Số lần đọc/download: 1590 / 33
Cập nhật: 2017-08-04 14:04:04 +0700
Chương 26
B
óngRâm còn là một xứ nho. Tôi chưa kể ra chuyện này vì khi theo sau Cosimo, tôi luôn phải bám trên các loài cây cao. Song hồi ấy có nhiều sườn đồi nho bao la; vào tháng Tám, dưới những rặng lá, đã phồng nở các chùm nho mọng nước cốt, đỏ hồng màu rượu. Một số vườn nho được trồng trên giàn leo: tôi nhắc đến chi tiết này, cũng vì Cosimo, khi về già, thì trở nên rất nhỏ gọn và nhẹ cân; và anh đã thấu đáo học được nghệ thuật nhón bước trên các giàn leo. Cho nên anh có thể băng qua các khu vườn nho. Di chuyển như thế, với sự trợ giúp của các loại cây ăn quả khác xung quanh, và sự trụ bám vào các cây cột gọi là scarasse, anh có thể làm nhiều việc như: chiết cành vào mùa đông, lúc các cành nho đã trở nên trơ trụi cong queo quanh sợi giây thép; tỉa lá thừa vào mùa hạ, hoặc bắt sâu, và sau đó, vào tháng Chín thì tham gia vụ mùa hái nho.
Dịp vụ mùa hái nho, toàn thể dân chúng BóngRâm bủa ra các vườn nho một ngày; thấp thoáng giữa những sắc xanh của các giàn lá, là những sắc màu sặc sỡ của những chiếc váy, của những chiếc mũ núm tua. Những người dắt la chất các giỏ đầy nho lên yên, rồi thồ chúng đi trút vào bể chứa; số giỏ còn lại thì các viên chức thu thuế sẽ lấy, những người này đã kéo đến đây cùng với các đội đốc hiệu để kiểm tra lượng thuế phải nộp cho các nhà quý tộc trong vùng, cho Chính quyền Cộng hòa Genova, cho giáo hội, và các khoản thuế thập phân khác. Năm nào cũng xảy ra một số vụ tranh chấp.
Khi Cách mạng nổ ra ở Pháp, vấn đề phân định các phần thu hoạch mang nộp cho chỗ này hay chỗ kia, chính là nguyên do của những lời phản kháng mạnh mẽ nhất trong các quyển “sổ than phiền”. Ở Bóng Râm, để thử xem thế nào, người ta cũng bắt đầu ghi vào những quyển sổ như thế, dù rằng ở đây chúng chẳng giúp được gì. Đó là một trong những ý tưởng của Cosimo; vào thời gian đó, anh không còn có nhu cầu đến dự các buổi họp của chi hội Tam điểm để mà thảo luận với dăm ba phần tử hội kín thùng rỗng kêu to ấy nữa. Anh đu bám trên những ngọn cây trên quảng trường; dân chúng khắp nơi, từ vùng biển, từ vùng thôn trang, kéo đến bao quanh, nhờ anh giải thích tin tức, bởi anh nhận được báo chí thông qua đường bưu điện; mặt khác, một số bạn bè cũng viết thư cho anh, trong đó có nhà thiên văn học Bailly, người sau đó được cử làm thị trưởng Paris, và một số thành viên khác của Câu lạc bộ. Càng lúc càng nhiều tin mới: Necker, môn Quần vợt, ngục Bastille, La Fayette với chú bạch mã, Vua Louis cải trang làm một người hầu. Cosimo giải thích và diễn lại toàn bộ, phóng từ cành này sang cành khác, cành thì anh làm Mirabeau nói với tòa án, cành thì anh làm Marat giữa những người Jacobin, cành thì anh làm vua Louis tai điện Versailles, đội mũ lưỡi trai đỏ để làm yên bụng quý bà nội trợ lội bộ từ Paris đến.
Để giải thích thế nào là “sổ than phiền”, Cosimo nói:
– Chúng ta hãy thử thực hiện một quyển.
Anh lôi ra một quyển vở, lấy dây treo nó lên cây; mỗi người tới đó ghi lại điều gì mình thấy không đúng. Đủ loại vấn đề xổ ra: người đánh cá về giá cá, người trồng nho về thuế thập phân, người chăn cừu về địa giới đồng cỏ, người tiều phu về những khu rừng công, rồi tất cả những ai có người thân trong tù, rồi những ai bị phạt đánh roi vì một tội phạm nào đó, rồi những ai hằn thù các nhà quý tộc về vụ tình ái với các bà: cứ thế không dứt. Cosimo nghĩ, ngay cả cho một quyển “sổ than phiền”, nếu cứ buồn bã thế này thì không hay ho gì, anh nảy ra ý tưởng yêu cầu mỗi người hãy viết lên điều gì mình thích nhất. Một lần nữa, mỗi người tới ghi phần mình, lần này thì mọi sự đều tốt đẹp: kẻ thì bánh nướng nóng ròn, kẻ thì xúp rau, kẻ thì một nàng tóc vàng, kẻ thì hai cô tóc nâu, kẻ thì khoái được đánh giấc cả ngày, kẻ thì được đi nhặt nấm suốt năm, kẻ thì muốn một cỗ xe tứ mã, kẻ thì chỉ cần một con dê, kẻ thì ước chi gặp lại mẹ hiền đã mất, kẻ thì được gặp các vị thần trên đỉnh Olympus: tóm lại, tất cả những gì tốt đẹp cho thế gian đều được ghi vào quyển sổ, ngay cả bằng hình vẽ, bởi nhiều người không biết viết, và thậm chí, được họa bằng màu sắc. Cosimo cũng viết vào đó một cái tên: Viola. Cái tên mà từ nhiều năm nay anh đã ghi lên khắp nơi.
Một quyển sổ đẹp, Cosimo đặt tên cho nó là quyển “Sổ Than phiền và Hài lòng”. Song khi nó đã được ghi đầy, thì không có đại hội quốc dân nào để gửi tới, thế là nó vẫn nằm đó, lủng lẳng trên sợi dây buộc vào cành cây. Mưa xuống, nó bị xóa nhòa và ướt sũng: một cảnh tượng khiến tim người dân BóngRâm thắt lại, vì họ nghĩ đến nỗi thống khổ hiện tại; và lòng họ trào dâng một ý muốn vùng dậy.
Tóm lại, xứ chúng tôi cũng hội đủ tất cả các lý do của cuộc Cách mạng Pháp. Chỉ có điều, chúng tôi không ở Pháp, và Cách mạng đã không xảy ra. Chúng tôi sống trong một xứ nơi luôn diễn ra các lý do chứ không diễn ra các tác động.
Tuy nhiên, thị trấn BóngRâm đã trải qua một thời kỳ sôi động. Quân Cộng hòa khai chiến với quân Áo-Sardegna sát ngay đó. Massena ở Collardente, Laharpe ở Nervia, Mouret dọc theo bờ Cornice cùng với Napoléon, lúc đó chỉ mới là một vị tướng pháo binh, cho nên những tiếng ì ầm theo gió vọng đến BóngRâm lúc nghe lúc không, chính là tiếng đại pháo của ông.
Tới tháng Chín, mọi người sẵn sàng cho vụ mùa hái nho. Dường như có điều gì đó rung chuyển và bí mật đang được sửa soạn.
Những lời xì xào vọng ra từ cửa nhà này sang cửa nhà kia:
– Nho đã chín!
– Đã chín! Đúng vậy!
– Còn hơn chín! Đã đến lúc hái!
– Đã đến thời điểm thu hoạch!
– Chúng ta đã đông đủ chưa? Bác đi đâu?
– Vườn nho nhà bá tước Pigna.
– Tôi thì vườn nho nhà máy xay.
– Thế bác đã thấy bọn đốc hiệu nhan nhản đến thế nào chưa? Họ như bầy sáo sà xuống mổ các chùm nho đấy.
– Thế nhưng năm nay mổ với mả gì họ!
– Bao nhiêu sáo thì bấy nhiêu người bẫy sáo!
– Thế mà có người lại muốn lánh mặt. Và có kẻ thì trốn nhủi.
– Sao năm nay vụ mùa hái nho không được nhiều người quan tâm tới nhỉ?
– Ở vùng chúng ta họ muốn hoãn lại đấy. Song giờ thì nho đã chín!
– Đã chín!
Sáng hôm sau, vụ mùa hái nho bắt đầu trong im lặng. Tại các vườn nho đông đảo dân chúng xếp thành dây chuyền đứng hái dọc theo các rặng nho, không một tiếng hát. Chỉ vài tiếng gọi lẻ tẻ, dăm tiếng hô lớn:
– Các ông cũng tham gia chứ?
– Có! Nho đã chín!
Những đội hình di chuyển, vẻ thâm trầm, có lẽ bầu trời cũng thế, không hoàn toàn u ám song đôi chút ngột ngạt. Nếu có tiếng bắt giọng cất lên một bài ca thì nó buông lửng giữa chừng, bởi không có tiếng đồng ca hòa theo. Những người dắt la chuyển những giỏ đầy nho đến các bể chứa. Những năm trước, thông thường, người ta chia ra các phần thuế để nộp cho các nhà quý tộc, cho tòa giám mục, cho chính quyền; năm nay thì không, dường như người ta quên khuấy chuyện đó.
Các viên chức thu thuế, đến đây để vơ vét thuế thập phân, căng thẳng, không biết nhằm vào nạn nhân nào. Thời gian càng trôi qua, càng không động tĩnh, càng cảm thấy ắt có chuyện sẽ xảy ra. Các viên đốc hiệu, càng hiểu rằng mình cần phải ra tay, thì lại càng chẳng hiểu là mình phải làm gì.
Cosimo, với những bước chân như mèo, đã bắt đầu di chuyển trên các giàn nho. Kéo cắt cành cầm trong tay, anh cắt một chùm nho chỗ này một chùm nho chỗ kia, không theo một thứ tự nào, rồi đưa cho cho những người hái nho nam và những người hái nho nữ bên dưới, và nói nhỏ với mỗi người cái gì đó.
Viên chỉ huy đốc hiệu không thể chịu nổi nữa. Nói:
– Tốt thôi, thế hả, vậy thì, thuế thập phân đâu nào?
Vừa nói xong là ông ta đã cảm thấy hối hận. Dọc theo vườn nho, nổi lên một thứ âm thanh trầm đục, nửa rống nửa rít: một người hái nho đang thổi tù và vỏ ốc, loại ốc xà cừ vỏ cong xoắn, loan tiếng báo động khắp thung lũng. Từ trên mỗi gò đất, một âm thanh tương tự đáp lại, những người trồng nho dương vỏ ốc xà cừ như dương kèn đồng; Cosimo, trên một giàn nho, cũng thế.
Dọc theo các rặng nho, một bài ca lan đi; lúc đầu thì ngắt quãng, nghịch tai, không thể hiểu là bài gì. Rồi tiếng hát ăn ý, hòa đúng giọng, vang lừng, và người ta hát như thể chạy một mạch; và các liền anh, liền chị đứng yên, lấp ló dọc theo những rặng nho; và cột nho, bể nho, chùm nho, tất cả như cũng chạy; và nho tự thu hoạch vụ mùa, tự trút vào bể, tự dập; và không gian, mây trời, ánh nắng, toàn bộ là nước cốt nho; và người ta đã bắt đầu hiểu ra bài ca ấy, trước tiên là âm điệu, sau đó là vài lời ca, rền vang:
– Ça ira! Ça ira! Ça ira!75
Các chàng trai trẻ, chân trần, đỏ tươi, đứng dận nho.
- Ça ira!
Các cô con gái xỉa những chiếc kéo sắc lẻm vào rặng cành lá xanh tươi rậm rạp cắt rời những đầu cuống quăn queo của các chùm nho.
- Ça ira!
Các đám mây ruồi nhuế xâm lấn không gian trên những đống nho nằm chờ máy ép.
– Ça ira!
Tới lúc đó, các viên đốc hiệu không thể giữ bình tĩnh nữa:
– Dừng lại! Im ngay! Bát nháo đủ rồi! Ai hát sẽ lãnh đủ một viên!
Rồi họ bắt đầu bắn chỉ thiên.
Đáp lại là loạt súng chát chúa như của cả một trung đoàn dàn trận trên các ngọn đồi; tất cả những cây súng hỏa mai ở BóngRâm đồng khai hỏa; Cosimo, trên đỉnh một cây sung cao, giương kèn ốc xà cừ thổi. Khắp các vườn nho có một sự di chuyển nhân sự. Không thể hiểu đâu là vụ mùa hái nho, đâu là một tổng hợp: đàn ông, nho, đàn bà, cành non, dao quắm, tràng lá, cọc, súng hỏa mai, giỏ, ngựa, dây thép, nắm đấm, chân thúc la, ống quyển, đầu vú; và tất cả cùng hát:
– Ça ira!
– Này thì thuế thập phân!
Cuối cùng, các viên chức thu thuế và các viên đốc hiệu đều bị tống cổ, đầu đâm lộn ngược trong các bể nho, chỉ ló ra những cặp chân ngúng nguẩy trên không trung. Họ trở về mà chẳng thu thuế thu má gì cả: nước cốt nho, hột nho dập, men nho, xác nho, cuống nho, lem luốc từ đầu xuống chân, dính bám trong nòng súng, túi thuốc súng, và râu tóc.
Vụ mùa hái nho tiếp diễn như một buổi lễ hội, ai cũng tin rằng các đặc quyền phong kiến đã bị xóa bỏ. Trong khi đó, chúng tôi, quý tộc, tiểu quý tộc, thì cố thủ trong các dinh thự, tay cầm vũ khí, sẵn sàng bán đứng tính mạng. (Phần tôi, thú thực, tránh không ló đầu ra khỏi nhà, đặc biệt là để không bị các nhà quý tộc khác bảo rằng mình đã đồng ý với cái ông anh phản-Chúa, lừng danh là một kẻ chủ mưu nguy hiểm nhất, theo phái Jacobin và thành viên Câu lạc bộ của toàn vùng). Thế nhưng, trong suốt ngày hôm đó, một khi các viên chức thu thuế và các đội đốc hiệu đã bị tống cổ, không ai bị suy suyển một cọng lông sợi tóc.
Ai cũng sốt sắng sửa soạn ăn mừng. Theo mốt Pháp, Cây Tự do cũng được dựng lên; có điều, người ta không biết rõ nó được cấu tạo thế nào; thế rồi, ở vùng chúng tôi, cây cối nhiều đến mức không hơi đâu mà dựng lên một cây giả. Thế là người ta trang trí một cây thật, một cây sồi, với những đóa hoa, những chùm nho, những tràng phướn, và câu viết: “Vive la Grande Nation!76 Trên đỉnh cây chót vót là anh tôi, phù hiệu ba sắc đeo trên mũ bê rê da mèo, đang chủ trì buổi hội thảo về Rousseau và Voltaire, không ai nghe ra một chữ, bởi toàn thể nhân dân bên dưới cầm tay nhau nối vòng múa hát:
– Ça ira!
Niềm hân hoan kéo dài không lâu. Các đội quân dốc lực lượng kéo tới: quân Genova, nhằm thu thuế thập phân và bảo đảm sự trung lập của lãnh thổ; quân Áo-Sardegna, bởi có lời đồn là người Jacobin xứ BóngRâm muốn công bố việc sáp nhập vào “Tổ quốc Vĩ đại Phổ quát”, tức là nước Cộng hòa Pháp. Những người nổi dậy nỗ lực đề kháng, dựng lên một số lũy chướng ngại vật, đóng các cổng vào thị trấn… Thế nhưng, đúng vậy, khỏi phải nói! Các đạo quân kéo vào thị trấn từ mọi phía, dựng trạm, lập lô cốt tại mỗi ngả đường dẫn ra ruộng đồng, những ai có tên trong danh sách các kẻ xách động đều bị tống giam, trừ Cosimo – kẻ được cử đi bắt anh là một người tốt – và một ít người khác.
Phiên tòa xử người cách mạng được dựng lên sơ sài, các phạm nhân thành công trong việc chứng tỏ mình không can dự gì, và các thủ lĩnh thực sự là những người đã rút khỏi các vườn nho. Thế nên, tất cả đều được thả, cũng bởi các đội quân đóng lại ở BóngRâm đủ để không ngại các cuộc nổi dậy khác. Một đơn vị đồn trú Áo-Sardegna cũng trụ lại, để ngăn chặn các khả năng thâm nhập của kẻ địch, và trong ban chỉ huy, có cả ông anh rể xứ HầuBao của chúng tôi, chồng chị Battista, kẻ đào vong khỏi Pháp, theo chân Bá tước vùng Provence.
Thế là tôi tái ngộ chị Battista, rầu rĩ thế nào thì khỏi phải nói. Chị thu xếp cho tôi một chỗ trong nhà, cùng với ông chồng sĩ quan, bầy ngựa, các đội lính cần vụ. Chị thì dành những buổi tối kể về các cuộc tử hình gần đây nhất ở Paris; thêm nữa, chị sở hữu một mô hình nhỏ của chiếc máy chém, lắp lưỡi dao cạo thật; và để miêu tả sự kết thúc của tất cả các bạn bè và bà con nhà chồng, chị đem ra chặt đầu: các con thằn lằn, rắn thủy tinh, giun, và ngay cả chuột nhắt. Chúng tôi trải qua những buổi tối như thế. Tôi ganh với Cosimo, kẻ sống những ngày, những đêm của mình, nương náu nơi bưng biền, trong chốn rừng xanh nào ai biết.