khai mỏ sắp diễn ra; và đã có mặt sẵn sàng ngay tại chỗ, với cửa tiệm và kho hàng, để kiếm lợi tối đa. Kinh doanh à? Anh ta kinh doanh đủ cho cả một quốc gia. Phải, đủ cho một ông vua! Trước hết, anh ta bán những thứ đồ dùng gia đình và quần áo phụ nữ; nhưng những người thợ mỏ kiếm được nhiều tiền không ngại tiêu xài; không chỉ vui vẻ mua những thứ cần thiết; họ mua mọi thứ, bất cứ thứ gì. Và trong hầu hết những chiều thứ Bảy, cửa tiệm Storborg đông nghẹt khách. Aron tha hồ hốt bạc; cả người thư ký và vợ anh ta đều được gọi vào để giúp việc sau quầy, và bản thân Aron cũng phục vụ, bán hàng tích cực tối đa. Ngay cả khi đó cửa tiệm vẫn không vắng khách cho tới tận khuya. Và những người chủ ngựa trong làng đã nói đúng; việc chuyên chở hàng hóa lên trại Storborg vẫn liên miên không ngớt; nhiều lần họ phải cắt qua con đường cũ và tạo nên những đường tắt mới. Cuối cùng một con đường mới rộng rãi đã hình thành, rất khác với con đường mòn đầu tiên băng qua truông của Isak. Aron là một người ban phúc và một ân nhân, đúng vậy, với cửa tiệm và con đường mới của anh ta. Tên thật của anh ta không phải là Aron, đó chỉ là tên thánh; nói chính xác, anh ta tên là Aronsen, anh ta tự gọi mình như thế, và vợ anh ta cũng gọi theo anh ta. Họ là một gia đình không thể xem thường, với hai cô hầu gái và một chàng trai giúp việc.
Còn về mảnh đất ở Storborg, cho tới lúc này nó vẫn chưa bị chạm tới. Aronsen không có thì giờ canh tác. Đào xới một cánh đồng cằn cỗi thì có ích gì? Nhưng Aronsen có một khu vườn có hàng rào bao quanh, trồng những bụi lý chua, cúc tây, thanh lương trà và cây ăn quả. Phải, một khu vườn đích thực. Có một con đường mòn rộng dọc khu vườn, nơi Aronsen thả bộ vào những ngày Chủ nhật với tẩu thuốc trên môi, và ở phía sau là hàng hiên của ngôi nhà, với những tấm kính màu cam, đỏ và xanh dương. Storborg… Và có lũ trẻ. Ba đứa bé xinh xắn. Cô bé gái đang học cách đóng vai trò con gái của một thương nhân giàu có, và hai cậu con trai đang học cách buôn bán làm ăn. Phải, ba đứa bé với một tương lai phía trước!
Aronsen là một người biết tính trước chuyện tương lai, không thì anh ta đã chẳng tới đó. Hẳn ta anh có thể gắn bó với cái trại cá của mình, và rất có thể gặp may với công cuộc làm ăn đó và kiếm ra tiền, nhưng nó không giống như chuyện kinh doanh; không có gì tốt hơn thế, một điều tốt nhất đối với những thường dân. Người ta không ngã mũ trước một ngư dân. Trước đó Aronsen từng tự tay kéo những mái chèo trên con thuyền của mình; giờ thì anh ta sẽ lắp buồm cho nó. Có một câu mà anh ta luôn sử dụng: “Ngon lành.” Anh dùng nó trong mọi cách. Khi mọi việc êm xuôi, họ đang “ngon lành”. Con cái của anh sẽ ăn nên làm ra, và thậm chí sẽ sống “ngon lành” hơn cả anh ta. Đó là cách của anh ta, có ý nói rằng chúng phải có một cuộc sống dễ dàng hơn cuộc sống anh từng có.
Và bạn hãy nhìn xem, mọi thứ đều tốt đẹp; hàng xóm láng giềng chú ý tới anh ta, vợ anh ta, và cả lũ trẻ nữa. Việc những người dân chú ý tới lũ trẻ không phải là chuyện bình thường. Những người thợ mỏ rời bỏ công việc trên đồi xuống đó đã không nhìn thấy gương mặt trẻ con suốt nhiều ngày; khi trông thấy mấy đứa nhóc của Aronsen chơi đùa trong sân, họ trò chuyện ngọt ngào với chúng ngay tắp lự, như thể họ bắt gặp ba con búp bê đang nô giỡn. Lẽ ra họ có thể cho chúng tiền, nhưng do chúng là con cái của một nhà buôn nên họ thấy khó làm chuyện đó. Thay vì thế, họ chơi nhạc cho chúng nghe với những chiếc khẩu cầm. Gã trẻ tuổi Gustaf xuống, kẻ hoang đàng nhất trong số họ, với cái mũ úp lệch một bên tai, với đôi môi luôn sẵn sàng thốt lên một câu vui vẻ; vâng, mỗi lần Gustaf tới, gã lại chơi đùa với chúng hồi lâu. Lũ trẻ biết gã tới và chạy ra đón họ; gã nhấc bổng chúng lên và cõng chúng trên vai, cả ba đứa, và nhảy múa với chúng. “Nào!” Gustaf nói và nhảy múa với chúng. Rồi gã móc chiếc khẩu cầm ra và thổi những khúc nhạc dặt dìu, cho tới khi cả hai cô hầu gái bước ra nhìn gã, và lắng nghe, với đôi mắt rưng rưng. Vâng, cái anh chàng Gustaf đó đúng là một tay bạt mạng, nhưng gã biết mình đang làm gì!
Một lúc sau gã sẽ bước vào tiệm để quẳng tiền qua cửa sổ, mua cả một ba lô đầy các thứ. Rồi khi gã lại đi ngược trở lên, trong ba lô chỉ còn một ít thứ đã mua cho chính gã. Và gã sẽ dừng lại ở Sellanraa, mở ba lô ra và khoe với họ. Quyển vở với một đóa hoa bên góc, một cái tẩu hút thuốc mới và một chiếc áo sơ mi mới, cái khăn tay có viền ren, những thứ ngọt ngào đối với các bà các cô, và những vật lấp la lấp lánh, một sợi dây đồng hồ, một cái la bàn, một con dao nhíp. Vâng, cả đống các thứ. Và còn có những viên pháo hoa mà gã mua để phóng lên vào Chủ nhật để mọi người cùng xem. Inger cho gã uống sữa, và gã trêu chọc Leopoldine, bế bổng bé Rebecca lên và quay tròn nó trên không. “Ế, ê!”
“Việc xây dựng tới đâu rồi?” Gã hỏi hai người Thụy Điển. Bản thân Gustaf cũng là người Thụy Điển, và gã đã kết bạn với họ. Việc xây cất đang tiến triển tốt hết mức cho phép, nhưng chỉ có mấy người bọn họ làm việc. Sao chứ, gã sẽ tới giúp họ một tay, Gustaf sẽ giúp, dù đó chỉ là một câu đùa.
“Phải, giá như anh có thể,” Inger nói. Vì cái chuồng phải xong trước mùa thu, lúc súc vật cần được nhốt vào chuồng.
Gustaf đốt một viên pháo hoa, và khi đã đốt một viên rồi, chả có lý do gì để giữ số còn lại. Cả chúng cũng nên lên đường. Và gã làm như thế, tất cả là nửa tá pháo hoa, đám phụ nữ và trẻ con đứng vòng quanh, nín thở trước phép thuật của nhà phù thủy; Inger chưa hề nhìn thấy một viên pháo hoa nào trước đó, nhưng ánh lửa rực rỡ của nó nhắc cho nàng nhớ tới cái thế giới lớn lao mà nàng từng nhìn thấy. Một cái máy may thì có nghĩa lý gì với thứ này? Và khi Gustaf thổi khẩu cầm xong, Inger sẽ thả bộ trên đường với gã, hoàn toàn chỉ vì cảm xúc…
Lúc này cái mỏ đã hoạt động, và quặng được chở xuống bờ biển bởi những đoàn ngựa thồ; một chiếc tàu hơi nước đã chất đầy trọng tải giương buồm ra khơi tới Nam Mỹ, và một chiếc tàu khác đã chờ sẵn cho chuyến hàng kế tiếp. Phải, đây là một thương vụ lớn. Tất cả cư dân đều lên đó để tham quan khu mỏ diệu kỳ. Brede Olsen đã lên đó với những mẫu quặng của y, và chẳng nhận được gì để bù đắp cho những đau đớn khi thấy rằng tay chuyên gia mỏ đã quay trở lại Thụy Điển. Vào những ngày Chủ nhật, có rất nhiều người từ dưới làng kéo lên; phải, ngay cả Axel Ström, người không có thời gian để phung phí, cũng ngoặt qua từ con đường chính dọc theo tuyến đường dây để đến xem khu mỏ. Hầu như bây giờ không còn ai chưa nhìn thấy khu mỏ và sự diệu kỳ của nó. Và cuối cùng chính Inger, nàng Inger ở trại Sellanraa, cũng mặc vào người bộ áo quần đẹp nhất, đeo nhẫn vàng các thứ, rồi đi ngược lên đồi. Nàng muốn gì ở đó?
Chẳng có gì, thậm chí nàng không màng nhìn xem công việc được thực hiện thế nào. Inger lên đó để tự khoe mình, chỉ thế thôi. Khi nhìn thấy mấy phụ nữ khác lên đó, nàng cảm thấy nàng cũng phải lên. Nàng có một vết sẹo méo mó ở môi trên, và con cái nàng đã lớn, nhưng nàng phải lên đó như bao nhiêu người khác. Nàng khó chịu khi nghĩ tới những người đó, những phụ nữ trẻ trung… nhưng nàng sẽ thử xem nàng có cạnh tranh nổi với họ không. Nàng chưa bắt đầu béo ra mà vẫn còn giữ được một thân hình khá ổn, cao và duyên dáng; trông nàng vẫn còn xuân sắc. Đúng, nước da nàng không còn như trước và không thể sánh với một quả đào chín mọng. Phải, nhưng nói cho cùng, họ sẽ thấy, sẽ bảo rằng nàng khá là xinh đẹp!
Họ chào đón tử tế như nàng mong muốn; những người thợ biết nàng, nàng đã nhiều lần cho họ uống sữa, và họ chỉ cho nàng xem khu mỏ, những căn lều, những chuồng ngựa và nhà bếp, những hầm và kho chứa; mấy tay bạo dạn hơn đi sát vào nàng và nắm nhẹ cánh tay nàng, nhưng Inger không hề cảm thấy tổn thương chút xíu nào, việc này khiến nàng thấy dễ chịu. Và ở những nơi có bậc thang lên xuống, nàng kéo cao váy, khoe đôi chân chút đỉnh; nhưng nàng tiến hành việc này một cách lặng thầm, như không hề có ý nghĩ nào về nó. Vâng, nàng khá là xinh đẹp, những gã đàn ông thầm nghĩ.
Ồ, nhưng ở nàng có cái gì đó gây xúc động, người phụ nữ đã già đi theo năm tháng này; có thể thấy rõ rằng một cái liếc mắt từ một trong số những tay thợ tràn đầy máu nóng là một điều rất bất ngờ đối với nàng; nàng thấy biết ơn về điều đó, và đáp lại; nàng là một người đàn bà như những người đàn bà khác, và nàng phấn chấn khi cảm thấy như vậy. Nàng từng là một phụ nữ trung thực, nhưng rất có khả năng đó là do thiếu cơ hội.
Đã già đi theo năm tháng…
Gustaf lên tới. Bỏ lại hai cô gái đến từ dưới làng và một người bạn đồng hành, chỉ để lên đó. Không còn ngờ gì nữa, Gustaf biết gã muốn gì; gã nắm bàn tay của Inger với nhiều nhiệt tình, nhiều sức ép hơn mức cần thiết, và cám ơn nàng về buổi tối thú vị vừa qua ở Sellanraa, nhưng gã cẩn thận không làm phiền nàng bằng cách gây chú ý.
“Nè Gustaf, chừng nào anh mới tới giúp chúng tôi xây cất đây?” Inger hỏi, mặt đỏ lên. Và Gustaf bảo chắc chắn gã sẽ tới sớm thôi. Người đồng bạn của gã nghe thấy, và nói xen vào rằng chẳng bao lâu nữa họ sẽ xuống đó.
“Vậy à!” Inger nói. “Vậy là các anh không ở lại khu mỏ vào mùa đông tới sao?”
Hai người đàn ông trả lời một cách cảnh giác, rằng không có khả năng đó, nhưng không thể nói chắc. Nhưng Gustaf táo tợn hơn, cười to và nói rằng có khả năng họ đã vét hết số đồng tại mỏ.
“Anh không nói nghiêm chỉnh đấy chứ?” Inger hỏi. Có những người khác bu quanh, và tốt hơn Gustaf nên cẩn thận không nói tới bất kỳ những điều gì như thế.
Nhưng Gustaf không hề cẩn thận; gã nói thêm nhiều điều; về phần Inger, thật lạ lùng khi không biết gã đã làm cách nào để chiếm được trái tim nàng; vì gã không bao giờ tán tỉnh ra mặt. Một trong số mấy gã thanh niên chơi một khúc phong cầm, nhưng nó không giống như tiếng khẩu cầm của Gustaf, lại có một gã khác, và hắn là một tay láu lỉnh, cố thu hút sự chú ý bằng cách hát một bài ca ngẫu hứng theo giai điệu nhạc, nhưng cả chiêu này cũng chẳng làm nên trò trống gì, mặc dù gã có một giọng hát to khỏe. Sau đó giây lát tới lượt Gustaf, và gã đã tước khỏi ngón tay bé nhỏ của Inger chiếc nhẫn vàng của nàng! Và làm thế nào mà chuyện lại xảy ra như thế, khi gã không hề quấy nhiễu hoặc tấn công ve vãn? Ồ, gã cũng tấn công đấy chứ, nhưng theo cách riêng của gã, một cách lặng thầm, như chính bản thân Inger; họ không nói chuyện, nhưng nàng để cho gã nghịch với bàn tay của mình như không hề để ý. Sau đó, khi nàng ngồi trong một túp lều uống cà phê, có tiếng ồn ào bên ngoài, những lời cao giọng giữa mấy gã đàn ông, và nàng biết tất cả đều nói về nàng, điều đó khiến nàng thấy ấm lòng. Thật thú vị khi một người không còn trẻ nữa, một người đã già đi theo năm tháng, nghe thấy nó.
Và nàng đã trở về nhà như thế nào từ trên đồi vào cái đêm Chủ nhật ấy? Chà, khá ngoan hiền, đoan chính như lúc nàng ra đi, không hơn không kém. Cả một đám đông tiễn nàng trở về nhà, họ sẽ không quay lưng lại chừng nào Gustaf còn ở đó; sẽ không thể để mặc nàng một mình với gã, nếu như họ biết có chuyện gì! Inger chưa bao giờ có một buổi chiều vui vẻ đến thế, ngay cả trong những ngày nàng sống ở thế giới bên ngoài.
“Inger có đánh mất thứ gì không?” Cuối cùng họ hỏi.
“Đánh mất thứ gì? Không.”
“Một chiếc nhẫn vàng chẳng hạn?”
Tới đó thì Gustaf phải đưa nó ra; gã là kẻ duy nhất chọi lại tất cả, cả một đoàn quân.
“Ồ, thật may khi anh tìm thấy nó,” Inger nói, và vội vàng chào từ giã những người hộ tống nàng. Nàng đã xuống gần tới Sellanraa, đã thấy những mái nhà; nhà nàng nằm ở đó. Và một lần nữa nàng thức tỉnh, trở lại là chính nàng, một người vợ thông minh. Nàng cắt một đường tắt tới cái kho chứa cỏ mùa hè để thăm qua đàn gia súc. Trên đường, nàng đi ngang qua nơi mà nàng biết rõ: có một đứa bé từng được chôn ở đó; nàng đã dùng tay nện đất và dựng lên một cây thập giá nhỏ. Vâng, nhưng chuyện đó đã qua lâu rồi. Lúc này, nàng tự hỏi không biết mấy đứa con gái có vắt xong sữa đúng giờ chăng…
Công việc ở khu mỏ vẫn diễn tiến, nhưng có lời xì xầm về một điều không ổn, sản lượng không cao như hứa hẹn. Tay chuyên gia mỏ đã quay về quê và trở lại cùng một chuyên gia khác phụ giúp anh ta. Họ đánh mìn, khoan lỗ và thăm dò khắp mảnh đất. Có gì không ổn? Chất lượng đồng khá tốt, chẳng có gì không ổn về chuyện đó, nhưng mạch quặng mỏng, và không sâu lắm; nó trở nên dày hơn về phía nam, nằm sâu hơn ngay tại mé ngoài ranh giới sở hữu của công ty, và bên ngoài ranh giới đó là vùng Almenning, tài sản của Nhà nước. Phải, dù sao thì có lẽ những người mua lại đất đầu tiên đã không nghĩ nhiều cho lắm về điều này. Đó là một thương vụ trong nhà, một người họ hàng nào đó đã mua mảnh đất như một cách đầu cơ; họ không bận lòng tới việc mua trọn cả mạch quặng, tất cả nhiều dặm đất cho tới thung lũng kế tiếp, không; họ chỉ mua lại một rẻo đất của Isak và Geissler ở Sellanraa, rồi bán lại nó.
Thế thì giờ đây phải làm gì? Người chỉ huy, cùng những chuyên gia và đốc công, biết khá rõ; họ phải bắt đầu thương lượng với Nhà nước ngay lập tức. Thế là họ cử một người đưa tin đi cấp tốc sang Thụy Điển, mang theo những lá thư, kế hoạch và sơ đồ, còn bản thân họ thì cưỡi ngựa xuống chỗ vị Lensmand để mua lại mảnh đất cao nguyên ở phía nam nguồn nước. Và tại đây những khó khăn của họ bắt đầu; luật pháp chắn ngang đường đi của họ; họ là người ngoại quốc, và không thể là người mua chính thức. Họ biết tất cả về điều đó, và đã chuẩn bị sẵn sàng. Nhưng mảnh đất phía nam đã được bán đi trước đó rồi, và đó là điều họ không biết. “Bán rồi sao?”
“Phải, lâu rồi, từ nhiều năm trước.”
“Vậy ai đã mua nó?”
“Geissler.”
“Geissler nào cà? A, cái tay đó, hừm.”
“Và chứng thư sở hữu đã được đăng ký và chuẩn y,” vị Lensmand nói. “Nó chỉ toàn là đá không hơn, ông ta mua nó với giá gần như cho không.”
“Cái gã Geissler bỗng dưng xuất hiện này là ai chứ? Ông ta ở đâu?”
“Có Trời mới biết hiện giờ ông ta ở đâu!”
Và một người đưa tin khác được cử sang Thụy Điển. Họ phải tìm hiểu mọi thứ về cái tay Geissler này. Trong lúc đó, họ không thể giữ lại tất cả thợ thuyền; họ phải chờ xem sao.
Thế là Gustaf đi xuống Sellanraa, với tất cả đồ đạc trên lưng, và gã tới rồi đây, gã bảo thế. Phải, Gustaf đã thôi việc ở khu mỏ. Nghĩa là gã đã quá nhiều chuyện vào hôm Chủ nhật trước, khi nói về khu mỏ và lượng đồng trong mỏ; người đốc công đã nghe thấy, cả viên kỹ sư nữa. Thế là Gustaf bị đuổi việc. Được thôi, tạm biệt, và có thể đó chính là điều gã muốn; việc gã tới Sellanraa lúc này không có gì đáng nghi ngờ. Họ giao việc ở chỗ chuồng bò cho gã ngay tức khắc.
Họ lăn lóc miệt mài với những bức tường đá, và vài hôm sau, khi có một người khác từ trên mỏ xuống, anh ta cũng được thu nhận; lúc này có thể chia thành hai phiên làm việc, và công việc tiến triển rất nhanh. Phải, họ sẽ hoàn thành nó trước mùa thu, đừng lo.
Nhưng lúc bấy giờ những người thợ mỏ đi xuống, hết người này tới người kia, bị sa thải, và lên đường về Thụy Điển; hiện tại công việc thử nghiệm đã tạm ngừng. Có cái gì đó giống như một tiếng thở dài ở những người dân trong làng khi nghe tin đó; những thôn dân ngốc nghếch, họ không hiểu công việc thử nghiệm là gì, đó là chỉ làm thử mà thôi, và nó là thế đó. Thôn dân cảm thấy nản lòng và có những linh cảm u ám; tiền bạc hiếm hoi hơn, tiền công sút giảm, cửa tiệm ở Storborg trở nên rất lặng lẽ. Tất cả những điều này có nghĩa là gì? Chỉ vừa khi mọi thứ diễn ra tốt đẹp, Aronsen vừa dựng lên một cột cờ với một lá cờ, và đã mua một tấm da gấu đẹp để làm chăn đắp trong cỗ xe trượt khi mùa đông tới, và những quần áo đẹp cho cả gia đình… Đây chỉ là chuyện nhỏ, nhưng cả những chuyện lớn lao trọng đại cũng đang xảy ra. Có hai người mới vừa mua đất trong vùng hoang dã để phát quang canh tác; ở mé trên, giữa Maaneland và Sellanraa, và đó không phải là một sự kiện nhỏ đối với toàn thể cái cộng đồng nhỏ bé trong vùng hẻo lánh đó. Hai cư dân mới đã dựng xong lều và bắt đầu phát quang, đào đất. Họ là những người chăm chỉ, và đã làm được nhiều việc trong một thời gian ngắn. Suốt mùa hè đó họ đã mua hàng ở Storborg, nhưng giờ đây, khi họ xuống, lần cuối cùng, hầu như không có gì để mua nữa. Không có hàng. Và Aron cần gì phải mua thứ hàng này hàng nọ nữa khi khu mỏ đã ngưng hoạt động? Bây giờ anh ta gần như chẳng còn bất cứ thứ hàng gì trong tiệm, chỉ có tiền. Trong tất cả những cư dân gần đó, có lẽ Aronsen là người buồn chán nhất; mọi tính toán của anh ta đều sụp đổ. Khi có ai đó giục anh ta khai thác miếng đất và sống nhờ vào nó cho tới những thời điểm khá hơn, anh ta đáp: “Khai thác đất đai? Tôi tới đây dựng nhà không phải để làm chuyện đó.”
Cuối cùng Aronsen không kềm lòng được nữa; anh ta phải lên khu mỏ để đích thân ngó xem mọi việc thế nào. Đó là một ngày Chủ nhật. Khi lên tới Sellanraa, anh ta muốn Isak cùng đi với mình, nhưng Isak không bao giờ đặt chân trên khu mỏ kể từ khi họ mới khởi đầu; anh còn nhiều việc phải làm ở sườn đồi bên dưới. Inger phải góp một lời: “Anh nên đi với Aronsen khi anh ta đề nghị,” nàng nói. Có lẽ Inger không tiếc nuối gì khi để cho anh đi; hôm đó là Chủ nhật, và có thể nàng muốn tống khứ anh khỏi nhà khoảng một hai tiếng đồng hồ. Thế là Isak lên đường.
Họ nhìn thấy nhiều thứ lạ lùng trên đó; Isak không còn nhận ra nơi này nữa, với những túp lều và nhà kho, cả một thị trấn, những cỗ xe ngựa, xe goòng và những hố to trên mặt đất. Đích thân viên kỹ sư đưa họ đi xem. Có lẽ hiện giờ ông ta không ở trong tâm trạng vui vẻ gì cho lắm, nhưng ông ta cố né tránh cảm giác u ám đã ụp xuống dân làng và những cư dân quanh vùng, và đây là cơ hội của ông ta, vì chính bản thân vị Bá tước ở Sellanraa và nhà buôn lớn ở Storborg đang có mặt.
Ông ta giải thích đặc tính của quặng và những tảng đá bao trùm bên ngoài nó. Đồng, sắt, và lưu huỳnh, ba thứ đó hoà lẫn với nhau. Phải, họ biết đích xác trong những tảng đá trên kia có gì, thậm chí cả vàng và bạc, dù không nhiều lắm. Là một kỹ sư mỏ, ông ta biết rất nhiều điều.
“Và bây giờ tất cả sẽ đóng cửa?” Aronsen hỏi.
“Đóng cửa?” Viên kỹ sư ngạc nhiên lặp lại. “Nếu chúng tôi làm như thế, thì đó thật là một điều tuyệt diệu đối với Nam Mỹ!” Không, chỉ tạm ngưng những hoạt động ban đầu một thời gian ngắn; họ đã thấy khu mỏ này như thế nào, thấy nó có thể sản xuất được gì; sau đó họ có thể xây dựng đường ray trên không và tiếp tục khai thác ở phía nam cao nguyên. Ông ta quay sang Isak: “Anh không biết Geissler đi đâu à?”
“Không.”
Tốt, không sao. Họ sẽ tóm được ông ta thôi. Và khi đó họ sẽ bắt đầu hoạt động lại. Đóng cửa à? Đúng là một ý nghĩ kỳ khôi!
Đột nhiên Isak mê mẩn cả hồn vì một cỗ máy nhỏ hoạt động với một cái bàn đạp. Bạn chỉ cần cử động bàn chân mình là nó hoạt động. Anh hiểu nó ngay lập tức. Nó là một cái lò rèn tí hon có thể chở bằng xe ngựa tới bất kỳ chỗ nào bạn muốn.
“Hiện giờ một cái máy thế này giá bao nhiêu?” Anh hỏi.
“Cái lò rèn di động đó hả? Ồ, chẳng là bao.” Trông có vẻ như họ có nhiều cái lò rèn loại đó, nhưng không có thứ mà họ đã đưa xuống biển; tất cả những loại máy móc thiết bị, những vật to lớn. Isak phải hiểu rằng việc khai mỏ, việc làm ra những thung lũng và những vực sâu to lớn trong lớp đá không phải loại công việc có thể thực hiện với những cái móng tay của bạn, haha!
Họ đi quanh khu mỏ, và viên kỹ sư bảo rằng ông ta sẽ qua Thụy Điển vài hôm.
“Nhưng ông sẽ quay lại chứ?” Aronsen hỏi.
Sao, dĩ nhiên. Không hiểu tại sao Chính phủ hoặc đám cảnh sát cứ cố ngăn cản ông ta.
Isak tìm cách lượn trở lại chiếc lò rèn di động và dừng lại ngắm nghía nó thêm lần nữa. “Một cái máy thế này giá cỡ bao nhiêu?” Anh hỏi.
Giá ư? Không thể nói chính xác. Một khoản tiền, chắc chắn là thế, nhưng chẳng là gì trong những hoạt động khai mỏ. Ồ, viên kỹ sư đó là một tay tốt bụng; lúc này ông ta không được vui vẻ gì cho lắm, có lẽ, nhưng ông ta vẫn cố giữ cái vẻ giàu sang tử tế cho tới phút cuối cùng. Isak muốn có một cái máy này à? Tốt, anh có thể lấy cái đó. Công ty không bao giờ bận tâm về một thứ nhỏ bé như thế. Công ty sẽ tặng anh một cái lò rèn di động để làm quà!
Một giờ sau, Aronsen và Isak trên đường trở xuống. Aronsen thấy lòng bình thản hơn. Rốt cuộc cũng còn hy vọng. Isak khệ nệ cõng cái lò rèn quý báu của anh trên lưng. Phải, một gã vạm vỡ, anh có thể vác một món đồ to nặng đến thế! Viên kỹ sư đã đề nghị cử hai người mang nó xuống Sellanraa vào sáng hôm sau, nhưng Isak cám ơn ông ta – ông ta không phải mất công vì chuyện đó. Anh nghĩ tới những người nhà của mình; họ sẽ kinh ngạc ra trò khi nhìn thấy anh đi xuống với một cái lò rèn cõng trên lưng.
Nhưng rốt cuộc chính Isak mới là kẻ ngạc nhiên.
Một cỗ xe độc mã ngoặt vào sân trước ngay lúc anh về tới nhà. Nó chở theo cả một xe đầy. Người đánh xe là một người dân dưới làng, nhưng có một quý ông đi bộ cạnh ông ta, và Isak nhìn chằm chặp ông ta với nỗi ngạc nhiên. Đó là Geissler.
Phúc Lành Của Đất Phúc Lành Của Đất - Knut Hamsun Phúc Lành Của Đất