Hầu hết những thành quả quan trọng trên đời đều được tạo ra bởi những người dù chẳng còn chút hy vọng nào nhưng vẫn kiên trì theo đuổi điều mình mong ước.

Dale Carnegie

 
 
 
 
 
Thể loại: Giáo Dục
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: zzz links
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2681 / 73
Cập nhật: 2015-09-04 11:05:20 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 26: Phụ Lục
. Người Jêh bí mật
Người Mỹ chỉ mới đến Việt Nam có mấy năm, nhưng làm việc nhiều bằng 10 người Pháp trong vòng một trăm năm, về ngôn ngữ Thượng Việt.
Tuy nhiên họ vẫn sai lầm y hệt như người Pháp về ngôn ngữ Thượng: họ cho rằng Thượng Việt nói tiếng Cao Miên, trong khi Thượng Việt chỉ nói tiếng Mã Lai đợt I, tức tiếng Việt Nam.
Cứ đối chiếu những danh từ cổ sơ nhứt của loài người giữa Cao Miên, Việt Nam và Thượng Việt như Cá, Cây, Lá, Mắt, Trời thì đã biết Thượng Việt nói giống ai.
Sự sai lầm ấy, chúng tôi cho rằng cố ý, vì các nhà ngữ học ấy nhiều khả năng thật sự thì không thể bảo rằng họ sai lầm thô sơ vì dốt. Nhưng chúng tôi chỉ phớt qua về điểm đó, vì nó sẽ động chạm mạnh đền nhiều thế lực và sẽ gây hại cho chúng tôi.
Có một điểm làm cho các ông da trắng bối rối lắm là ngôn ngữ của người Jêh. Người Jêh là đồng bào Thượng ở cực bắc tỉnh Kontum, tức có địa bàn ở trên người Sơ Đăng và nằm ngang tỉnh lỵ Quảng Ngãi về mặt vĩ tuyến.
Các ông da trắng thấy rằng người Jêh có ngôn ngữ giống ngôn ngữ Nam Dương đến 70% tức giống hơn người Chàm đã giống.
Thế nên vài ông kết luận rằng người Jêh đã từ Nam Dương di cư tới đó hồi Thượng cổ.
Chúng tôi có thử giải thích nguồn gốc của người Jêh, nhưng sau khi học xong ngôn ngữ của họ, chúng tôi thấy rằng lối giải thích của chúng tôi, tuy có căn bản vững, nhưng vẫn sai như thường. Dưới đây là lối giải thích sai mà chúng tôi ngỡ là đúng, nhưng cũng xin trình ra:
Quảng Ngãi thuộc vào Chiêm Động, tức trung tâm văn hóa của Lâm Ấp. Dân Lâm Ấp không thể chấp nhận cạnh họ còn "man di”, nên họ chỉ còn một con đường đi độc nhứt là nỗ lực khai hóa thứ người đó, và vì sự nỗ lực quá lâu đời, từ đầu Tây lịch, nên Jêh bị Lâm Ấp hóa, rồi về sau bị Chàm hóa.
Ta biết được điều đó, bằng vào những địa danh Chàm còn sót lại ở miền Trung, nó giống hệt các danh từ Nam Dương mà khác hẳn danh từ Chàm đời nay, tức Lâm Ấp ăn nói giống hệt Nam Dương.
Thí dụ ở Ninh Thuận có một làng nay còn mang tên là MATI. Đó là động từ Nam Dương có nghĩa là Chết. Nhưng chính người Chàm Ninh Thuận lại diễn cái ý niệm chết đó bằng động từ MƯTAI.
Kết luận: người Chàm trung cổ và người Lâm Ấp cổ có ngôn ngữ giống hệt Nam Dương không khác một nét. Sở dĩ nay họ nói khác là vì luật Swadesh, và sở dĩ người Jêh có ngôn ngữ của người Nam Dương là vì họ bị Lâm Ấp hóa hồi cổ thời. Hoặc cũng có thể người Chàm Ninh Thuận không phải là người Chàm. Nếu luật Swadesh chi phối ngôn ngữ của Chàm Ninh Thuận thì chỉ có 20% hoặc 40% danh từ bị biến dạng. Nhưng danh từ Lâm Ấp cổ thời và Chàm cổ thời khác với danh từ Ninh Thuận đến 100%.
Nên biết rằng có một tiểu vương quốc ở Bình Tuy, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, như bia Võ Cảnh đã cho biết, vốn là thuộc quốc của Phù Nam. Chàm chỉ chiếm tiểu vương quốc ấy hồi thế kỷ thứ 9. Họ lãnh đạo, nên địa danh do họ đặt ra vì lý do hành chánh, nhưng địa danh đó không thể ăn khớp với lối nói của người dân. Làng thì là làng Mati, nhưng dân lại nói là Mưtai. Mà khác hết ở toàn khối ngôn ngữ, chớ không phải chỉ khác có 20%, theo luật Swadesh, sau 1000 năm.
Người ta tự hỏi, nếu thế thì người Chàm biến đi đâu. Rất dễ biết, họ biến thành người Việt miền Trung, và chúng tôi có chứng tích như vậy.
Các ông da trắng không có nói như chúng tôi vì các ông không biết rằng người Jêh vốn là Lạc bộ Trãi, mặc dầu các ông gọi Jêh là Austroasiatiques, tức gọi đúng 100% theo tiền sử học. Nhưng có lẽ các ông không hiểu hai danh xưng Austroasiatiques và Austronésiens là gì, nên một mặt, các ông cho rằng họ từ Nam Dương lên, một mặt các ông gọi họ là Lạc bộ Trãi, tức bọn từ Hoa Bắc di cư xuống.
Bằng vào ngôn ngữ, chúng tôi thấy người Jêh là Lạc bộ Trãi thật sự, nhưng bị Lâm Ấp hóa, y hệt như người Rôglai bị Chàm hóa. Những danh từ căn bản của họ là danh từ Lạc bộ Trãi chớ không của Lạc bộ Mã.
Lối giải thích của chúng tôi có vẻ vững chãi lắm, nhưng xét lại thật kỹ ngôn ngữ Jêh thì chúng tôi giựt mình: NGƯỜI JÊH CÓ DÙNG DANH TỪ Ả RẬP.
Khi Chiêm Thành mất Quảng Ngãi thì họ chưa theo đạo Hồi của người Ả Rập thì họ không thể biết tiếng Ả Rập để dạy người Jêh.
Thế là chúng tôi sai. Nhưng các ông da trắng lại càng sai đậm hơn bởi các ông nói đến một cuộc di cư vào thời thượng cổ, mà vào thời thượng cổ thì người Nam Dương chưa biết lấy một tiếng Ả Rập nào hết, mà dân Ả Rập cũng chưa văn minh như một ngàn năm sau Tây lịch, tức không có đi đâu cả để truyền bá ngôn ngữ của họ tới Nam Dương. Trong khi các dân tộc lớn, dân Ả Rập là dân tộc văn minh sau cùng hết.
Thế thì nguồn gốc của người Jêh bí mật thật sự chớ không phải chuyện chơi. Có thế nào mà đó là những tiếng Ả RẬP do người Chàm mới đưa sau vào đó chăng, tức sau khi họ mất Quảng Ngãi rất lâu?
Nhưng chúng tôi cũng có thể xét qua về sự có thể ấy, nhưng cũng không đúng vì những danh từ Ả RẬP mà người Jêh dùng, toàn là danh từ mà người Chàm không có dùng. Thí dụ: Trạng từ VÌ thì người Chàm chỉ dùng trạng từ Mã Lai là YUA, trong khi đó người Jêh dùng trạng từ Ả RẬP là SƠBAB.
Người Chàm cũng chỉ mới theo đạo Hồi về sau, qua trung gian người Nam Dương, tức họ còn đang ở trong thời kỳ Hồi hóa mạnh thì không thể bảo rằng họ đã trở về với dân tộc họ mà chỉ mới nói YUA đây thôi, còn bốn trăm năm trước thì họ nói SƠBAB. Không, họ chưa tiến đến giai đoạn dân tộc hóa đạo Hồi, và họ nói YAU là đã nói từ nhiều ngàn năm xưa.
Đạo Hồi được truyền bá đi khắp nơi vào thời kỳ có sử, tức thời trung cổ Âu Châu, tức chỉ mới đây thôi, thế mà một cuộc di cư của người Nam Dương theo đạo Hồi, đến Kontum, sao lại không được sử biết?
Bây giờ chúng tôi xin thử giải thích khác hơn thử xem sao: người Jêh là một thứ người với người Châu Giang, tức là thường dân đi theo gót đạo quân viễn chinh của Java đã xâm lăng Cao Miên. Cao Miên quật cường, đế quốc Java bị đuổi đi, nhưng thường dân còn ở lại đông đảo ở Cao Miên, ở Nam Kỳ và ở Bắc Kontum. Nên biết rằng Bắc Kontum nằm tại ngã ba biên giới Miên-Lào-Việt. Có lẽ đó là quân xâm lăng nữa cũng nên chớ không là thường dân, nên mới bị đuổi và phải chạy xa như vậy, chớ thường dân Java vẫn ở lại được, ngay tại Nam Vang mà không bị trả thù.
Nhưng lối giải thích nầy lại vấp phải sự kiện sau đây là tất cả dân Java ở lại, đều theo đạo Hồi, còn dân Jêh thì không có theo đạo Hồi. Vậy kiến giải thứ nhì cũng không đúng, hơn thế nó lại mâu thuẫn với nhận xét của chúng tôi: Jêh thuộc Lạc bộ Trãi, thì không thể là người Nam Dương được.
Buồn cười lắm là các ông da trắng, một mặt xác nhận rằng Jêh ngữ có 70% danh từ giống Nam Dương, một mặt cứ tiếp tục chủ trương rằng Jêh ngữ thuộc gia đình Cao Miên ngữ. Nhưng cái 30% còn sót lại, lại giống tiếng Việt Nam!!! Mà các ông không biết.
Các ông không biết vì đó là cái tiếng Việt của vua Hùng Vương nó hơi khác tiếng Việt ngày nay. Dân Jêh là dân nói PIET thay vì LƯỠI (vì thế mà dân ta đọc tiếng Tàu XỨA là THIỆT) nói KCHIAT thay vì CHẾT, nói TÀ LÊ thay vì DỄ, nói LAANG thay vì LƯNG, nói TMEK thay vì MUỖI, nói NANG thay vì CAU và MONANG thay vì MO CAU, nói MANGAAY thay vì NGƯỜI, nói ĐRA thay vì GIÀ.
Nhưng thà là làm thinh khi không biết, chớ sao cho rằng họ thuộc gia đình Cao Miên, cho dẫu là cái 30% đó cho là tiếng Cao Miên đi nữa. Nhưng các ông thừa biết rằng cái 30% đó không phải là tiếng Cao Miên.
100% sách Pháp cho rằng Thượng Việt ngữ là Cao Miên ngữ.
95% sách Mỹ cho rằng Thượng Việt ngữ là Cao Miên ngữ. Chúng tôi xin dùng chính luật ngữ học của người Mỹ, luật M. Swadesh để đối chiếu vài danh từ của con người cổ sơ, thử xem Thượng là Cao Miên hay là Việt Nam.
CÁ đã đối chiếu rồi, không có mặt Cao Miên. Cao Miên gọi CÁ là TRẬY. Mắt cũng đã đối chiếu rồi và cũng không có mặt Cao Miên. Cao Miên gọi Mắt là FNÉC.
TÔI của Cao Miên là NHUM, chẳng dính líu gì đến Ai, Any, Anh, Anhe, Aku, Ku của Thượng Việt cả.
CHẾT
Cao Miên: NGỌP
Việt Nam: CHẾT
Khả Tu: CHET
Mạ và các phụ chi: CHƯT
Đại Hàn: CHƯK
Pacóh: KACHIAT
Bà Na: LÔCH
Bru: CUCHÊIT
Khả Lá Vàng: KÈT
CÂY
Cao Miên: CHXƠ
Việt Nam: CÂY
Mạ và các phụ chi: KI
Khả Lá Vàng: KI
Rôglai: CAYƠU
Rađê: KIÂO
Thượng Việt là Cao Miên ở chỗ nào?
Ta đã đối chiếu CÁ, MẮT, TÔI, CHẾT, CÂY. Đối chiếu thêm một danh từ nữa thì xong.
CHÓ
Cao Miên: KE
Việt Nam: CHÓ
Sơ Đăng: CHÓ
Bana: KÓ
Mạ: SÓ
Bru: ACHO
Thượng Việt là Cao Miên ở điểm nào?
Chúng tôi xin dựa vào một sự kiện khác để thử giải thích lần thứ ba. Người Rôglai và người Churu cũng là hai nhóm Trãi, nhưng cũng nói giống Nam Dương lối 60, 70%. Nhưng các ông da trắng không hề dám nói đến một cuộc di cư của người Nam Dương lên xứ Churu và xứ Rôglai, vì họ có chứng tích rằng chính người Chàm đã khai hóa Churu và Rôglai, mà người Chàm thì nói giống Nam Dương đến 90%.
Vậy chúng tôi kết luận rằng khi Cao Miên quật cường thì một số lính Java chiếm đóng Cao Miên, đã chạy trốn vào xứ của người Jêh. Bọn lính Java nầy thì đã biết tiếng Á Rập rồi.
Người Jêh còn kém nên được bọn lính ấy khai hóa, thế nên họ mới mất 70% danh từ.
Bọn Java ấy thì mất cán bộ tôn giáo, nên cũng mất tôn giáo luôn. Cứ nhìn vào người Chàm Ninh Thuận, ta sẽ biết cái gì. Họ không mất hẳn cán bộ đạo Hồi, thế nhưng họ còn giữ được gì của đạo Hồi? rất là ít.
Bọn Java nói trên, sống ở xứ Jêh lối ba thế hệ người là chẳng còn biết gì nữa về đạo Hồi rồi.
B. Những con số ngộ nghĩnh
Trong quyển LES RELIGIONS CHINOIES ông H. Maspéro viết rằng ở Đông Nam Á, tất cả các dân tộc đều có nhưng con số đếm (Numérations) giống hệt Trung Hoa và ông kết luận rằng người Thái là người cổ Trung Hoa.
Nhưng qua các biểu đối chiếu trong các quyển sử chúng tôi, thì ai cũng thấy rằng các dân tộc có những con số đếm giống hệt như Việt Nam, trừ Chàm và Thái.
Nhưng Chàm và Thái cũng không đếm như Tàu.
Chàm đếm y hệt như Nam Dương.
Thái thì có vay mượn một mớ của Tàu nhưng còn giữ được một mớ, nhưng con số thượng cổ ấy lại không giống Tàu Kim hay Tàu cổ gì hết.
Người Thái giữ được:
Nữa
Rưỡi
Một
Trăm
Số 2 họ mượn của Tàu, nhưng lại mượn sai, họ mượn chữ SONG có nghĩa là CẶP.
Thế thì Thái là cổ Trung Hoa ở chỗ nào?
Nghĩa Nhựt Bổn giữ được:
Bốn
Bảy
Tám
Mười
Tức cũng đồng số với Thái, nhưng mà tiếng giữ được dĩ nhiên không là tiếng Tàu, vì nếu là tiếng Tàu thì đâu có thể nói là "giữ được”.
Ta rất ngạc nhiên hỏi tại sao họ không mất hết mà lại giữ làm gì có 4 con số?
Hình như là tôn giáo không phải là vô can trong vụ này. Bốn con số ấy có thể dính với tôn giáo gốc của hai dân tộc đó chăng?
Chúng tôi chưa tìm được bằng chứng nào đáng kể hết. Nhưng cũng nên biết sơ rằng trong truyền thuyết về nguồn gốc người Nhựt con số 8 rất quan trọng: bà Trời của Nhựt Bổn có 8 người con, hóa ra 8 hòn đảo ngày nay của họ.
Ta bị trực trị, nhưng giữ được tất cả thì quả thực quá tài tình. (Chúng tôi không kể đến ngàn, triệu, ức, vì dân ta thuở ấy không có dịp đếm nhiều đến thế.)
Còn tại sao người Cao Miên thuở xưa, không kém hơn các dân tộc khác chút nào hết, mà lại chỉ có năm con số rồi thôi thì thật là khó hiểu hơn là Nhựt và Thái mất 6 con số đếm.
Họ không mất vì họ không có mượn tiếng Tàu hay tiếng của ai hết mà cứ đếm bằng tiếng của họ, chỉ có khác là, 6 họ nói là 5 với 1, 7 họ nói là 5 với 2.
Vấn đề nầy hình như là vấn đề rất lớn lao của lịch sử loài người. Quả thật thế, cứ đinh ninh rằng ta có 10 con số hữu lý. Nhưng cái sự hữu lý đó nằm tại chỗ nào? Tại sao không 5, không 20 mà lại là 10?
Người Cao Miên có thể nói rằng họ hữu lý hơn vì một bàn tay chỉ có 5 ngón, mà nhân loại cổ sơ đếm bằng ngón tay. Nếu dùng cả hai bàn tay thì phải dùng cả hai bàn chân nữa, mà như thế phải là 20 chớ không phải là 10.
Có một điều chắc chắn rằng là đồng bào Thượng hoàn toàn không phải là phụ chi Cao Miên như các nhà bác học Pháp đã nói. Sao phụ chi lại có đến số 10, còn chánh lại chỉ có tới số 5?
Một phụ chi Lạc bộ Trãi là người Khả Lá Vàng rất giống với ta là họ nói tiếng CHỤC, trong khi toàn thể đồng bào Thượng chỉ có MƯỜI.
Chúng tôi nghi rằng tôn giáo là kẻ giữ được nguồn gốc một dân tộc, không phải là nói riêng về Nhựt, mà về người Thái cũng thế.
Trong lễ cúng ông thần Dwata Luong, thầy phù thủy đọc thần chú như sau:
Một, ha, ba, bốn, sáu, lên ngựa đi quanh Mường
Một, hai, ba, bốn, bảy, thọc sâu tay vào bị bạc, bị vàng
Một, hai, ba, bốn, tám, có 8 cây lọng màu da cam che đầu.
Một, hai, ba, bốn, chín, làm chúa thiên hạ
Con số 5 không được nói đến, có lẽ vì nó đả động tới cái gì đó mà cả thầy phù thủy cũng không biết. Và chính số 5 là số mà họ đã giữ được. Vì tánh cách thiêng liêng của nó.
C. Sức sống mãnh liệt của ngôn ngữ
Ngữ học là một khoa học non choẹt về tuổi tác. Nếu kể những công trình đầu tiên vào thì khoa ngữ học cũng chỉ có hai trăm tuổi. Nhưng thật ra thì người ta chỉ làm việc nhiều từ 50 năm nay mà thôi.
Giống hệt khoa tâm bịnh, hai khoa non choẹt đó phải nỗ lực kinh hồn để rượt theo các khoa khác, thành thử ngữ học và tâm bịnh học, trong 50 năm, tiến bằng 500 năm của các ngành hoạt động văn hóa khác.
Vì thế mà sử học không có thì giờ theo dõi ngữ học, và cứ chê ngữ học không đủ khả năng để được dùng làm chứng tích.
Sử học không bao giờ dè rằng ngôn ngữ có một sức sống phi thường. Nếu không bị ai phá hoại, nó còn tồn tại được ít nhất là sáu ngàn năm, nhưng nếu có ngoại nhân phá hoại, hai ngàn năm vẫn không đủ giết ngôn ngữ. Người Phúc Kiến hiện còn dùng mạnh hai trăm danh từ của Mã Lai Nam Dương thì đủ biết Tần Thỉ Hoàng có thành công trọn vẹn hay không trong cuộc diệt dân tộc Lạc bộ Mã ở Hoa Nam.
Trường hợp của Nhựt Bổn thì lại khác. Họ tự phá hoại ngôn ngữ của họ. Thế thì tưởng họ phải thành công hơn là Tần Thỉ Hoàng. Nhưng không. Tất cả những danh từ Nam Dương bị họ cố sát vẫn cứ còn nguyên vẹn trong Nhựt ngữ, không thay đổi một nét.
Dĩ nhiên là họ đã giết được một mớ, nhưng không giết chết hẳn, và nhờ thế mà chúng tôi tìm lại được cả. Nhưng có một mớ quyết tử và ẩn núp, thoát được tất cả mọi bố ráp và Nam Dương nói sao, Nhựt nói y hệt như vậy. Đó là những danh từ (7%) mà nhà bác học Nhật Bổn tìm được.
Những phát giác của chúng tôi, nếu không được ai tin, vì thiếu căn bản ngữ học, vẫn phải tin nhà bác học Nhựt, vì ông ấy không có đối chiếu hai tiếng hơi giống nhau, mà đối chiếu những cặp danh từ y hệt như nhau.
Nhà bác học ấy không biết ngôn ngữ của Lạc Địch, nên không đối chiếu SÀO của Việt Nam, và SAO của Nhựt Bổn, nhưng ông đã dùng phương pháp đó, tức là phương pháp tìm những tiếng giống hệt nhau giữa Nam Dương và Nhật Bổn, khác hẳn chúng tôi là kẻ chỉ chọn những tiếng hơi khác nhau để kết nối bằng phương pháp "Xâu chuỗi biến dạng”. Thí dụ:
Nam Dương: Mati = Chết
Nhựt: Naki = Chết
Việt Nam: Mất = Chết
Thấy rõ rằng ngôn ngữ là cái gì không thể giết được, khi chúng tôi trưng ra đủ bằng chứng rằng danh từ Nhựt không phải chỉ hơi giống danh từ Nam Dương, mà giống hệt, không khác nét nào cả, khác hẳn những trường hợp MATI và NAKI nói trên.
Khi chúng tôi nói rằng Nhựt biến KAKI là CẲNG của Nam Dương, thành ASHI, vị nào không tin, vẫn phải tin, khi thấy trong vài trường hợp, Nhựt cứ còn dùng danh từ KAKI của Nam Dương.
Họ tự phá hoại ngôn ngữ, nhưng không đủ sức làm cho đổ vỡ hết, vì sự chịu đựng dẻo dai của ngôn ngữ thật là ngoài sức tưởng tượng của con người.
Trong quyển sách này, chúng tôi đã nhiều lần nói đến cuộc li khai của một nhóm Lạc bộ Mã, họ rời Nam Dương đi Nhựt Bổn để cướp ngôi các vua lon con Lạc bộ Trãi ở Nhựt.
Hình như là có sự giận hờn lớn lao giữa người Nam Dương với nhau, nên đến Nhựt rồi thì bọn ấy biến nát danh từ Nam Dương hết, đến nỗi không nhận diện được nhau nữa.
Nhưng có muốn xóa dấu vết, Nhựt Bổn vẫn không thành công, vì chúng tôi bắt được tất cả những danh từ Nam Dương ẩn trốn trong Nhựt ngữ.
Thí dụ Nam Dương gọi CẲNG là KAKI, Nhựt biến thành ASHI, nhưng để CẲNG VỊT thì họ vẫn dùng KAKI y hệt như Nam Dương, không khác một nét.
MIZUKAKI = Cẳng trước = Cẳng vịt (Palmipède)
Con mắt, người Nhựt lấy chữ Mục của Tàu và đọc là MÊ, trong khi Nam Dương gọi là Mata. Nhưng Mata vẫn còn nguyên vẹn trong Nhựt ngữ?
MATATAKI = Cái chớp mắt
Danh từ TAKI là CÁI CHỚP của Nhựt thì Nam Dương nói là KAJIP. Nhựt biến thành TAKI, nhưng KAJIP lại cứ còn, ở nơi khác.
Cái Mặt, Nam Dương nói là MUKA, Cao Miên lấy âm đầu là MUK, Nhựt lấy âm sau là KA rồi biến thành KAO. Nhưng MUKA vẫn cứ còn nguyên vẹn trong Nhựt ngữ với động từ:
MUKA (U) = Đối diện
ĂN, Nam Dương nói là MAKAN, Nhựt nói là KUU, tức đã biến nát rồi, nhưng thức ăn thì gần như còn nguyên vẹn.
Nam Dương: Makanan
Nhựt: Makanai
Con chim Hồng, hay CÁ, Nam Dương gọi là AKA KƠ- RAPU. Nhựt biến CON CÁ thành SAKANA nhưng con chim Hồng vẫn cứ là KAMÔMÊ.
Nam Dương gọi mưa là AMA, Nhựt cũng cứ biến khác là AMÊ. Nhưng AMA vẫn cứ còn nguyên vẹn trong những danh từ Nhựt dưới đây:
AMAGOI = GỌI MƯA (CẦU ĐẢO)
AMAGASA = Dù che mưa (biến thể của Amakasa)
AMAGAPPA = Áo tơi (biến thể của Amakappa)
AMAGU = Nón che mưa
AMAGAEBRU = Con chẫu (loại nhái xuất hiện trong chiều mưa)
AMAJITAKU = Phòng mưa
AMAMIZU = Nước mưa
AAMAMORI = Sự nước mưa rỉ vào
AMAMOYÔ = Trời chuyển mưa
AMAOOI = Rèm che mưa
Không thể xóa dấu vết tổ tiên được, cho dẫu có giận hờn với nhau bao nhiêu đi nữa.
Khoa học chê ngôn ngữ dùng làm chứng tích đồng chủng, nhưng khoa học có biết những điều trên đây hay không là sức sống mãnh liệt của danh từ, nó thọ đến 6 ngàn năm như Any, chớ không phải chỉ có hơn hai ngàn năm như Muka, Mata, Kaki, cho dẫu là hai ngàn năm tự phá hoại đi nữa.
Ai biết song song hai thứ tiếng Nam Dương và Nhựt, tìm nối kết mà xem, tất cả nhưng danh từ Nam Dương mà Nhựt hờn mát đập tan hết, vẫn cứ còn sống nhăn trong Nhựt ngữ.
Chúng tôi tin rằng có sự giận hờn nên biến nát, bằng chứng là danh từ của Lạc bộ Trãi, tức của Việt Nam và Thượng Việt thì lại được kính nể ở Nhựt, có biến chút đỉnh, nhưng không nhiều, còn nhận ra được:
Sừng = TSUNO
Mới = MA (không lâu)
May (mắn) = MA
(múa) May = MAI
Nữa = NAO
Múa = MAU
Na ná = AN NA
Gió = KAZÊ
Nấc = NAKIJAKURU
Kêu = KIAI
Cây = KI
Ri (rừng ) = MORI (Lỡ RÚ, lỡ RI)
Con = KO
(buồn) Hiu = HIAI
Xưa = SIUUA (SEWA)
Món = MÔNÔ
Đưa = TIWATUSU (TEWATASU)
Cay = KARAI
Ung mủ = UMU
Sào = SAO
(đồng) Nội = NÔ
Chút = CHOTTÔ
Cứt = KUSO
Bướu = KÔBU
Cái mình = MI
Cái mụt = MÊ (lộc non)
Sán xơ mít = SANA
Nếu không có chuyện căm thù nhau, sao xảy ra hiện tượng kỳ dị và ngôn ngữ của kẻ thua trận, được kính nể, còn ngôn ngữ của chính họ thì lại bị phá hoại?
Nhưng đó là chuyện phụ. Chuyện quan trọng là không thể giết chết ngôn ngữ được trong khi mà Mata, Kaki, Ama, Makanai, Muka (u), cứ còn nằm đó để nói rõ to rằng một phần nước Nhựt là Nam Dương.
D. Vài nhận xét về các ngôn ngữ trong đại khối Mã Lai
Ngôn ngữ đẹp nhất là ngôn ngữ Việt Nam. Ngôn ngữ dở nhất là ngôn ngữ Thái.
Muốn diễn cái ý "ĐỘC THOẠI” người Nam Dương nói "UCHAPAN SA ORANG YANG PANJANG = LỜI CỦA MỘT NGƯỜI MÀ DÀI”.
Thế thì đó là một câu (Périphrase) chứ không còn là một danh từ nữa. Tuy nhiên Nam Dương không lạm phát câu để thay cho danh từ bằng tiếng Thái. Trong Thái ngữ hễ danh từ nào cổ sơ của con người thì mang đến 60% tiếng Tàu, còn danh từ nào chỉ các ý mới thì đều nói bằng một câu hết thảy, mà cái câu đó cũng đầy dẫy tiếng Tàu và tiếng Ấn.
CÁI ĐẦM NƯỚC MẶN của ta gồm 4 tiếng thì đã quá dở rồi, thế mà trong Thái ngữ nó lại gồm đến 9 tiếng. HUANG NUM TEE LORM DUAY KOH PA KAR RUNG. Thế nên tự điển Thái khỏi cần định nghĩa gì hết bởi chính danh từ là cả một câu định ngữ rất dài rồi.
Thái ở đây là Thái Lan, một nhóm Thái đã lập quốc khá lâu rồi, có các nhóm Thái khác thì còn nghèo hơn nữa.
Trong ba quốc gia ở Miền Dưới thì ngôn ngữ của Nam Dương giàu nhất, hay nói cho đúng ra, ngôn ngữ của đảo Java giàu nhất vì đó là địa bàn của một vương quốc rất hùng cường thời trung cổ. Ngày nay ngôn ngữ của Java được dùng làm thừa ngữ cho toàn quốc ANH ĐÔ NÊ XIA, nhưng các đảo khác còn đang học theo vì họ chưa thống nhất với Java (về mặt ngôn ngữ).
Họ vay mượn ở nhiều nguồn hơn ta: Lưỡng Hà, Ba Tư, Phạn, Nam Ấn Dravidien, Arập, Hoà Lan, Bồ Đào Nha, Anh, Trung Hoa, nhưng vay mượn tiếng nào dùng tiếng ấy, chứ không lấy đó làm ngữ căn như Hàn, Nhựt, Việt dùng Hoa ngữ làm ngữ căn.
Thí dụ họ vay SAMA của Phạn, có nghĩa là VÒM TRỜI nhưng không dùng SAMA để tạo Thanh thiên bạch nhựt, Thiên thời, Thăng thiên, như Hàn, Nhật và Việt.
(Nhựt chỉ sống chung với Ấn có 1 trăm năm nên cũng có SAMA, nhưng biến thành ÔNG TRỜI, và họ không dùng làm ngữ căn như đã dùng THIÊN vì đó là tiếng mới vay, chưa thâm căn cố đế như ở Miền Dưới).
Miền Dưới dùng tiếng Mã Lai làm căn ngữ và tạo tiếp đầu ngữ, tiếp vị ngữ mới y hệt như Tây, tức chỉ tạo vài cái để nói tất cả. Thí dụ Tây có tiếp vị ngữ EUX để chỉ TÁNH (Paresse → Paresseux, Ingénieur → ingénieux, Ennui → Ennuyeux, v.v.) thì họ cũng làm y hệt thế, về phương pháp, nó giống Âu châu ngày nay hơn là giống các quốc gia đã cho họ mượn danh từ hồi cổ thời.
Miền Dưới vay mượn ở quá nhiều nguồn, nhưng lại vay mượn số lượng danh từ ít hơn Nhựt Bổn đã vay của Trung Hoa và Âu châu. Họ không đánh mất (hoặc ít đánh mất) danh từ Mã Lai như Nhựt, Hàn và Việt, vì họ không thấy những danh từ của quốc gia cho họ mượn văn hoá hay hơn danh từ của họ. Họ chỉ mượn khi nào thiếu mà thôi.
Hàn, Nhựt, Việt luôn luôn có những khuynh hướng nói DÃ NHÂN bằng tiếng Tàu. Cái danh từ Tàu ấy vốn đã sai, vì con dã nhân không ở ngoài Dã mà ở trong thâm sơn cùng cốc.
Người Nam Dương, đã theo học với Lưỡng Hà và Ba Tư, trước khi học với Ấn Độ, nhất định chỉ có con thú đó bằng tiếng Mã Lai 100%. Họ gọi con đó là NGƯỜI RỪNG (Orang hutang), và được toàn thể Âu châu vay mượn, biến thành Orang Outang.
Nhựt vay mượn lại của Âu và nói Oran Uutan. Đây là một hiện tượng vô cùng kỳ lạ và ngộ nghĩnh. Nhựt đánh mất Orang Outang của chính họ và 1500 năm sau, họ lại vay lại của một con nợ da trắng cái danh từ đó, của tổ tiên họ.
Ngôn ngữ đi theo sát sinh hoạt của một dân tộc. Khi Nhựt li khai thì ở xứ Nhựt không có con Orang Outang, nên bọn cũ là bọn Lạc bộ Trãi cũng không còn có danh từ. Hai bọn không nói đến con đó suốt 1800 năm, nên bọn Mã đánh mất danh từ. Đến thời canh tân, họ đi học với Âu châu thì khoa học bắt buộc họ có danh từ ấy, thế là họ mượn của kẻ đang nắm bắt khoa học trong tay là Âu châu.
Người Nam Dương có vay mượn chút ít tiếng Tàu kể từ thời Đường và họ đọc y hệt như Phúc Kiến vì cả hai đều là Lạc bộ Mã: ĐẠI GIA = TOA KÊ.
Và Nhựt Bổn, Lạc bộ Mã chiếm hết nửa nước, thành thử họ đọc chữ GIA bằng hai giọng:
Quan Thoại: Ka
Phúc Kiến: Kê
Với nhiều danh từ khác gốc Tàu, đều cũng thế.
Quan Thoại ngày nay đọc Gia là Chá, Quảng Đông đọc là Cá. Nhựt Bổn đọc là Ka, có lẽ đó là Quan Thoại đời Tần mà bọn Trãi đã học thẳng với hậu duệ Phù Tô, chớ bọn Mã đọc là Kê. Vậy những danh từ do chữ Gia mà được phát âm là Ka, là danh từ đời nhà Tần, những danh từ nào được phát âm Kê là danh từ thời Hán trung điệp, do bọn Mã tân tạo bằng cách vay mượn sau bọn Trãi.
Tiếng Nhựt rất giàu, nhưng lại không phải là tiếng Nhựt. Cứ lật một trang tự điển Nhựt, bất cứ trang nào ta sẽ thấy có 1/3 danh từ Âu châu, 1/3 danh từ Trung Hoa, chỉ còn lại 1/3 tiếng Nhựt tức tiếng Mã Lai của hai đợt Trãi và Mã.
Chính các nhà văn học Nhựt cũng đã thở dài vì sự kiện đó, nhứt là sự kiện bắt chước Âu châu chia động từ ra nhiều thì, mà họ cho rằng tối vô ích, chẳng những không làm cho Nhựt ngữ đẹp hơn, lại làm cho nó kém hơn cổ văn.
Xem cái trang chữ PAR của họ, họ ghi tất cả 27 danh từ, mà có đến 21 tiếng Pháp chỉ còn 6 tiếng Nhựt.
Còn đây là những chứng bệnh vặt của các nhóm trong đại khối Mã Lai. Người Nam Dương mắc bệnh nói lắp một cách không cần thiết:
Ta nói "Đêm Đêm” là có lý do, vì sự lặp lại của ta có nghĩa là "mỗi đêm”, Phi Luật Tân nói "Cái tiệm Cái tiệm” (Sari sari) mà không có mục đích nào, hai tĩnh từ lắp chỉ có nghĩa là Dài mà thôi.
Người Nhựt rất sợ tử âm cuối, nó làm cho họ khổ sở lắm, nên họ nuốt hết, ngày nay chỉ còn sót lại có độc một tử âm N, nhưng nó đang chết. Vì thế mà trong Nhựt ngữ CON SÁN của Việt nam mới thành SANA, món mới thành MÔNÔ, và AKAN của Chu Ru mới biến thành SAKANA, và CẬP của Lạc bộ Trãi biến thành KAPPURU.
Những tử âm khác đã chết hoặc mất xác từ lâu nên ta không biết được, ngỡ họ không bao giờ có tử âm cuối. Nhưng chứng kiến sự hấp hối của tử âm N cuối, ta mới hay là tử âm cuối làm cho họ nhức đầu.
SA MẠC ta viết là thế, Đại Hàn viết là SA MAK, Nhựt Bổn viết là SABAK. Nhưng được chừng một trăm năm thì âm K cuối làm cho họ nhức đầu, uống thuốc mãi không khỏi, nên họ lại thêm U cuối để thủ tiêu âm K cuối, hoá ra ngày nay nó là SABAKU.
Cái bịnh này làm cho họ đọc sai tiếng Tàu nhiều hơn Đại Hàn và Việt Nam. Thí dụ Công Dụng:
Việt Nam: Công Dụng
Đại Hàn: Kong Yong
Nhựt: Koyo
Thuở xưa, họ đọc khá đúng là Koyong. Nhưng vì tử âm cuối NG làm cho họ mệt, họ chặt bỏ NG, nếu không thêm U ở sau, để biến thành Koyongu.
Người Thái mắc bịnh này là ngôn ngữ cổ của họ tràn ngập tiếng Tàu, nhưng họ lại không biết dùng tiếng Tàu để tự phong phú hoá như ta. Cho đến con voi cũng gọi bằng tiếng Tàu. Đó là vì họ bị lai giống ngay từ đời nhà Chu, nhưng họ không có thầy, không biết dùng ngữ căn, học được tiếng nào thì dùng tiếng ấy thôi, mà chỉ học toàn là con voi, con ngựa, thành thử muốn diễn ra ý niệm "ĐỘC THOẠI” họ cũng nói bằng một câu thật dài, dài hơn cả Nam Dương nữa.
Chỉ có ba thứ dân là biết dùng tiếng Tàu: Đại Hàn, Nhựt Bổn và Việt Nam, vì đó là ba anh đã học có căn bản vững.
Nhưng ba anh đều mượn tiếng Tàu khác nhau hết, vì chịu ảnh hưởng khác thời đại và khác hoàn cảnh. Thí dụ CÁI TỦ ta mượn của Quan Thoại, họ đọc là TU. Đó là cái TRẮP mà các cụ nhà Nho gọi là cái ĐỘC. Nhựt cũng gọi cái tủ là SU, nhưng lại do một tiếng Tàu khác là TỨ mà Quan Thoại đọc là SU (Tansu).
Thoạt trông, ai cũng ngỡ TỦ của ta và SU của Nhựt đồng một gốc Tàu. Nhưng nó lại khác, Tứ chỉ là cái rương bằng tre.
Bọn Phù Tô di cư đi Nhựt với cái Rương Tre, còn bọn Mã Viện đi xâm lăng Âu Lạc văn minh hơn đã có Trắp bằng Gỗ.
Anh Đại Hàn chịu ảnh hưởng ngay từ thời nhà Thương nên mượn danh từ còn xưa hơn nữa.
Họ mượn SƯƠNG mà họ đọc là CHANG, có nghĩa là RƯƠNG, Nhưng đó là nghĩa về sau, chớ đời Thương, SƯƠNG chỉ là một cái thùng, nhứt là thùng xe, tức là còn cổ hơn TỨ và ĐỘC nữa.
Sử Tàu chép rằng vua Trụ xa hoa, nhưng thực ra vua Trụ chưa có Rương, chưa có Trắp bằng chứng là Cơ Tử đi Đại Hàn chẳng có Rương, Trắp gì hết mà chỉ có cái thùng xe để tất cả mọi thứ.
Mà đừng tưởng Cơ Tử là kẻ chạy trốn nên thiếu vật dụng. Cơ Tử đã được vua Trụ phóng thích khỏi lao tù, sau khi định diệt vua Trụ, vậy ông ấy là kẻ ra đi tự do, lại vốn là quý tộc, tuy ngồi tù, nhưng của cải được vợ con cất giữ nhiều. Họ Cơ không có Rương, không có Trắp là tại Trung Hoa nhà Thương chưa có hai món đó.
Cả ba thứ đó: Độc, Tứ và Sương, chỉ là Trắp và Rương thôi. Nhưng cả ba dân tộc dùng mãi cho đến ngày nay, ta trỏ tất cả mọi thứ tủ, còn Nhựt trỏ loại tủ thấp, thấy họ vẽ hình thì đó là cái Desserte, nhưng họ lại dịch ra chữ Pháp là cái Commode. Đại Hàn không thay đổi.
Đến đời nhà Thanh, Tàu đã có cái QUỈ, ta có mượn đọc là QUẦY. Nhưng Tàu không sáng tác danh từ nữa, gọi cái tủ của Tây là Quầy. Tàu cũng chẳng thèm sáng tác mà cũng chẳng đồng hoá Quầy với Tủ, ví cái quầy là cái khác mà biết rõ, đồng hoá thì coi kỳ, trong khi đó thì Tủ không được ai biết là gì thì đồng hoá với Armoire của Tây là ổn.
Danh từ mà ta vay mượn cũng cho ta thấy rõ thời ta bị trị, tức đời Hán. CANH (ăn cơm) là danh từ đời Hán. Ngày nay người Tàu không dùng CANH nữa, và một số người Tàu ít học, không biết rằng Canh là danh từ của họ. Ngày nay họ nói THƯƠNG, Quan Thoại đọc là THẢNG, Quảng Đông là THOÓNG.
Và cả ba đều đọc khác nhau cái tiếng Tàu Quan Thoại đó, mặc dầu cả ba đều là Mã Lai hết.
Việt Nam: Cảm tạ
Đại Hàn: Kam sa
Nhựt: Kan sha
Quan Thoại đời Thương, đời Tần có như thế hay không? Quan Thoại đời nay thì khác và cả ba anh đều đọc Quan Thoại trật lất.
Tuy nhiên, nhờ thọ nhiều ảnh hưởng hơn nên Đại Hàn thường đọc tương đối đúng hơn Nhựt và Việt.
Quan Thoại: Cớ mùa
Đại Hàn: Ca mu
Việt Nam: Ca vũ
Nhựt Bổn: Ka bu
Nhưng mặc dầu đọc sai, họ lại sai khá giống nhau tức ở Nhựt Bổn bọn Trãi cũng đông lắm, bằng không, Nhựt đã không đọc theo Quan Thoại mà đọc theo Phúc Kiến, vì bọn Mã và Phúc Kiến đều là con cháu của Câu Tiễn.
Ta đã thấy người Khả Lá Vàng ở đèo Mụ Già nói Cám ơn bằng một tiếng tam âm Tôwaykô. Vài đảo ở Đa Đa Đảo cũng nói như vậy, và ngoài Kan Sha, Nhựt có Arigato, hơi giống Khả Lá Vàng. Cả hai, Khả Lá Vàng và Nhựt đều phát âm Cây là Ki, đều trỏ hướng Bắc bằng danh từ Kita.
Tuy nhiên trong Nhựt ngữ, danh từ của Khả Tu lấn lướt danh từ của các bộ lạc khác của phe Trãi, mà Khả Tu thì không có nói Arigato.
Nói rằng Nhựt chỉ bị hậu duệ của Phù Tô tràn ngập cuối đời Tần, nhưng cả Hàn lẫn Nhựt đều dùng danh từ đời Thương. Thí dụ MUỐI, Hàn nói là SO (gum), Nhựt nói là SHIO. Tự điển Hàn không thấy viết Sogum ra chữ Tàu, còn tự điển Nhựt thì viết chữ DIÊM là Muối Biển. Nhưng xem ra So (gum) và Shio đều do LỖ là MUỐI DIÊM của Tàu mà ra, vì Diêm không thể đọc sai thành Shio được.
Người Nhựt thường đọc khác và viết chữ khác, đọc và viết thường đưa ra một ý niệm mà họ muốn diễn tả, nhưng cả hai thứ đó lại không dính líu gì với nhau hết.
Họ đọc tiếng Tàu không sai nhiều, cớ sao Diêm lại được đọc sai là SHIO? (Muối diêm là muối đào được trong lòng đất (Sel gemme). Đó là LỖ, khác với Muối biển là Diêm).
Cơ Tử, kẻ đi lập nghiệp ở Đại Hàn, chưa biết muối biển. Người Hoa Tây hồi ấy ở quá xa biển nên chỉ ăn muối diêm. Vả lại sử Tàu chép rằng chính Quản Trọng đời Chu trung điệp, đã phát minh ra cách lấy muối từ nước biển thì cho dẫu Cơ Tử đã ra tới bờ biển trước đó, cũng chỉ biết đến món LỖ mà chưa biết đến DIÊM.
Văn minh của bọn Cơ Tử tràn sang Nhựt, trước khi hậu duệ của Phù Tô tới Nhựt, và khi đón tiếp kẻ biết Diêm, Nhựt đã chót nói LỖ rồi, thì không cần sửa đổi nữa làm gì.
Người Tàu văn minh rất sớm, nhưng lại biết muối biển hơi trễ vì nền văn minh của họ phát tích tại cực Tây Trung Hoa. Mãi cho đến đời Quản Di Ngô, họ mới làm chủ hẳn bờ biển nước Tề. Cơ Tử tới Đại Hàn trước họ Quản, nhưng đó là cái Đại Hàn lục địa, chớ chưa phải là cái Đại Hàn bán đảo.
Truyền thuyết Tàu kể rằng kẻ phát minh ra muối biển (diêm) là TÚC SA, nhưng không cho biết kẻ ấy ở đâu, vào thời nào, một cách chắc chắn. Nhưng chuyện Quản Di Ngô thì rõ ràng.
Túc Sa có lẽ quả có phát minh ra cách chế tạo muối, nhưng không phải bằng nước biển, mà bằng cách ngâm muối Lỗ trong nước, vì muối Lỗ bị trộn với đất, đá sỏi, chớ không phải luôn luôn nằm riêng một mình và các dân tộc có địa bàn lục đại đều đã làm như vậy vào cổ thời, và ngay cả ngày nay nữa, là ngâm khoáng sản, đoạn bỏ hết cặn bã, lấy nước mặn mà nấu là có được muối bọt giống hệt muối biển.
Chữ Lỗ là muối đất, không có bộ thuỷ. Thêm thuỷ vào thì thành nước mặn. Đó là phát minh của Túc Sa, với Lỗ. Phát minh của Quản Trọng thì cũng cứ viết với chữ Lỗ ban đầu, có thêm thắt rậm ri, chứng tỏ rằng người Tàu biết Diêm và Lỗ đồng chất, chỉ khác nguồn.
Còn Lạc Địch đã học với Quản Trọng, hay Quản Trọng đã học với Lạc Địch, hoặc cả hai đều phát minh riêng rẽ thì chưa biết, chỉ chắc một điều là cuối đời Thương, Lạc Địch đã mượn danh từ Lỗ của Tàu.
Nhưng sự kiện Lạc Địch mượn Lỗ của Tàu, không chứng tỏ rằng họ không biết tìm Lỗ cũng chẳng biết chế tạo Diêm. Lắm khi chỉ vì chịu ảnh hưởng mà phải mượn danh từ, như ta đã đánh mất khóc, mượn của Tàu, chớ hẳn ta đã biết khóc trước khi gặp Tàu.
Hiện nay trên Cao Nguyên, khi nào đồng bào Thượng mua muối biển của ta không kịp thì họ ăn tro tre. Nhưng đó là vì ở Cao Nguyên không có mỏ Lỗ chớ không phải vì cổ thời họ không biết đến Lỗ. Họ làm chủ Hoa Bắc trước Tàu, mà ở Hoa Bắc thì có nhiều mỏ Lỗ, nhứt là ở cực Tây.
Họ vay mượn khác nhau.
Thí dụ ĐẬU PHỌNG, Tàu gọi là Lạc Hoa Sinh, Việt Nam vay mượn bằng hai lối, như vay theo điệu lười:
I) Trí thức chỉ vay tiếng đầu là Lạc.
II) Bình dân vay tiếng sau là Fa xá mà thực ra thì Tàu đọc khác hai tiếng Hoa Sinh đó.
Quảng Đông: Fá xắn
Quan Thoại: Wá Txấn
Nhựt Bổn vay trọn vẹn, đọc là Rakkasei.
Đại Hàn nói BẠO QUÂN thay cho BẠO CHÚA và HÔN QUÂN, đó là sáng tác phần nào. Người Nhựt cũng thích sáng tác lắm, nhưng thường sáng tác không được ổn. Thuỷ đạo (Suiđôô) được dùng để chỉ cái Aqueduc của cổ Mã Lai thì quá sai. Chỉ cái ống dẫn nước ngày nay lại còn sai hơn. THUỶ THỦ lại bị gọi là THUỶ PHU (Suifu) thì cũng không đúng ở chỗ nào hết. Trạo Phu thì được, nhưng Thuỷ Phu thì không. Tại sao? Thủ dùng để chỉ kẻ làm công ăn lương. Còn PHU thì rất được người Tàu trọng, họ để dành PHU hầu chỉ người có phong cách, như ông chèo thuyền có thể là quan ẩn dật, thánh nhơn, không ăn công của ai hết, thành thử Trạo Phu cao quý hơn Thuỷ Phu, mặc dầu cũng có Trạo Phu "Trạo” để ăn lương, nhưng lại có Trạo Phu tự chủ, còn Thuỷ Phu thì không tự chủ bao giờ.
Ta đã lầm ngỡ PHU của V.N. (mộ phu) là tiếng Tàu. Thật ra đó là tiếng Thái. Phu của Tàu chỉ trỏ đàn ông, còn Phu của Thái chỉ cả nam lẫn nữ, Phu của ta cũng thế.
Chúng tôi đã nói đến trường hợp CANH. Họ không mượn thẳng CANH của Tàu như ta đã mượn, mà sáng tác bằng cách ghép một danh từ Trãi là Món với 1 danh từ Tàu là Thuỷ để tân tạo SUIMÔNÔ = Canh.
Nhưng chợt thấy Thủy Món quá dở, họ bèn ký hiệu Thuỷ Món bằng Hấp Món. Ký hiệu chữ SUI bằng HẤP thì chẳng còn biết đâu mà rờ nữa.
Đành rằng HẤP MÓN là MÓN ĐỂ HÚP, như vậy chỉ canh bằng Hấp Món là đúng, nhưng lối ký hiệu kỳ dị đó, không dính líu gì đến lối đọc. Lối đọc là đọc theo sáng tác thuở còn chưa đọc chữ. Lối ký hiệu thì theo một sự kiện của tư tưởng lâu lắm về sau. Người ngoại quốc học tiếng Nhật phải điên đầu vì ngữ nguyên. Nhưng chưa chắc người Nhật không là trí thức, lại không điên đầu.
Nếu phải sáng tác, Việt Nam sáng tác hay hơn nhiều. Thí dụ chỉ món đá Marbre thì:
Quan Thoại: Ta lỉa xứa (Đại Lý Thạch)
Quảng Đông: Tài Lý Sẹc (Đại Lý Thạch)
Đại Hàn: Tai Ri SOK (Đại Lý Thạch)
Nhựt Bổn: Đairiseki (Đại Lý Thạch)
Việt Nam mượn thẳng danh từ cổ của Tàu là Cẩm Thạch, cổ vì Đại Lý Thạch chỉ mới ra đời vào năm mà dân Thái ở Vân Nam lập quốc, tự xưng là nước Đại Lý, tức rất trễ về sau. Đồng thời, ta lại sáng tác "Đá hoa”, vì loại đá hoa ở Đại Lý ít nhất thế giới và xấu nhất thế giới, không xứng đáng dùng địa danh Đại Lý để gọi nó, mà cần phải sáng tác sao cho nói lên được tánh chất đá phần nào.
Đại Hàn thất lợi quá sức vì hai lẽ:
I) Bọn Lạc bộ Mã không di cư đến đó, nên Đại Hàn nghèo hơn Nhật và Việt quá nhiều. Nói vua Hùng Vương trơ trọi, nhưng chỉ trơ trọi đến 500 năm trước Tây Lịch, còn Đại Hàn thì trơ trọi cho đến ngày nay.
Ông ta là Trãi thuần tuý mà không có bồ gần như Hùng Vương có Khả Lá Vàng, có Mã ở Mân Việt, có Thái ở Tây Âu để vay mượn.
Thành thử ông chỉ biết mượn của Tàu và Mãn Châu, Mông Cổ và sau 5000 năm tách rời, ổng mất hết 80% danh từ Trãi.
Nhìn vào sách Đại Hàn, chúng tôi ngậm ngùi buồn cho một đồng chủng đã mất gần hết ngôn ngữ. Nói họ mượn của Tàu đến 80% danh từ, nhưng cái 20% còn sót lại thì chứa đến 6% danh từ Mông Cổ hoặc Mãn Châu. Tìm được một tiếng Lạc bộ Trãi trong từ điển Đại Hàn thật là suýt cháy con mắt.
Chúng tôi thấy danh từ ECHO (tiếng vang) được họ dịch ra Hàn Ngữ là PAN HYANG chúng tôi mừng rỡ vô cùng vì đinh ninh nó là TIẾNG VANG đọc khác một chút. Đến chừng coi lại chữ Tàu trong đó thì té ra là PHẢN HƯỞNG.
Họ dùng toàn tiếng Tàu đời Thương do Cơ Tử đưa tới, thí dụ NHẬP TỊCH thì là KWI-HWA khiến chúng tôi cũng mừng rỡ, ngỡ đó là tiếng Lạc bộ Trãi, nhưng xem lại chữ Tàu thì ra đó là từ QUÍ HOÁ.
Kẻ nói QUÍ HOÁ thay cho NHẬP TỊCH, lại nói TƯƠNG HỖ thay cho HỖ TƯƠNG và TRÀO THUỶ thay cho THUỶ TRÀO, nói LỢI TỬ thay cho LỢI TỨC.
Lật đến trang chữ F thấy danh từ KINGFISHER thì hỡi ôi, Việt Nam nói CHIM BÓI CÁ, Nam Dương nói CHIM PƠRAKA, còn Đại Hàn thì nói PI CH’ WI đó là danh từ Trung Hoa đời Chu: PHỈ TUÝ. Cho đến chim bói cá cũng phải mượn đến danh từ của Tàu nữa, thì còn gì!
Ai dám bảo ngôn ngữ Đại Hàn là ngôn ngữ An Tai? Nó chỉ là Hoa ngữ, chẳng còn gì An Tai nữa hết, AnTai hiểu đúng, tức vùng Đông Bắc, vùng Mông Cổ, hoặc An Tai hiểu sai, tức vùng Tây Nam, vùng Nhục Chi, cả hai thứ An Tai đó đều hiếm trong Hàn ngữ như danh từ Pháp trong Việt ngữ.
Khi mà một dân tộc gọi Cọp là Hổ, tức Hổ, gọi CHUA là SIN tức TOAN, gọi TRẮNG là PACK SACK, tức BẠCH SẮC thì dân tộc đó đã mất hết cả rồi.
Cũng nên nhắc là Đại Hàn là nước YÊN của thời Xuân Thu Chiến Quốc trong một thời gian khá lâu. Đó là một tiểu bang Trung Hoa thời Tôn Tẩn hạ san, thì còn gì là Lạc Địch nữa.
Xem chuyện Đông Chu liệt quốc, ta thấy chép "Vương Bí của nước Tần, được lịnh giết nước Yên bèn đem quân sang sông Áp Lục, hạ thành Bình Nhưỡng (kinh đô Bắc Hàn thời nay) bắt vua Yên đưa về Hàm Dương”.
Nước Yên đó, không phải là nước Hàn, mặc dầu dân là dân Hàn. Nước ấy đã bị chinh phục, bị trực trị, sau khi đã bị bọn Cơ Tử tràn ngập từ cuối đời nhà Thương, tức là đã bị Tàu tràn ngập gần 1000 năm trước khi bị cán bộ Trung Hoa cướp lấy để lập ra nước Yên, đóng đô tại thành Bình Nhưỡng, thành này đến nay vẫn còn.
Sau đó, họ lại bị Tàu trực trị nhiều bận nữa, tức trước sau cộng gần 2000 năm bị trực trị, thì dẫu cho thu hồi độc lập được, vẫn mất mát quá nhiều.
Ta đã biết ba ngàn quân của Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Địch, ảnh hưởng đến dân tộc Việt Nam vào thế kỷ 17 như thế nào, thì ta biết được bảy ngàn quân của Cơ Tử đối với Đại Hàn 2700 năm trước đó như thế nào.
Đành rằng 2700 năm trước khi Nông Nại Đại Phố được xây dựng, người Tàu còn kém, nhưng người Đại Hàn còn kém hơn người Tàu nhiều bực, không như ta, đã có đủ danh từ rồi, hồi thế kỷ 17, tại Nam Kỳ, thế mà Nam Kỳ đã bị tiếng Tàu chi phối hơi nhiều.
Thế nên không trách Đại Hàn đã mất quá nhiều căn bản Lạc Dịch, tức Lạc bộ Trãi.
Thằng đốt nhà được gọi là Pang hwa pom in tức phóng hoả phạm nhân, đáng khen được diễn là Kam bok = Cảm phục.
Ta nói HỖN ĐỘN nhưng cũng nói LỘN XỘN, RỐI REN, XÔ BỒ, BỪA BÃI, họ chỉ có HỖN ĐỘN, ta nói AN LẠC rất ít mà nói DỄ CHỊU thường hơn họ, họ chỉ có AN LẠC mà thôi, ta nói DÍNH LÍU, DÍNH DÁNG, ĂN NHẰM, ĂN THUA, ĂN CHỊU, họ chỉ có KWAN GYE = Quan hệ.
Bọn Cơ Tử thành công hơn cả Tần Thỉ Hoàng ở Ngũ Lĩnh nữa vì người Phúc Kiến còn giữ được 200 danh từ Mã Lai.
Các nhà tiền sử học chê chứng tích ngôn ngữ, họ cũng có lý chớ chẳng phải không. Ở châu Âu, các dân tộc không có bị một ngoại chủng xâm lăng, mà tất cả đều thuộc chủng Ấn Âu, nên ngôn ngữ của họ tương đối đầy đủ sau 5 ngàn năm. Ở Á Đông, tình thế có khác vì Hoa chủng xen vào.
Muốn chứng minh rằng Đại Hàn và Việt Nam đều là Lạc Địch, tức Austroasiatiques thì chỉ có sọ và lưỡi rìu tay cầm là dùng được, còn ngôn ngữ thì không. Kể cả cái luật hạn chế của Swadesh, cũng không dùng được, nhà ngữ học ấy rất hạn chế số danh từ đồng gốc tổ là hai trăm, không cần phải nhiều hơn.
Nhưng giữa ta và Đại Hàn, không đủ 200 danh từ giống nhau. Giữa ta và Nhựt thì có hơn 200, nhờ Nhựt ít thọ ảnh hưởng của Tàu hơn Đại Hàn, vậy sự can thiệp của ngoại chủng đã làm sai lạc luật Swadesh. Tuy nhiên trừ Đại Hàn ra thì giữa ta và các dân tộc gốc Mã Lai khác, có thừa một ngàn danh từ, tức chứng tích ngôn ngữ còn đầy đủ, sau 5 ngàn năm phân ly. Sở dĩ chúng tôi làm một quyển "Tự vựng đối chiếu 10 ngàn từ” được là vì ta giống mỗi nhóm một ít, chớ nếu chỉ nhắm vào một nhóm độc nhất thôi thì không sao mà đi quá một ngàn từ được.
Nhưng kỳ lạ thay có vài danh từ chung cho đại khối Mã Lai, tức danh từ của Âu và Lạc, tức có Lạc Trãi và Lạc Mã trong đó, thì họ còn giữ được. Thí dụ MÁ (gò má) thì Việt Nam vay mượn của ai, chúng tôi truy mãi mà chưa ra, chớ Tàu không nói như vậy. Chữ Nho Má là GIÁP và KIỂM.
Nhưng:
Đại Hàn: Piam
Nam Dương: Pipi
Thấy rõ là hai danh từ trên đây đồng gốc, và chắc chắn không thể do Kiểm do Giáp của Tàu biến ra được, mặc dầu tự điển Đại Hàn vẫn viết chữ GIÁP để dịch chữ Piam, nhưng chúng tôi thấy họ viết liều vậy thôi.
Danh từ KAM của Thái kìa, mới do KIỂM của Tàu, không thể chối cãi được. Đại Hàn mất quá nhiều, mất gần hết, khiến ta tuyệt vọng đến chết được chớ chẳng chơi và hễ ta tìm thấy một tiếng Lạc Trãi là ta mừng như trúng số độc đắc.
Nhựt rất nghèo âm B còn Đại Hàn thì không có âm B, bởi vì người Tàu pán pánh pò giò chó quảy mà không bán bánh bò giò chó quảy.
Một vị giáo sư Nhựt ngữ nói cho chúng tôi biết rằng phân nửa nước Nhật phát âm L không được. Có lẽ toàn quốc Đại Hàn phát âm B không được cũng nên. Nhưng lạ lắm là trong Hàn ngữ còn danh từ bắt đầu bằng âm L còn trong Nhựt ngữ thì tuyệt đối không có.
Trong khi đó thì Nam Dương lạm phát âm R, cái âm R thân mến của người Ba Tư và Ấn Độ. Nhưng cả hai cái lưỡi Đ.N.A và Đ.B.A. đều là lưỡi Mã Lai, thế mà văn hoá đã tạo ra được cả bịnh tật về cơ thể như thế đó.
Tại sao đa số người Rạch Giá nói Con gùa gục gịch k(ch)ong gổ gau găm (Con gà rục rịch trong rổ rau răm)? Chúng tôi e rằng cũng có một cuộc hợp chủng đồng tánh cách với Đại Hàn và Nhựt Bổn, tại tỉnh Rạch Giá của ta mà người dân phát âm âm R không được. Nhưng hợp chủng với ai?
Đại Hàn và Nhựt Bổn đều là Mã Lai, y như ta, nhưng không hiểu sao họ lại quá nghèo âm. Ta cứ nghe người Đại Hàn đọc tiếng Tàu như sau:
Ku thay vì Khu
Ku thay vì Cửu
Ku thay vì Cú
Còn đây là Nhựt đọc tiếng Tàu
Su thay vì Sào (huyệt)
Suu thay vì Số
Shu thay vì Chu (Đỏ)
Shu thay vì Thứ
Shu thay vì Thứ
Shu thay vì Chúa
Shu thay vì Chủ
Shu thay vì Thi (Thơ)
Shuu thay vì Chúng
Shuu thay vì Chúng
Shuu thay vì Châu (Á Châu)
Shuu thay vì Tuần (lễ)
Và chính vì sự nghèo nàn về âm đó, khiến nhiều người Việt Nam, cũng thông tiếng Nhựt, ngộ nhận về Nhựt ngữ.
Nhiều người Việt giỏi Nhựt ngữ, than phiền rằng chữ Nhựt nghèo âm, PHỤ là Cha, họ đọc là Tôô, mà ĐIỂU là CHIM họ cũng đọc là TÔ v.v.
Sự thật thì không phải thế, mặc dầu Nhật ngữ quả có cơ hàn về mặt ÂM thật đó.
Xét kỹ ra thì người Nhật đọc sai tiếng Tàu không bao nhiêu, nhiều lắm cũng chỉ như ta là cùng. Thí dụ: DƯƠNG PHỤC (Âu phục) họ đọc là YOFU. Thế thì tại sao họ lại đọc PHỤ là TÔÔ mà không là FU?
Ta không biết tại sao, mà chính các nhà bác học Nhựt cũng không biết tại sao, vì không ai biết rằng Nhựt đã quên tất cả ngữ nguyên danh từ của họ.
TÔÔ là danh từ của Lạc Địch, tức Lạc bộ Trãi. Nhưng người Nhựt không còn biết nó là của ai nữa, nên tưởng là họ vay mượn của Tàu mà đọc sai, và họ viết chữ PHỤ để ký hiệu chữ TÔÔ.
Đó là một sự ký hiệu bậy bạ và quên gốc, quên ngữ nguyên, chớ không phải là đọc sai tiếng Tàu PHỤ ra TÔÔ bao giờ cả.
Chúng tôi không có học ở trường Nhựt bao giờ, nên không biết tình hình văn tự của người Nhựt ra sao cả. Chúng tôi mò mẫm qua các sách vở, và đây là lời giải thích của giáo sư Châm Vũ Nguyễn Văn Tầm, trong tác phẩm "Nhật Bản sử lược”: "… chỉ với một chữ To (đọc là Tô), còn ai biết được nghĩa chữ Tô nào? (vậy) nhờ giả danh phiên âm và chua chữ Hán giúp… dễ lĩnh hội”.
Lời giải thích trên đây rất minh bạch, nhưng chúng tôi cứ thấy còn cái gì trục trặc trong văn tự của Nhựt (chớ không phải trong lời giải thích) một khi ta biết rằng họ có 35% danh từ của Lạc Địch và của Nam Dương.
Nó kỳ ở cái chỗ họ chua chữ Hán không ổn, chứng tỏ rằng họ quên ngữ nguyên của họ.
Đây là một danh từ được chua chữ Hán: SANADAMUSHI. Họ chua là Chân Điền Trùng. Nhưng theo chỗ chúng tôi biết (nhưng không dám bảo đảm) thì trong Hoa ngữ không có danh từ Chân Điền Trùng. Thế thì chua chữ Hán cho người ta hiểu, mà người ta lại càng không hiểu hơn thì làm sao bây giờ.
Tôi cứ suy luận như là tôi thông chữ Hán, và quả Hoa ngữ không có danh từ Chân Điền Trùng, cho đến chừng nào được ai dạy rằng trong Hoa ngữ có danh từ đó rồi sẽ hay.
Vậy tôi suy luận rằng họ chua chữ Hán với mục đích nào khác chăng? Chớ không phải chỉ để giúp hiểu vì có quá nhiều danh từ đồng âm.
Trong trường hợp này thì tôi lại biết rằng Sanadamushi là tiếng Việt Nam, hay nói cho đúng, là danh từ của Lạc bộ Trãi mà riêng nhóm Việt Nam, phát âm là SÁN SÂU, còn nhóm Nhựt thì phát âm như thế đó, còn Chân Điền Trùng chỉ là mượn âm của Tàu, để ký hiệu vậy thôi, bất cần Tàu có danh từ đó hay không. (Và tại sao lại không là Sâu Sán, mà lại là Sán Sâu thì ta sẽ biết lát nữa đây, ở cuối Chương này)
Nếu quả đúng như tôi đã tìm biết, thì rõ ràng họ chua chữ Hán không ổn chút nào hết, mà không ổn vì họ không còn biết danh từ của họ do đâu mà ra nữa. Họ chua lộn xộn ở nhiều danh từ, không có nguyên tắc, qui củ, chứng tỏ họ đã quên ngữ nguyên cho cả những danh từ gốc Hoa rõ rệt.
Thí dụ đối với chữ HAKO là cái HỘP, họ chua là SƯƠNG. Nhưng chữ SƯƠNG của Tàu, có thể biến ra thành chữ Hako được hay không? Chúng tôi thấy là không, vì chúng tôi biết rằng Nhựt đọc tiếng Tàu sai không nhiều, và nếu Sương biến dạng thì nó biến theo một cái luật, y hệt như trong Việt ngữ cũng có luật như thế. Trong Nhựt ngữ thì
S Tàu = S Nhựt.
ƯƠNG Tàu = Ôô Nhựt.
Thí dụ: Sa Đường = Satôô.
Thế thì tại sao Sương lại biến thành Hako?
Nếu có danh từ Tàu nào biến được thành HAKO thì danh từ đó phải là HẠP.
Vậy họ đã chua theo một sự kiện của tư tưởng, hơn là theo cái biết về ngữ nguyên. Họ thấy cả SƯƠNG lẫn HAKO đều chỉ một ý niệm là cái Hộp, họ bèn chua bằng chữ Sương. Điều đó không sao, miễn thiên hạ hiểu là đủ rồi, nhưng nó lại chứng tỏ, như đã nói, họ không còn biết danh từ của họ do đâu mà ra nữa, cả những danh từ Nhựt gốc Hoa.
Một danh từ gốc Hoa thứ nhì, cũng thấy tự điển Nhựt viết sai. Về chén bát ăn cơm, Tàu có hai danh từ mà ta mượn Bát, Nhựt mượn Uyển đọc là Wan. Nhưng khi họ chua chữ Hán thì họ lại viết chữ UYỂN bộ Mộc là cái chén nhỏ bằng ngón chơn cái, dùng để uống rượu. Thế mà họ định nghĩa rằng đó là chén ăn cơm.
Chén ăn cơm, phải là chữ Uyển viết với bộ MÃNH, nó to lớn, mới ăn cơm được.
Thế nghĩa là họ quên cả nhưng ngữ nguyên gốc Hoa là cái gì họ rất thạo, và viết sai là lại quên gốc, chớ không phải kém chữ Hán mà họ rất giỏi.
Trong trường hợp đó, dĩ nhiên là danh từ SARA là cái dĩa, vốn là của Mã Lai, được họ chua chữ Hán là MÃNH. Nhưng Mãnh của Tàu lại không có nghĩa là cái dĩa. Cái đĩa là ĐIỆP mà Quan Thoại đọc là Tẻ (người Việt miền Nam gọi cái món đó là Dĩa, thì thật là không biết học của ai).
Xin trở lại với Sanadamushi.
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì thuở xưa, toàn thể Mã Lai đều có cú pháp như Việt Nam. Nhựt mới thay đổi từ trên một ngàn năm nay, chớ xưa kia, họ nói Mushi San, hoặc Mushi Sana, hoặc Mushi Sana da, tuỳ theo cái đuôi của danh từ Sán (xơ mít) đã mọc dài tới đâu, khi họ đổi cú pháp thì nó đã mọc dài ra tới Sanada rồi, thế là Sanada Mushi. Rồi họ lại viết dính các danh từ ghép của họ lại, sau thời canh tân sau cùng, tức mới có mấy trăm năm nay, và nó hoá ra là Sanadamushi.
Nhưng Sanadamushi đã được ký âm bằng chữ Hán trước cả Chúa Giáng Sinh nữa, vì đó là danh từ của bọn Trãi là chủ cũ của Nhựt, chớ bọn Mã, nói khác, họ nói là SÂU DÂY, một danh từ rất hay và khá giống lối nói của người Anh là Tape Worm.
Bọn Trãi học chữ Hán với hậu duệ Phù Tô. Bọn Mã tới sau, học lại của bọn Trãi. Và cả hai bọn đều tiếp tục nói và viết là Chân Điền Trùng, nhưng bọn Mã chẳng hiểu gì hết, mặc dầu có dùng danh từ đó.
Bọn Trãi thua trận, nhưng lại biết chữ, nên được nể nang, và danh từ của họ cạnh tranh với danh từ của bọn thắng trận, và đại thắng, y hệt như ở Việt Nam danh từ của bọn Mã, Con Chó, lại thắng danh từ của vua Hùng Vương, Con Cầy.
Đối với bọn Trãi, Chân Điền Trùng chỉ có nghĩa là con trùng tên là San, nhưng âm ĐA đã trót có thì họ cũng ký hiệu vậy thôi mà không kể đến.
Mãi cho đến sau thời Nại Lương, họ bày ra Phiến và Bình giả danh thì hai bọn đã quên mất Sanadamushi do đâu mà ra, đành cứ tưởng là của Tàu, mặc dầu Tàu gọi con đó là Bạch Thốn Trùng, chớ không là Chân Điền Trùng.
Vậy chua chữ Hán là có tham vọng trình ngữ nguyên, nhưng lại trình lầm, lầm vì cấp lãnh đạo tuyệt đối không biết hai tiếng kép Sanada và Mushi có nghĩa gì hết, vì như đã nói, họ gọi con đó là Sâu Dây, nhưng Sâu của họ là ULAT chớ không phải là Mushi, còn kẻ có danh từ thì lại quên gốc vì bị đè dưới cả hai ảnh hưởng lớn là di cư Trung Hoa và bọn Mã thắng trận.
Chúng ta đã thấy ở Chương I và II, rằng dân tộc nào cũng đã quên hàng ngàn danh từ của họ thì bảo rằng bọn Trãi ở Nhựt quên Sanadamushi, hay nói cho đúng, quên Sanada, không có gì gượng ép cả.
Ở đây, chỉ là quên ngữ nguyên thôi, chớ họ vẫn hiểu rằng con đó trỏ con Sán (Xơ mít).
Chúng tôi suy luận thế đúng hay không? Nếu là bọn sau ký hiệu, mà có quên đi nữa, họ đã ký là Bạch Thốn Tùng, y như trong trường hợp HAKO ký là Sương, tức ký theo sự kiện tư tưởng, với hai mục đích:
1. Dùng đúng tiếng Tàu
2. Giúp hiểu ý niệm
Còn ký hiệu có ăn khớp hay không thì bất kể, vì chính bọn sau cũng đã quên HAKO do cái gì mà ra.
Đằng này sự ký hiệu Sanadamushi lại bất kể tuốt mục đích thứ nhứt là dùng tiếng Tàu thì ta phải hiểu rằng chữ Tàu ấy chỉ dùng để mượn âm, do bọn trước vay, rồi bọn sau, vì không biết, nên tưởng là danh từ Trung Hoa, nên cứ để vậy.
Không phải chỉ vì một danh từ Sanadamushi mà chúng tôi thấy những điều trên đây, mà còn vì vô số danh từ khác.
Chữ Hán, thấy rõ ràng là một cái kho để cái gì không biết gốc là họ dồn hết vào đó.
Sự gán ghép ấy, có hai lối:
I) Gán ghép đúng nghĩa, nhưng không ăn khớp với giọng đọc. Thí dụ MICHI là danh từ Nam Ấn, có nghĩa là con đường thì họ chua bằng chữ Đạo, có nghĩa hẳn hoi, nhưng sao ĐẠO lại đọc là MICHI? Họ đọc ĐẠO là ĐOO, thấy quá rõ trong danh từ Shinitoo = Thần Đạo, chớ có đọc là Michi bao giờ.
II) Gán ghép bằng cách viết càn, sao cho đúng với câu đọc của họ, Tàu không có danh từ đó cũng được, như Chân Điền Trùng trên đây chẳng hạn, miễn phù hợp với âm đọc của chính họ. Phải ghi chữ Tàu vì phân nửa nước Nhựt chẳng biết Sanadamushi là gì, chớ không phải vì sợ trùng âm.
Đây là ba lối đọc chữ KHÚC của Tàu.
Đại Hàn: Kok
Việt Nam: Khúc
Nhựt Bổn: Kyoku
Nhựt đọc thành nhị âm, nhưng viết ra chữ, họ chỉ viết có một chữ Khúc, chớ không là Khúc+Ku, vì họ biết chắc Kyoku do Khúc mà ra thì cái đuôi Ku vô nghĩa, không cần cho ký hiệu nào hết.
Trái lại trong động từ NAKI của Nam Dương, mà họ dùng như là tĩnh từ, thì họ không biết gốc nên họ chua là Vong + Ky.
Ở đây chỉ vì không biết nên ký hiệu cho đủ âm, người ta có Ki, mình cũng phải có Ki, mặc dầu một chữ Vong là đủ nghĩa Naki rồi, khác hẳn với ở Kyoku mà họ biết chắc 100% rằng KU không cần được ký hiệu, vì chữ nguyên là KHÚC, không có KU.
Thế thì lối chua chữ Hán của Nhựt phải có mục đích khác hơn là xóa lầm âm, mục đích ấy, theo thiển ý là hễ danh từ nào mà họ không biết của ai là họ bỏ vào bị Trung Hoa hết thảy, còn hễ biết thì họ viết bằng Bình giả danh hoặc Phiến giả danh.
Nhìn vào tự điển Nhựt, ta thấy họ bối rối lắm, và thường làm sai. Thí dụ với hai động từ NAKI, một của Nam Dương, một của Lạc Địch, tức một của Lạc bộ Mã, một của Lạc bộ Trãi.
Hai động từ đó, phải được hồi phục lại bằng một xâu chuỗi biến dạng, mới biết ngữ nguyên của nó.
I) NÁKI: Chết
II) NAKI: Khóc (Nakijakuru)
Động từ thứ nhất là của Lạc bộ Mã:
Nam Dương: Mati
Việt Nam: Mất
Chàm xưa: Mati
Chàm nay: Mưtại
Chàm Bình Tuy: Htai
Thái: Tai
Nhựt: Naki
Cấp lãnh đạo ở Nhựt là Lạc bộ Mã. Thế mà họ cũng quên danh từ của chính họ, vì nay họ dùng như tĩnh từ, tương đương với CỐ của Trung Hoa và FEU của Pháp.
(Nhưng kỳ lạ thay, khi chua chữ Hán, họ lại không chua là CỐ, mà chua đúng nghĩa cổ thời là Vong.)
Tuy nhiên, không phải chỉ có VONG mà là VONG + KI.
Thấy rõ là họ đã quên đầu đuôi hết. NAKI là một khối không thể tách rời ra và có nghĩa là VONG, y hệt như Kyoku là Khúc. Thế sao Kyoku không là KHÚC + KU, mà Naki lại là VONG + KI?
Phải chăng họ không biết Naki do đâu mà ra, nên cẩn thận biên hết các âm vào, mặc dầu một chữ Vong là diễn tả đủ hai âm Vong + Ki.
Viết như vậy chừng hai thế hệ là dân Nhựt đã tưởng NA là đọc sai tiếng Tàu VONG và Ki là cái đuôi vô nghĩa.
Động từ Naki thứ nhì, đúng theo Nhựt là Nakijakuru lại còn cho thấy họ sai rõ rệt, vì không biết nó do đâu, nên họ phân tách lầm lẫn:
Na + Kijakuru
Động từ đó, đúng thật là: Naki + Jakuru
Hai lối ký hiệu ấy, khác nhau rất xa:
Na + Kijakuru
Naki + Jakuru
Người Nhựt bắt chước Tây, viết dính lại tất cả, nên không thấy là có khác, nhưng khi họ chua bằng chữ Hán thì lối tách hai ra của họ, thấy rõ là họ tách sai. Mà tách sai, vì không biết nó do các yếu tố nào họp thành.
Khi họ ký hiệu thì như thế này:
Na = Khấp
Kijakuru = bằng Bình giả danh
Họ định nghĩa: Khóc lên tiếng (Sangloter)
Thấy rõ là ký hiệu không ăn khớp với định nghĩa.
KHẤP là KHÓC THẦM, thế mà lại định nghĩa là khóc lên tiếng = Sangloter thì còn gì là chữ Tàu nữa.
Đây là chữ Hán:
Khấp = Khóc thầm
Khốc = Khóc lên tiếng
Người Nhựt rất giỏi tiếng Tàu. Thế sao ở đây họ lại lầm?
Họ lầm vì không biết ngữ nguyên mà hễ không biết thì muốn viết sao cũng được, miễn định nghĩa đúng với lối hiểu của dân chúng là đủ rồi.
Thật ra thì đó là động từ của Lạc bộ Trãi mà riêng nhóm Việt Nam phát âm là NẤC.
Mà như thế thì phải là:
Naki + Jakuru
Chớ không là:
Na + Kijakuru
Dầu sao, người Nhựt sau này cũng hiểu: Na = Khấp
Na = Vong
Nhưng không có Na nào có nghĩa gì cả, mà chỉ có NAKI mới có nghĩa ở cả hai động từ.
Những cái mà họ biết ngữ nguyên đúng, họ viết rất đúng. Thí dụ từ ngữ KAKKO.
Họ viết ra chữ là KAKKO NI, Kakko bằng hai chữ Tàu CÁC HỘ, NI bằng Bình giả danh.
KakkoNi = Nơi mỗi gia đình
Thì phải có Ni là Nơi, (tức INI của Nam Dương bị co rút).
Chính sự chua thật đúng nầy lại cho thấy ở các nơi khác là sai, mà sở dĩ vì có thật đúng và có sai, là vì có cái họ nhớ ngữ nguyên, có cái họ quên, chớ nếu ở đây họ cũng quên thì không làm sao mà có chữ NI mọc ra thinh không, trong khi danh từ chỉ là KAKKO gọn lỏn. So:
Vong + Ki = Naki
Các hộ + Ni = Kakko
Ta thấy KI không được họ hiểu là gì, nên nó thừa, thừa vì Vong là quá đủ. Còn NI thì được biết chắc, cho nên mặc dầu danh từ không có NI, Ni cũng được viết ra cẩn thận.
Mà viết cũng hữu lý lắm. Các hộ gốc Hoa thì viết bằng Hán tự còn Ni gốc Mã Lai, tức gốc Nhựt thì viết bằng quốc tự của Nhựt, thật là rõ ràng, minh bạch.
Ở các nơi khác thì hỗn loạn, thí dụ San Hô (Sanggo) là danh từ của Trung Hoa, lại được viết bằng Bình giả danh, còn TORI (chim) là danh từ của Lạc bộ Trãi, lại được viết bằng chữ Tàu. Mà đừng tưởng Sanggo nằm một mình, nên không sợ lầm âm, nên không cần chữ Hán, bởi Sản Hậu, cũng được phát âm là Sango và cũng nằm kế cận San Hô, thì rất dễ lầm âm.
Ta thấy danh từ MONO của Nhựt mà đứng ở vế thứ nhì của một danh từ ghép thì không thể lầm âm với cái gì hết. Thế mà họ vẫn cẩn thận chua là Vật, thì quả họ có tham vọng trình ngữ nguyên, chớ không phải sợ lầm âm nữa. Và ở đây, họ cũng trình lầm vì đó là một danh từ của Lạc Địch chớ không phải của Tàu, mà các nhóm phát âm như sau:
Lạc Địch Đại Hàn: Mul
Lạc Địch Việt Nam: Món
Lạc Địch Nhựt Bổn: Mono
Tại sao người Nhựt lại dễ quên quá nhiều ngữ nguyên của họ hơn các dân khác. Là tại họ thích sáng tác, mà lại sáng tác rất loạn, ghép ngôn ngữ nầy với ngôn ngữ nọ lại, nên sau, chừng hai trăm năm thì phải bí.
Sự sáng tác, rất có lợi mà cũng rất hại. Thí dụ Lạc bộ Trãi chỉ có một danh từ là ANO để chỉ ANH và CHỊ. Như vậy là dở, thành thử Nhựt sáng tác ANI và ANE với độc một danh từ ANÔ. Vậy là tài (ta không biết sáng tác, biến Ani thành Anh và đành mượn Chị của Tàu. TỶ, Quan Thoại đọc là CHÈ, ta đọc là CHỊ)
Nhưng khi sáng tác loạn lên thì nó gây rối loạn.
Ta cứ nhìn vào danh từ của ta và của Pháp thì ta biết rõ nguyên nhơn tại sao Nhựt lại quên.
Pháp tạo danh từ với ngữ căn Hy và La. Học giả của họ chỉ biết Hy La là truy ra được tất cả. Những danh từ không do Hy La mà do Mã Lai Nam Dương chẳng hạn, thì lại được tự điển của họ cho biết nguồn gốc ngay lối 20 năm sau khi được tân tạo. Họ không bí.
Ta, ta cũng làm với chữ Tàu, nên ta không bí. Nhưng khi ta làm thế với danh từ không của Tàu là ta bí chết đi, vì tự điển của ta không cập nhựt hóa, hoặc chưa có tự điển thuở tân tạo.
Người Nhựt đã lâm vào cảnh của ta, nhưng họ bí hơn ta vì họ chưa học đủ thứ ngôn ngữ Á Đông như ta.
Nguyên tắc của Việt Nam là không bao giờ ghép chữ Tàu với chữ Việt để làm một danh từ. Nhưng Nhựt rất ưa làm như vậy. Chúng tôi đã nói đến danh từ SUIMONO của họ. Họ không mượn thẳng của Tàu danh từ Canh như ta mà ghép Sui (Tàu) và Mono (Nhựt). Chúng tôi đã đoán rằng đó là Thủy+ Món vì quả họ đọc Thủy là Sui. Nhưng họ lại chua chữ Tàu rằng là Hấp + Mono.
Một người bạn Trung Hoa của chúng tôi, đọc bản thảo của chúng tôi rồi cười ha hả và nói: "Ông Nhựt ghép chữ đã dị kỳ, viết chữ Tàu cũng kỳ khôi, anh lại dốt chữ Tàu cái nữa thì loạn hết. Sui của Nhựt, không do Thủy đâu, mà do XUYẾT. Trung Hoa có hai động từ chỉ sự HÚP CANH là Hấp và Xuyết, chớ không phải chỉ có một như anh và ông Nhựt đã tưởng.
Quả thật tôi chỉ biết Xuyết là nước canh, mà không hề biết Xuyết là Húp canh. Nhưng dầu sao, Nhựt cũng đã quên SUI do đâu mà ra nên mới viết là Hấp. Thủy hay Xuyết gì, cũng không thể biến thành Hấp được bao giờ cả.
(Luật M. Swadesh lại được chứng minh bằng cả Hoa ngữ nữa, vì từ đời nhà Chu đến nay, ta thấy danh từ Canh của Trung Hoa bị thay đổi ba lần rồi.)
LANG: Đời Chu, thấy được trong Kinh Thi
Canh: Đời Hán.
Thương: Danh từ hiện kim có lẽ đã già gần một ngàn năm rồi, và có thể sắp bị thay đổi nay mai. (Các nhà ngữ học quốc tế vì đố kỵ chăng mà công kích luật ấy quá dữ, nhưng luôn luôn ta thấy luật đó đúng ở rất nhiều trường hợp).
Đó là Tàu ghép với Nhựt, tức dễ biết, vì Nhựt rất thông chữ Tàu, mà họ còn quên như thế thì với ngôn ngữ khác, còn loạn hơn nữa.
Thí dụ điển hình là danh từ NGÀ VOI của họ. Họ lấy một danh từ của Lạc bộ Mã ở Nam Dương là GHI là cái Răng và họ biến thành GÊ để ghép vào với một danh từ của Lạc Địch là Yô mà hiện Thượng Việt đang dùng (Mạ, Xi Tiêng, Mnong Gar) nhưng riêng Trãi Nhựt thì đọc là Zoo. Vậy.
Zooge (đọc là zôghê) = Ngà voi.
Phân nửa nước Nhựt, bọn Trãi, không biết GE là gì, phân nửa khác không biết ZOO là gì.
Dĩ nhiên là trong tình thế đó, họ phải viết ra bằng Hán tự là Tượng Nha, bằng không, Trãi chẳng biết một phần tử của danh từ, Mã lại bí về phần tử khác, chớ Zoo-gê thì không có trùng âm với danh từ nào khác mà phải chua chữ Hán.
Nhưng sáng tác Zooge coi vậy mà không quái gở bằng nhiều danh từ khác bởi dầu sao Lạc Địch và Nam Dương đều là Mã Lai với nhau cả.
Động từ ĐI ĐÊM của Nhựt là một cái gì làm cho cả người Nhựt cũng ngẩn ngơ, vì họ ghép một tiếng tàu là Dạ mà họ đọc là YÔ với một tiếng Nam Ấn là MICHI. Đúng là INDO CHINA.
Nhưng họ nào có biết rằng Michi là của Nam Ấn, bởi họ chỉ sống chung với Ấn có lối một trăm năm tại Nam Dương rồi thì ly khai đi Nhựt, họ có học, nhưng học theo lối người Thái học tiếng Tàu, tức học không thấy, không biết căn bản, rồi quên là của ai.
Nhưng MICHI chỉ là CON ĐƯỜNG thì Yomichi là Con đường ban đêm, tức danh từ, thế thì làm sao mà là động từ ĐI ĐÊM được?
Thế nên, họ ghép thêm một động từ Nam Dương là CHUKU mà họ biến thành SURU có nghĩa là Làm, tức:
YOMICHISURU = Làm con đường đêm = Đi đêm
Hoa + Ấn + Nam Dương
Nhưng nào có giản dị thế đâu, trước SURU họ thêm một tiếng đệm là Ô.
Kết quả YO được hiểu, vì tiếng Tàu là văn hóa ở Nhựt. Nhưng phân nửa nước Nhựt, bọn Lạc bộ Trãi, phải học Ô sư rư. Và toàn quốc không hiểu tại sao ĐẠO thường được đọc là ĐOO, nhưng ở đây, lại được đọc là Michi.
Nếu họ không viết Michi bằng Bình giả danh, chắc họ sẽ không thắc mắc vì ngỡ rằng đó là quốc ngữ của họ, tự nhiên tổ tiên họ đã sáng tác ra thế như tổ tiên bọn Mã đã sáng tác Tàng (Đường) và tổ tiên bọn Trãi đã sáng tác Truông.
Tại sao Parasol là ngoại ngữ, được ký hiệu bằng Phiến giả danh, còn Michi cũng là ngoại ngữ mà được viết bằng chữ Tàu? Là tại họ không còn biết Michi do đâu mà ra, và đổ trút cho Tàu tất cả những ngữ nguyên mà họ bí.
Ari = Con Kiến, là danh từ của Khả Tu. Người Nhựt cũng nói như vậy, nhưng viết ra chữ NGHỊ của Tàu, khiến ai cũng ngỡ Ari do NGHỊ đọc sai, mà có lẽ chính họ cũng tưởng như vậy.
Người Mạ nói IRAU = Rửa. Nhựt nói Arau. Nhưng họ đọc là Ara Ư. Thành thử họ viết Tẩy + Ư, Tẩy được viết bằng tiếng Tàu, Ư bằng Phiến giả danh, khiến ai cũng tưởng rằng Tẩy được đọc sai là Ara, còn Ư là cái gì đó chẳng biết nữa.
Thế nên ta mới thấy KARAI của Nam Dương được đọc là Kara I và được viết là Tân + I mặc dầu KARAI, Việt Nam nói là CAY, Tàu nói là LẠT, chớ không phải TÂN, nhưng viết bằng chữ Tân hay chữ Lạt gì, ai cũng ngỡ Kara do Tân mà ra và I là cái gì đó không biết.
(Nhựt Bổn cho Kara I hai nghĩa: Cay và Mặn, mặc dầu họ đã có Shikê, diễn được ý niệm Mặn. Tàu không có ỚT, họ gọi Ớt là Lạc Tiêu, tức Tiêu Cay. Vào hiệu ăn của Tàu, ta thường nghe họ gọi ớt cho khách: "Laạt chéo lớ!” Người Tàu chỉ dùng Tân trong văn chương và y khoa còn trong việc bếp núc thì họ dùng Lạt).
Thế thì chữ TE đọc là THÊ là Bàn tay, chưa chắc gì do chữ Thủ của Tàu mà ra, mặc dầu họ đã viết chữ Thủ, bằng chứng là đồng bào Thượng trên Cao Nguyên hiện nay gọi bàn tay là TI, TAI, ĐAI, TÊ và THÊ.
Thủ, Tàu đọc là Xủ mà âm Xủ của Tàu biến thành âm Thủ của Nhựt được chăng? Trái lại Nhựt Bổn có phát âm Tê với âm Đ y như Cao Miên, trong từ ngữ SUĐÊ của họ.
Thê = Xủ?
Đê = Xủ?
Lạc bộ Trãi đã phát âm ba cách: Tàu, TH, Đ. Trung Hoa chỉ 1 cách thôi. Nhựt 2 cách. Vậy Thê của Nhựt do Tê, Thê, Đai của Mã Lai mà không do Thủ của Tàu.
Tất cả mọi người Việt Nam đều tưởng rằng TE do Thủ mà ra, vì lối chua chữ Hán của sách Nhựt như thế đó.
Danh từ Phân, Phẩn của Việt Nam và Fun của Nhựt đều do Phấn của Tàu mà ra, thì Nhựt chua là Phân thì rất đúng. Chứ như Kuso thì rõ ràng là danh từ Lạc Địch và nhóm Lạc Địch V.N phát âm là Cứt, mà họ cũng chua là Phấn thì rõ ràng họ không còn biết Kuso là của ai nữa.
Ở đây thì chắc một trăm phần trăm là không vì sợ lẫn âm, bởi hai danh từ tương tự, lại khác âm:
Kuuso = Trống không
Kuusôô = Tưởng tượng, Mộng, Ảo Ảnh.
Đuổi một kẻ khác đi bằng giọng to tiếng, Lạc Địch V.N nói: Cút đi!
Lạc Địch Nhựt cũng nói KUSO SƯ. Nhưng họ cũng chua bằng chữ Phấn của Tàu!!!
Tóm lại, người Nhựt quên rất nhiều ngữ nguyên của danh từ của họ, và chua chữ Hán, không còn là để tránh lầm âm mà là để trình ngữ nguyên, nhưng lại trình lầm.
Cuộc hợp tác giữa hai thứ Mã Lai Trãi và Mã ở Nhựt, giống hệt ở Việt Nam. Ở xứ ta Trãi lãnh đạo, nhưng Mã rất văn minh, thành thử được nể, được ưu đãi, và có sự hòa hợp huyền diệu.
Ở Nhựt thì Mã tới sau, nhưng lãnh đạo, nhưng Trãi lại văn minh cao, nhờ đã học với hậu vệ Phù Tô. Thành thử Trãi ở Nhựt cũng được ưu đãi như Mã ở Việt Nam, và danh từ của Nhựt và của Việt, phong phú hơn của Đại Hàn. Đại Hàn cũng phong phú, nhưng không phong phú về mặt Mã Lai. Mà chỉ nhờ mượn gần toàn bộ của Tàu.
Đây là chủ quan của chúng tôi, nhưng chúng tôi tin mạnh. Nhựt mượn của Tàu nhiều hơn ta, nhưng không đẹp bằng ta. Tác phẩm của họ được Âu Mỹ dịch gần hết, chỉ nhờ họ là đại cường quốc, chớ đọc văn thơ của họ, không thấy hay hơn của ta chút nào.
Ta bị trị, mới thu hồi độc lập, chưa ai biết. Nhưng khi Âu Mỹ dịch xong ta rồi, họ sẽ thấy là ta hơn Nhựt rõ rệt.
Tuy nhiên bộ ngữ vựng chuyên môn thì ta thua họ rất xa, vì ta chưa kỹ nghệ hóa.
Lúc đặt thương điếm ở Hội An, Nhựt có vay của ta hay không? Có, nhưng đó là danh từ độc nhứt ZABON tức PONKAN là trái bưởi. Chỉ có Việt Nam mới gọi trái đó là Bồng. Trãi ở Nhựt thì không biết Bưởi, vì khí hậu ở đó không cho bưởi mọc tự nhiên. Đó là danh từ vay mượn, nhưng chủ nợ không thể lầm lẫn với ai, vì chỉ ta mới gọi trái đó là Bồng.
Cam quýt một lòng, bưởi bồng một dạ.
Hồi còn ở Nam Dương, có trái bưởi, họ gọi trái ấy bằng danh từ Nam Dương mà họ đã đánh mất sau hơn một ngàn năm định cư ở Nhựt. Bọn Trãi ở Nhựt thì không có danh từ vì bưởi không mọc tự nhiên được ở Nhựt. Họ đánh mất danh từ Bưởi của Nam Dương cùng lý do với sự mất mát danh từ Orang- Outang vì không có dịp nói đến.
Nhưng may quá, đó là danh từ vay mượn dưới thời chúa Nguyễn, nên họ còn nhớ gốc, không có viết ra bằng chữ DỨU của Tàu.
Ta, ta không có vay mượn của họ danh từ nào cả, trừ 1 tiếng Tàu là Bồn Tài, mới vay mượn có vài năm nay, dưới hình thức Bonsai.
Những danh từ Nhựt Việt giống nhau là vì chung gốc tổ Mã Lai, chớ không phải vay mượn.
Cũng như Việt Nam, Nhựt Bổn thường dùng cả hai danh từ của Trãi và Mã, để chỉ một ý niệm. Có khi ta thua họ, có khi họ kém ta. Thí dụ họ chỉ có CẲNG (Kaki ( Ashi) mà không có Chơn. Trái lại, có khi ta nghèo hơn họ. Thế là hòa cả làng.
Nam Dương: Đua – Việt Nam: Đôi – Nhựt: Tsui
Thượng Việt: Kap – Việt Nam: Cập – Nhựt: Kappuru
Nam Dương: Masé – Việt Nam: O – Nhựt: Mađa
Thượng Việt: Nếo – Việt Nam: Nữa – Nhựt: Nao
Tánh tình người Nhựt trái ngược nhau và ảnh hưởng đến ngôn ngữ. Họ tồn cổ triệt để, mà đồng thời cũng vong bổn triệt để. Ở Nhựt, cây Soan nhiều cho đến đỗi Pháp gọi cây đó là Soan Nhựt Bổn (Lilas đuôi Japon) thế mà họ không có danh từ để gọi và mượn danh từ Lilas của Pháp, biến thành Rira. Nhưng họ từ Nam Dương di cư lên, mà Nam Dương cũng giàu Soan, cũng có danh từ là Kâyu Đoan Mambu (Cây soan đâu của Việt Nam).
Vậy họ đã ham mới bỏ cũ, đánh mất Kâyu Đoan Mambu, và dùng tiếng Pháp Rira dở hơn Kâyu Đoan Mambu quá nhiều.
E. Làm tự điển
Từ đây, người làm tự điển, không thể theo phương pháp xưa nữa, tức không thể chỉ kể có hai loại ngữ nguyên là NÔM và HÁN VIỆT mà được nữa.
Chúng tôi không trình bày dài dòng mà chỉ đưa ra vài thí dụ là rõ ràng nhứt (Và xin trình theo ý niệm chớ không theo trật tự A, B, C).
THANG: Danh từ, do danh từ của dân Mã Lai đợt II, tức Lạc bộ Mã TANGGA mà ra. Danh từ nầy cũng được người Chàm biến thành THANG y hệt như ta về tự dạng, nhưng lại dùng để chỉ cái nhà vì vào cổ thời, họ và ta đều ở nhà sàn, muốn lên nhà, phải nhờ cái THANG. Danh từ nầy cũng được Nhựt Bổn biến thành TANA nhưng để chỉ CÁI KỆ, có nhiều bậc như cái THANG.
TẦNG: Danh từ, do danh từ Tangga nói trên. Dân Lạc bộ Mã chỉ có một danh từ là Tangga để chỉ ba món: Cái Thang, Tầng Bậc và Sàn Nhà. Dân ta cũng dùng danh từ đó, nhưng biến dạng để tránh cái khuyết điểm đồng âm làm rối loạn ngữ vựng.
SÀN: Danh từ, do danh từ Tangga, được biến dạng vì mục đích nói trên. Sự biến dạng nầy giống hệt lối biến dạng của đồng bào Thượng, họ phát âm là SÀNG, nhưng chỉ dùng với hai nghĩa, y như người Chàm là Thang và Nhà. Họ không gọi cái món mà ta kêu là SÀN NHÀ, bằng danh từ nào cả.
MÓNG: Danh từ riêng của Lạc bộ Trãi, tức của Mã Lai đợt I, có nghĩa là cái Thang, một số đồng bào Thượng còn giữ được, nhưng ta đã mất. Tuy nhiên, danh từ nầy vẫn còn nằm trong ca dao tục ngữ ta: "Móng đàng Đông, cầu vồng đàng Tây”. Hiện nhiều người Việt cũng gọi cái MÓNG là cái Thang để lên trời.
Hiện nay trong lãnh thổ Việt Nam, danh từ Thang thắng thế, và danh từ Móng được rất ít nhóm Thượng dùng, kể cả những nhóm Thượng Trãi 100% vẫn dùng danh từ SÀNG (có G).
CẲNG: Danh từ riêng của Lạc bộ Mã, gốc tổ không biết ra sao, nhưng được các dân tộc biến như thế nầy:
Phi Luật Tân: KAKI
Mã Lai Á: KAKI
Anh Đô Nê Xia: KAKI
Jêh: GAKI
Nhựt Bổn: ASHI
Rôglai: TACAI
Chàm: TCAY
Rađê: TCAY
Giarai: TCAY
Việt Nam: CẲNG
Hiện nay, danh từ riêng của Lạc bộ Trãi thắng thế trong lãnh thổ Việt Nam. Đó là danh từ CHƠN, được toàn thể đồng bào Thượng dùng, không kể Rađê và Giarai.
THANG: Danh từ vay mượn của ngoại chủng (Trung Hoa) vốn có nghĩa là Nước nóng, được chính người Tàu đồng hóa với loại thuốc nấu sắc trong nước nóng mà họ gọi là THANG DƯỢC. Dân ta vay mượn, nhưng có biến nghĩa:
THANG THUỐC: Gói thuốc
THUỐC THANG: Thuốc men. Điều trị, săn sóc con bịnh.
LANG THANG: Trạng từ riêng của Lạc bộ Mã, dưới hình thức LALANG và LA BANG. Người Việt miền Nam đã bắt chước người Phù Nam, thuở họ di cư vào Nam năm 1623 mà người Phù Nam còn tồn tại ở Đông Phố, thế nên dân miền Nam mới biến LA BANG thành LANG BANG mà không nói theo gốc Bắc, cũng không bắt chước Chàm vì Chàm chỉ nói LALANG mà không nói LABANG.
CỐC: Chén uống rượu làm bằng phalê hoặc thủy tinh. Danh từ nầy vay mượn của ngoại chủng (Ăng lê, nó vốn là CUP, xuất hiện từ thời chúa Trịnh mà các phái đoàn của công ty Đông Ấn Độ tặng vị chúa ấy nhiều món quà trong đó có cái CUP).
LY: Chén uống rượu làm bằng thủy tinh hoặc pha lê. Danh từ nầy là danh từ riêng của miền Nam, vay mượn của lưu vong nhà Minh trong đó có người Quảng Đông họ gọi món ấy là PỐ LÝ PÚI.
Ta nuốt mất PỐ và PÚI, chỉ chừa lại Lý biến thành LY. (Pố-lý-púi = Pha lê bôi = chén rượu làm bằng chất pha lê).
HÀNG: Danh từ, gốc Hoa: chỗ bày bán. Thí dụ: Cửa hàng.
HÀNG: Danh từ, gốc Lạc bộ Mã là BARANG biến dạng ra: Vật để bán. Rất nhiều người lẫn lộn hai danh từ nầy cứ tưởng cả hai đều có gốc Hoa. Sự thật thì VẬT ĐỂ BÁN, Tàu gọi là HÓA chớ không bao giờ gọi là Hàng. HÀNG của họ chỉ có nghĩa là CỬA TIỆM không bao giờ có nghĩa là hóa phẩm. Ta ngộ nhận vì đã chót sáng tác danh từ HÀNG HÓA gồm một tiếng Mã Lai Barang biến dạng và một tiếng Tàu gọi là HÓA VẬT, HÓA PHẨM và Nam Dương gọi là BARANG.
Danh từ hàng hóa được sáng tác sai nguyên tắc là ghép một tiếng Lạc với một tiếng Tàu, khiến ta quên mất là HÀNG là của ta, ngỡ là của Tàu.
Đó là nguyên tắc của riêng ta, không ghép tiếng Lạc với tiếng Tàu, nhưng Nhựt Bổn thì xem lối ghép như thế là đúng nguyên tắc, và chính vì thế mà họ quên ngữ nguyên của rất nhiều danh từ của họ.
BÁC: Động từ gốc Hoa: Từ chối một lời xin, không nhận một kiến giải.
BẤT: Động từ riêng của miền Nam, dùng với cái nghĩa BÁC của miền Bắc, nhưng không phải là đọc sai từ Bác mà là do ngữ nguyên Phù Nam họ nói là Batal = Bác bỏ.
F. Sự cạnh tranh ráo riết giữa danh từ của hai thứ Mã Lai
Như ta đã nói ở hai quốc gia Nhựt Bổn và Việt Nam, có hai thứ Mã Lai, bọn Austroasitiques (Lạc bộ Trãi) và bọn Austronésiens (Lạc bộ Mã).
Muốn biết danh từ nào của ai, khi có hai danh từ chỉ một vật thì không khó biết lắm vì Nam Dương là Lạc bộ Mã thuần túy, Đại Hàn là Lạc bộ Trãi thuần túy.
Nhưng Đại Hàn đã mất danh từ hơi nhiều, nhưng ta cũng còn phân biệt được như thường, các thứ danh từ, bằng vào danh từ của Thượng Việt.
Như vậy thì ở Nhựt và ở Việt có sự cạnh tranh, khi nào không hợp tác. Ta đã thấy cả ta và Nhựt đều dùng danh từ của Mã, lại vừa dùng danh từ của Trãi, nhưng không phải luôn luôn như vậy.
Mà tại sao lại không hợp tác để được phong phú mà lại cạnh tranh với nhau thì không thể biết được nếu bằng vào dân số.
Chúng tôi đã truy ra rằng người Mường là Lạc bộ Mã. Như thế thì ở V.N. Lạc bộ Mã rất kém về dân số, thế mà danh từ của họ cũng thắng được danh từ của ta như Chó, Cua, Ăn.
Ở Nhựt thì không thể biết số lượng của hai thứ Lạc, chỉ thấy rằng có kẻ thắng trận và kẻ chịu thuần phục. Tuy nhiên, thường khi danh từ của bọn thuần phục là bọn Trãi cũng toàn thắng, như Mẹ, Anh, Chị, Chó, Chim.
Bọn Trãi nói TÔ là Chim nó có mặt ở Nhựt và ở Trung Mỹ, chớ không có mặt ở Việt Nam, nhưng chính ở Nhựt, danh từ TÔ thắng danh từ Bùrông của bọn Mã.
Bọn Trãi nói chim, có mặt từ Đại Hàn tới Cao Nguyên Việt Nam (xin xem lại biểu đối chiếu về danh từ Chim).
Thế thì nói SÊ, hay nói TÔ, cũng cứ là nói theo bọn Trãi, tức phe Thiên Hoàng đại bại về danh từ Chim.
Ta có thể tưởng tượng ra sự cạnh tranh ráo riết giữa hai phe nhóm, nhưng ta rất tư lự về phương pháp cạnh tranh. Làm thế nào mà phe thiểu số (ở Việt Nam) và phe bại trận (ở Nhựt Bổn) lại cạnh tranh thắng lợi với phe cầm quyền?
Qua nhiều Chương, chúng tôi đã phỏng đoán vai trò văn hóa của bọn tới sau ở V.N. và bọn cũ, ở Nhựt Bổn.
Ta cứ nhìn vào người Mường ngày nay rồi so sánh họ với ta, và không chịu tin rằng cách đây 2500, ta kém họ. Ta quên mất rằng cách đây 2500 năm, ta đã tiếp xúc với đủ các thứ người, vì các cuộc xâm lăng, nhứt là bốn cuộc xâm lăng lớn (Thục Vương Tử, Lộ Bác Đức, Mã Viện, Pháp), còn người Mường thì thủ phận khách trọ và ở ẩn, ngay sau cuộc xâm lăng đầu (Thục Vương Tử).
Bị xâm lăng, tuy có đau đớn, nhưng đồng thời, ta cũng có thọ lãnh cái gì ở ngoài mà ta không có, hoặc thọ lãnh một sự kích thích để mà tiến lên.
Như vậy, trước năm 500 T.K. hẳn là ta phải kém hơn người Mường ngày nay. Tuy ta đã lập quốc, nhưng vua Hùng trơ trọi, không như bọn Lạc bộ Mã, họ đã hùng cường tại Hoa Nam và được sử Tàu nói đến. Nước U Việt của Câu Tiễn được đếm xỉa tới, không kém gì các nước thuần túy Trung Hoa thuở đó.
Bọn Mã đã có danh từ riêng để chỉ ĐỒ SỨ thì biết họ có văn minh hay không, còn ta thì chưa chắc đã biết chế tạo đồ sứ vào thuở ấy.
Kỹ nghệ ghép của U Việt cũng được sử Tàu ca ngợi (Kiếm Mạc Da) thì đủ biết họ có giỏi hay không.
Ở Nhựt thì khác, chính bọn Mã thắng trận ở Nhựt. Mã thì đã giỏi, như đã thấy, nhưng dầu sao, họ cũng kém Tàu, bằng không, họ đâu có phải bỏ nước để di cư.
Mà bọn Trãi ở Nhựt thì lại tiếp đón hằng triệu người Tàu từ nhiều trăm năm rồi (127 huyện Hoa Bắc).
Thành thử ở Phúc Kiến, Trãi lại tài hơn Mã về công kỹ nghệ, cố nhiên, chớ về quân sự thì họ bại trận, như đã thấy.
Không thể biết tình hình dân số ở Nhựt được phân bố ra sao, ta cũng quan niệm dầu rằng danh từ của bọn Trãi mà thắng thế ở Nhựt, cũng cứ nhờ văn hóa của bọn Trãi đã cao.
Học với hàng triệu người Tàu trong vòng ba trăm năm, hẳn là phải khá lắm, thế nên bọn thắng trận hóa ra phải học với quân bại trận, vì bọn bại có những cái mà bọn thắng chưa có. Những món như là Tansu, Tant - subo đều là của Tàu đưa tới do trung gian của bọn thua là bọn Trãi.
Nhưng nếu bị cật vấn về chi tiết thì khó lòng mà trả lời cho trôi. Tại sao ở Nhựt, danh từ Chó của Trãi đã thắng, còn ở V.N. danh từ Chó của Trãi thua, chẳng những thua ở lưu vực Hồng Hà, mà khắp Cao Nguyên đều thua? Tại sao ANH của Trãi lại toàn thắng ở Nhựt và ở Việt Nam?
Tại sao Nhựt lại phong phú hóa bằng cách dùng Cập (của Trãi) và Đôi (của Mã, nhưng ở các trường hợp khác, họ không làm như thế mà chỉ lấy của Trãi hoặc của Mã không mà thôi, thí dụ họ có CẲNG mà không có CHƠN như ta?
Qua 5000 năm lịch sử, nhưng danh từ Trãi ở Nhựt và ở Việt đi riêng, tiến hóa khác nhau. Ta chưa biết Sa-nada rụng đuôi thành Sán hay Sán mọc đuôi thành Sa-nada nhưng cú pháp thì đã khác nhau. Ta nói Sâu sán, Nhựt nói Sán sâu. Ta lại bỏ Sâu, Nhựt còn giữ. Văn phạm cũng khác, ta nói Có Sán, Nhựt nói Sán là có. Nhưng ai đúng gốc tổ? Hình như là Nhựt. Ta nói quá giống Tàu: Tôi có sán (Ngô hữu sán trùng). Nhựt nói khác Tàu rất xa: Tôi chi Chân điền trùng hữu.
Vậy cú pháp của ta còn là cú pháp Mã Lai (Sâu Sán còn cú pháp của Nhựt là cú pháp Tàu, còn văn phạm của Nhựt còn giữ được tính cách Mã Lai).
Trong cuộc tiếp xúc lớn lao và lâu dài với Tàu, ta cứu vãn được cú pháp, Nhựt cứu vãn được văn phạm. Xin đừng quá tin rằng văn phạm hiện nay của ta là của tổ tiên ta.
Nhưng trái lại ta cứu vãn được nhiều danh từ hơn Nhựt, nhứt là trước thời Lê Trịnh mà cả ở Bắc Việt cũng nói Bông, Trái chớ không nói hoa, quả.
Như thế, ta với Nhựt, ai mạnh cá tánh hơn ai? Không nên kết luận mà nên giải thích. Ta bị mặc cảm bị trị nên ta cố chống lại, thành thử ta cứu vãn được nhiều hơn. Trái lại Nhựt không bị trị nên tự do để sự thán phục thu hút họ, và họ không ngại mà vay mượn, cả ở những trường hợp không cần thiết, ta tiếp tục nói DÃY NÚI, họ, họ dám nói RENPOO một cách cố tình, tự động, vì họ không sợ mất mát bởi không lâm nguy. Sự thọ nạn, đôi khi lại có lợi hơn sống tự do.
Ta không nên mặc cảm, hoặc tự khinh vì đã vay mượn "quá nhiều” của Trung Hoa. Nhựt còn vay mượn nhiều hơn ta nữa. Vả lại không có dân tộc nào thoát hết và chính Trung Hoa cũng đã vay mượn của man di hơi nhiều. Thí dụ:
Mã Lai Trung Hoa
Nana (Dứa, Thơm) Ba La
Mí Ba La mật
Chuối Tiêu (đọc là Chéo)
Dừa Da (đọc là Ya)
Tàng (Đường) Đường (đọc là Thải)
Pinnang (Cau) Tân Lang (đọc là Pấn lạng)
Trầu Phù (đọc là Pu)
Việt (Rìu) Việt
Nõ Nỗ
Đó là chỉ có hai thứ man di, U Việt và Văn Lang, nhưng quanh nước Tàu, có hàng trăm thứ man di, và ai biết được cho nổi, số lượng danh từ mà họ đã mượn, vả lại có ai chứng minh được rằng cây CHANH là ta vay mượn của Tàu, hay Tàu vay mượn của ta chăng?
Ở Hoa Bắc, địa bàn chánh của Tàu, Chanh có mọc được hay không mà họ có danh từ đó chớ?
Có ai chứng minh được rằng QUẾ là ta vay mượn của Tàu hay Tàu vay của ta, chỉ biết là ở bên Tàu không có QUẾ, còn QUẾ NGỰ của Việt Nam thì tốt nhứt thế giới.
Vậy những danh từ trình ra trên đây, không phải muốn nói rằng Trung Hoa chỉ vay của ta có bấy nhiêu đó thôi. Và cứ thấy danh từ nào của ta và Hoa giống nhau, nhưng lại không có nghĩa gì cả trong Trung Hoa ngữ thì có thể nói được rằng họ vay của ta. Như Ba La Mật chẳng hạn.
Ba La Mật của Phật giáo là do họ phiên âm Paraga của Phạn. Nhưng Ba La Mật là trái mít, lại không dính líu gì với Ba La Mật Phật giáo hết và chỉ diễn tả ý niệm sau đây: "Loại trái có gai như trái Ba La (nana) và tên là MẬT (đọc theo Quan Thoại là MÍA, tức đọc sai MÍT chút ít”.
Hiện nay, Trung Hoa đã bỏ danh từ Chanh, mà nói theo Quan Thoại là Nỉng Múng. Đó là tiếng Anh lemon. Họ bỏ Chanh vì Chanh, thật ra không phải là danh từ của họ, mặc dầu trong các tự điển Trung Hoa có Chanh hẳn hoi.
Từ bao lâu nay, nhiều học giả nói Mất của V.N. do MỘT của Trung Hoa mà ra. Nhưng thật ra thì đó là động từ Mã Lai MATI mà cái bọn nói Mati thì được tiền sử học cho biết rằng không có chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, lúc di cư đi Nam Dương.
Chúng tôi trình ra trong quyển sử rằng các dân tộc sau đây đều gọi hoa lài giống Trung Hoa: toàn thể các đảo Mã Lai, Thái, Cao Miên, Việt Nam. Nhưng trong Hoa ngữ thì Mạt lị hoa là gì? Có phải là tiếng phiên âm hay không?
Nếu bị mặc cảm thì Pháp cũng sẽ bị mặc cảm y như ta khi ta cân ngữ căn Hy La của họ với ngữ căn Trung Hoa mà ta dùng. Hễ cứ không có là phải mượn, điều đó không sao cả, miễn là có cái tối thiểu của một nền văn minh là đủ rồi. Ta có danh từ NHÀ, danh từ VẢI, động từ THỜ, danh từ GIƯỜNG, CHIẾU tức khi tiếp xúc với Tàu ta không còn sống lộ thiên, không còn nằm trên đất, không ở lỗ, không thiếu đời sống tinh thần với THƯƠNG, GHÉT, BUỒN, VUI, HÁT, XANG, THỜ. (Toàn thể đồng bào Thượng và Nam Việt đều có động từ Xang có nghĩa là VŨ, nhưng Bắc Việt hình như đã đánh mất rồi. Miền Nam thường nói Ca Xang, nhưng lại hiểu lầm rằng Ca Xướng. Nhưng họ nói Xang qua, Xang lại, để mắng các thiếu nữ chỉ đi tới đi lui mà không làm việc, là nói đúng theo đồng bào Thượng: Xang = Vũ.)
Ảnh hưởng ngoại lai đã xáo trộn lớn lao như thế nên khoa ngôn ngữ tỉ hiệu ở xứ ta không thể thực hiện như ở Âu châu được, ở bên ấy, họ đối chiếu cả cú pháp nữa, nhưng cứ được, vì không có ngoại nhân đưa ảnh hưởng vào ngôn ngữ Ấn Âu quá lớn lao đến làm đảo lộn văn phạm của họ.
Sự thoáng thấy của ông L. Auronssean, qua một đoạn trong Sử ký của Tư Mã Thiên đã bị tiền sử học xô ngã.
Nhưng tưởng không có tiền sử học, ta cũng biết được sử học, ta cũng biết được sự thật: hiện nay người Tàu Hoa Nam, tức người Hoa gốc Việt, còn nói tiếng Nam Dương, mỗi tỉnh tuy chỉ giữ được có vài trăm danh từ nhưng đó lại là danh từ căn bản của một dân tộc.
Thế thì Việt là Lạc bộ Mã, còn ta là Lạc bộ Trãi, nên không nói giống Nam Dương như người Tàu Hoa Nam, hay nói cho đúng, chỉ giống phần nào thôi, vì cả hai thứ đều là Mã Lai hết. Nhưng hễ Mã thì phải giống Mã nhiều hơn mà Hoa Nam lại giống Nam Dương nhiều hơn.
Có ai dè rằng hiện ở Triết Giang, Tô Châu, người Trung Hoa không nói NGÃ, NGÔ, DƯ, gì hết, mà nói A LẠP để chỉ TÔI hay không.
Lạp chỉ là lối viết ra bằng chữ Tàu để diễn lu bù Phonène của ngoại quốc (Á rạp = A lạp, Chanh Ra = Chân Lạp) thì khó lòng biết Lạp là gì. Nhưng Lạp cũng có thể là LAK và ALẠP giống DALAK của Chàm vô cùng, và cũng cứ nằm trong khu vực AKU (Xin xem lại biển đối chiếu TÔI ở Chương I).
Bao nhiêu danh từ Tàu mà người Hoa Nam đưa vào Nông Nại Đại Phố, xem ra có đến 80% danh từ Nam Dương.
Sử học cứ chê ngôn ngữ tỉ hiệu vì sử học trễ đò, không biết ngữ học đã tiến đến đâu.
Và xét lại thì người Tàu cổ thời quá giỏi. Họ biết rằng Vua của nước Văn Lang là Vua của dân Lạc Địch đa số, còn Việt bộ Mã chỉ thiểu số, nên gọi ông là Lạc Vương mà không là Việt Vương.
Gọi dân, họ gọi là Lạc Việt vì họ biết đó là Mã Lai hỗn hợp. Sự kiện đặt Lạc trước Việt cũng cho thấy rõ là họ biết sự thật: Lạc Địch đa số, Việt bộ Mã thiểu số.
Người Tàu ưa nói bí hiểm, không bao giờ nói huỵch toẹt cái biết của họ ra. Nhưng khi ta phanh phui mọi việc, ta thấy họ biết quá nhiều sự thật, qua vài ba danh từ mà ta ngỡ họ đã dùng một cách phất phơ, không có ý thức gì hết.
Nhưng nhờ đâu mà họ biết? Nhờ vào thời Triệu Đà, họ còn biết ngôn ngữ Lạc Địch và ngôn ngữ của Việt bộ Mã.
Cho tới năm nay (1972) mà người Triết Giang, Tô Châu, Phúc Kiến cứ còn tiếp tục nói tiếng Nam Dương thì dưới thời Triệu Đà, dân ở đó hẳn còn nói tiếng Mã Lai rặc ròng.
Ngôn ngữ Lạc Địch cũng chưa chết, vì dân nước Tề dùng cái ngôn ngữ đó, mà dưới thời Triệu Đà, nước Tề bị sáp nhập vào với đại khối Trung Hoa chưa lâu.
Nên nhớ, Tần Thỉ Hoàng đánh nước Tề và nước Yên sau rốt hết. Ở Tề và Yên, dân chúng toàn là Lạc Địch, mặc dầu cấp lãnh đạo là Tàu. Mà từ năm Tần Thỉ Hoàng hạ Yên, Tề, đến thời của Triệu Đà, mới có 15 năm trải qua thôi, làm sao mà Yên Tề lại quên ngôn ngữ Lạc Địch được.
Vậy họ còn biết Lạc Địch và Việt là hai thứ, hai nhưng vẫn một, nên họ có phân biệt, nhưng cứ xem như là một: Lạc + Việt = Lạc Việt.
Mà Lạc chỉ là phiên âm sai lầm của Lai mà thôi.
Tin giờ chót: Cứ theo tin Mỹ thì Hà Nội đã tìm được thêm vài nhóm Thượng, nhưng Hà Nội và Mỹ lại gọi là Austroasiatiques. Đã bảo chưa ai biết phân biệt Austroasiatiques và Austronésieus hết thì phát giác của Hà Nội, chưa cho ta biết chắc những dân Thượng đó là Lạc Địch hay là Việt. Nếu họ là Lạc Địch thì con số 36 bộ lạc mà vua Hùng đã thống nhứt, của chúng tôi, ở một Chương trước, sẽ sai.
Người tìm ra các nhóm Thượng đó là ông Vương Hoàng Tuyên, nhưng không rõ ông V.H. Tuyên đã học các ngôn ngữ ở dưới nầy chưa, để mà đối chiếu đầy đủ, để biết chắc họ là Việt hay Lạc Địch. Ở dưới nầy có những nhóm Xi Tiêng, Mnong Gar, Churu mà người miền Bắc thiếu phương tiện nghiên cứu.
G. Tù, Sào là tiếng Tàu?
Người bạn Trung Hoa của chúng tôi, đọc bản thảo của chúng tôi, cho rằng chúng tôi sai về chữ Tàu ở hai nơi:
I) Chữ Tù là tiếng Tàu, chớ không phải là tiếng Việt. Nhưng, như đã nói, khoa ngữ học đã khám phá ra có một số danh từ tình cờ giống nhau giữa các ngôn ngữ xa xôi với nhau. Tôi biết Tàu có TÙ, nhưng không xem đó là vay mượn của Tàu.
Nhờ sự trùng hợp tình cờ đó mà người Do Thái đã chủ trương từ nhiều trăm năm nay rằng tất cả nhơn loại đều đồng gốc, GỐC DO THÁI, và quả họ đã tìm được vài danh từ Trung Hoa, Mã Lai, Ấn Âu, trùng hợp với danh từ của họ. Thế nên thuyết ấy đã bị xô ngã từ ngày người ta khám phá được sự kiện trùng hợp ngẫu nhiên.
II) Về chữ Sào thì đặc biệt hơn, vì có vài sự kiện khác xen vào.
Cái chữ mà Trung Hoa dùng để ký hiệu ý niệm Cây Sào, miền Trung và miền Nam đọc là TIÊU, chớ không phải Sao hay Sào gì hết. Trung Hoa và Bắc Việt có đọc là Sao hay không? Chúng tôi không biết. Nhưng đã có tiền lệ là Trung Nam Bắc thường đọc không giống nhau.
Thí dụ cái chữ Tàu mà Trung Hoa dùng để ký hiệu ý niệm "Trà” vào cổ thời thì Bắc đọc là Dánh, Trung và Nam đọc là Mính.
Ngay ở Nam cũng có hai lối đọc cho độc một chữ Tàu. Thí dụ chữ Phủ (Phủ định, Phủ quyết). Cũng cứ cái chữ đó mà đúng trước danh từ VẬN thì bị đọc là Bỉ Vận mà không là Phủ Vận.
Tại sao đọc lung tung thế? Vì tự điển Tàu dạy đọc, bằng cách nói lái hai chữ, mà hai chữ có thể cho phép nói lái hai cách khác nhau ở một số trường hợp… Vả lại nói lái ở đây, cũng chỉ là nói lái bằng giọng Quan Thoại, chớ nói lái bằng giọng ta, thì nó sẽ đưa đi quá xa.
Tất cả Đông Nam Á đều có tĩnh từ XA, dưới hình thức nầy hay hình thức nọ, nhưng luôn luôn có âm XA, NGA, NA, trong đó thì XA của ta trùng hợp với XA của Tàu chỉ là sự ngẫu nhiên.
Nhưng sự kiện sau đây đáng được chú ý.
Người Nhựt ký hiệu cho danh từ chỉ ý niệm Cây Sào của họ, không phải bằng chữ Hán TIÊU, mà bằng chữ CAN khác hẳn ta là kẻ ký hiệu bằng chữ Tiêu.
CAN và TIÊU đều là CÂY GẬY, tức đều chỉ được ý niệm Cây Sào. Nhưng trong tình thế đó thì Sao của Nhựt và Sào của Việt, đồng gốc Tàu, hay đồng gốc Mã Lai?
Chúng tôi thấy trong tự điển Trung Hoa có danh từ CHANH mà khắp Đ.N.A đều có. Vậy Chanh là tiếng Tàu chăng? Nhưng đồng thời, chúng tôi cũng thấy họ đã bỏ Chanh mà dùng danh từ LEMON của Anh. Nếu Chanh là danh từ của họ, hẳn họ đã không bỏ.
Lắm khi vì tình cờ, họ sáng tác giống hệt ta, và không theo dõi, cứ tưởng là ta học của họ. Thí dụ danh từ Serviette de toilette của Pháp, Bắc Việt sáng tác là Khăn Mặt, Khăn Bông, nhưng Nam Việt sáng tác là Khăn Lông. Ấy người Tàu sáng tác là Mao Cân. Đó là sự tình cờ, chớ người Tàu không có học người Việt miền Nam, mà người Việt miền Nam cũng không học của họ bao giờ.
Họ đã phiên âm Cát Rồng (Sa long) để chỉ cái Sarong của Mã Lai. Nhưng người Việt miền Nam sáng tác XÀ LỎN để chỉ cái QUẦN ĐÙI mà hoàn toàn không phải bắt chước Sa long.
Nếu cứ cho rằng cái gì cũng của Tàu, thì ta chẳng có ngôn ngữ nữa. Đa số bạn hữu của chúng tôi đều nói rằmg THEN CỬA của ta là do SAN của Tàu. Nhưng chúng tôi đã làm một bản danh sách đối chiếu về khoa kiến trúc thì thấy rằng ta chỉ học của Tàu có một danh từ Ngói = Ngỏa.
Chuyên = Gạch
Truyền = Kèo
Chuẩn = Mộng
Táo đột = Ống khói nhà bếp
Sa trù = Nhà bếp
Đõa = Nện đất
Để tử = Nền móng
Ám câu = Ống cống
Vân vân và vân vân. Còn những Lương, những Đống của Tàu, những Vì Kèo, những Con Đấu của ta có là đồng gốc hay không thì ai cũng đã biết rồi.
Đồ xưa là thế, đồ nay cũng khác biệt. Carreau émaillé, Brique émaillée, Tàu sáng tác là Bạch-Từ-Chuyên = Gạch sứ trắng. Ta, ta nói gạch men. Men ở đây là men quí, loại trán chén, bát tốt, chớ không phải là men xoàng để trán gạch lót nền nhà. Bạch-Từ-Chuyên tức gạch men chỉ dùng ở kỹ nghệ, tức là kỹ nghệ điện, và để lót buồng vệ sinh, chớ không phải để lót nền nhà. Gạch lót nền nhà, Bắc Việt gọi là Gạch Hoa, Nam gọi là Gạch Bông, không phải là Bạch-Từ-Chuyên.
Có rất nhiều tiếng Việt gốc Hoa mà không ai biết, thí dụ Tô (tô phở), trong khi đó thì bao nhiêu tiếng Việt rặc ròng lại bị cho là gốc Hoa tuốt hết. Tìm ngữ nguyên rất khó.
Cái Lồng Chim, Trung Hoa gọi là LUNG, Nam Dương gọi là Kurông, mà tiền sử học cho biết người Nam Dương không có chịu ảnh hưởng Tàu khi rời Hoa Nam di cư đi Nam Dương thì Lồng do Kurông hay do Lung?
Muốn biết, xét một danh từ khác thì rõ.
Con Nhộng, Tàu gọi là Dõng, Nam Dương gọi là Ulatsarong. Thế thì còn biết ai cóp của ai?
Nhưng sách Tàu lại cho ta biết rằng hồi cổ thời, họ gọi con tằm là CHƯƠNG và TÀM chỉ là danh từ Mân Việt mà họ cóp. Sự kiện cóp, thấy quá rõ trong tự dạng: Trùng + Dụng. Có khối con sâu dùng được, thí dụ con Đông trùng dạ thảo, sao con Nhộng lại là Trùng Dụng? Đó là tự dạng phiên âm. Tiếng Nam Dương: Ulat = Trùng.
Sarong không phải là Dụng, nhưng nó mang nghĩa không đẹp, nên Trung Hoa thay chữ Dụng vào đó, Sarong chỉ là quần áo. Ulat sarong = Con trùng mặc quần áo, tức con trùng ở trong cái kén.
Khi mà người ta cóp Tàm thì người ta cũng cóp luôn Nhộng. Người ta cóp luôn Ngài, vì con Ngài Nam Dương gọi là SƠRANGA mà chữ Hán là NGA. Nga viết là Trùng + Đẹp. Sự thật thì con Nga không có đẹp. Nga chỉ là danh từ phiên âm.
H. Nhựt và Khả Tu
Nhựt đã biết rằng phân nửa dân Nhựt là người Nam Dương. Họ biết trước chúng tôi nữa.
Nhưng cái phân nửa khác là Lạc Địch thì họ biết sau chúng tôi, tuy sau, nhưng cũng đã năm mười năm rồi, và cứ theo tiết lộ của giáo sư đại học Nghiêm Thẩm thì họ đã định lên Cao Nguyên để tìm bà con.
Chúng tôi tin rằng họ tìm chưa được, vì họ với ta đều là Lạc Địch cả, thế mà họ không biết, không nằm tại Sài Gòn để nghiên cứu tiếng Việt, thì lên Cao Nguyên còn khó khăn hơn nhiều, giữa thời khói lửa nầy.
Nhưng nếu các Anata tìm chưa được, chúng tôi xin trình rõ về người Khả Tu cho các Anata để nghiên cứu.
Người Khả Tu ở trong Trường Sơn ngang tỉnh Quảng Ngãi về mặt vĩ tuyến.
Trong đại khối Mã Lai, danh từ CÁ của Khả Tu dài nhứt. Đó là KAĐOÓNG. Dài hạng nhì chính là Nhựt Bổn.
Toàn cõi Việt Nam đều nói:
Việt Nam: Cập
Thượng Việt: Kap
Nhưng riêng Khả Tu thì Kapu. Đó là một nhóm người có khuynh hướng mọc đuôi và quả các ông Nhựt cho đuôi mọc thêm, thành Kappuru.
Cái TRỨNG, Hán tự là ĐẢN, Quan Thoại đọc là TÁL. Nhựt Bổn vay mượn đọc là TAM. Thế là ổn. Nhưng tử âm M cuối, đã làm cho ông Nhựt nhức đầu, nên đọc TAM được vài trăm năm, ông ta mọc cái đuôi A, hóa ra là TAMA.
Tưởng thế là yên, vì đã hết tử âm cuối rồi. Nhưng nào có yên, vì còn cái khuynh hướng muôn năm của Khả Tu, vứt đi đâu.
Thế nên TAMA lại mọc đuôi thành TAMAG. Nhưng tử âm G cuối lại làm cho ông Nhựt nhức đầu, thế là TAMAG hóa thành TAMAGO. Từ đây tới năm 2010, danh từ Tamago của Nhựt sẽ là TAMAGON, rồi TAMAGONA rồi TAMAGONAN, rồi TAMAGONANU. (Tự điển Nhựt viết lầm là NOÃN. Noãn quả đúng là Trứng. Nhưng họ vay mượn ĐẢN chứ không phải Noãn.)
Ai không tin, cứ cố sống tới đó thì sẽ thấy. Tất cả các danh từ dài của Khả Tu và của Nhựt đều thành hình theo lối đó.
Đại khối Mã Lai nói LÁ, HALA, thế mà ông Khả Tu nói LAH LANG. Ông Nhựt đặc biệt chỉ nói HẠ, vì một lẽ nào chưa biết chớ đáng lý gì phải là LAHALANGANUISU.
Việt Nam và Thượng Việt nói Hô, Hố (cái hố) Khả Tu cho mọc đầu là Pahô. Việt Nam và Thượng Việt nói Bụi – Bui, Khả Tu cũng đa âm hóa cho được mới nghe là Ba – Ui.
Giữa Anh của Việt Nam và Anô của Khả Tu, đều có ba chữ. Nhưng Anô lại nhị âm chớ không độc âm như Anh. Mà Nhựt cũng nhị âm là Ani.
Tóm lại Lạc Địch Khả Tu có khuynh hướng đa âm hóa. Khuynh hướng đó đích thị là khuynh hướng của Nhựt Bổn.
Thế nên chúng tôi mới quả quyết rằng dưới thời Hùng Vương, ở Việt Nam thì bộ lạc Ađôuk lãnh đạo, còn ở Nhựt Bổn thì Lạc Khả Tu lãnh đạo.
Ta cứ tưởng tượng ra sự kiện sau đây. Khi rời Hoa Bắc để di cư, nhóm Khả Tu ghé lại Nhựt đông đảo, chỉ có một nhóm nhỏ là đi Đà Nẵng trong khi đó thì nhóm Ađôuk, cái nhóm có danh từ Sán (xơ mít) ghé lại Nhựt rất ít, còn đa số thì đi Việt Nam, vì danh từ của Khả Tu có mặt trong Nhựt ngữ nhiều hơn danh từ Mạ, hơn Bru, hơn Bacóh, hơn Việt Nam, tức ở Nhựt vẫn có đủ mặt các bộ lạc Lạc Địch của lãnh tụ Xy Vưu, nhưng Khả Tu là đa số.
Khả Tu hay Khả Lá Vàng gì cũng là danh xưng mà Lào đặt ra để gọi họ, còn họ tự xưng khác, bằng lu bù danh xưng. Khả có nghĩa là man di. Nhưng ngôn ngữ Khả Tu lại giàu nhứt trong các ngôn ngữ Cao Nguyên tức không có man di chút nào hết.
Tuy nhiên vì ở khít vách với kinh thành Indrapura, nên họ đã bị người Lâm Ấp nỗ lực đồng hóa và họ có dùng một số danh từ Chàm, tức danh từ Austronésiens, Lạc bộ Mã.
Thí dụ Cuống rún (rốn):
Rún thì họ nói như ta: Puun, tức nói theo Lạc Địch (Austroasiatique). Còn Cuống thì họ nói theo Austronésien là TALAI. Đó là Khả Tu ở quận Phù Hoa, còn Khả Tu ở quận An Điềm thì lại nói khác. Ngay chính trong cộng đồng Khả Tu ngày nay mà cũng có đến ba bốn bộ lạc nói khác nhau rồi.
Nhưng xin ông Nhựt coi chừng. VƯỜN thì Khả Tu nói là BƯƠN, còn chính ông, ông nói theo Cao Miên. Ông nó là SÔNÔ, còn Cao Miên nói là SUÔN.
Vậy bà con của ông đông đảo vô số kể trên Cao Nguyên mà kẻ gọi hướng Bắc y hệt như ông là người Khả Lá Vàng. Họ nói KITA. Nhưng khuyên ông đừng có đi tìm họ, vì họ ở Đèo Mụ Già, nơi đó là đất chiến lược của Việt Cộng, ông vào đó thì mệt cho ông lắm đấy nhé.
Ông đã biến nát danh từ của Nam Dương và của Thượng Việt khiến chúng tôi đọc lại giùm ông đến ngất ngư. Vậy ông có đi tìm bà con, chắc cũng nhọc xác lắm vì những danh từ còn nguyên vẹn như Ki, Kita rất hiếm vì Anô đã bị ông biến thành Ani, Anê, Sừng đã bị ông biến thành Tsuno, Sán (xơ mít) đã bị ông biến thành Sanadamushi rồi thì ông chẳng còn biết đường đâu mà mò nữa.
Tôi nói nữa, Sơ Đăng nói Nếo, ông nói Nao thì hơi phiền cho ông.
Và nếu ông Đại Hàn đi tìm bà con như ông lại còn chết một cửa nữa, vì ông Đại Hàn còn biến dữ dội hơn ông nhiều bực.
Ông Đại Hàn nói Na = Tôi: Muốn biết Na, phải biết Any của dân Mạ, Ni của Maya Trung Mỹ, tức phải đi từ Biên Hòa sang Mễ Tây Cơ.
Thảo nào mà danh từ nào của ông, ông cũng chua chữ Tàu vào đó hết. Thế thì dễ ăn hơn là đi tìm xa xôi, tốn tiền xe pháo. Từ đây ông nên viết ARI bằng Hiragana mà đừng viết chữ NGHỊ vào tự điển nữa, bởi vì Ari là của tổ tiên ông là Khả Tu chớ không phải của Tàu đâu.
Nhưng văn phạm của Khả Tu không khác văn phạm Việt Nam bao nhiêu, trong khi đó thì động từ Nhựt Bổn nằm ở đuôi một câu. Âu Mỹ rất quan tâm đến động từ và họ sắp loại ngôn ngữ Hàn và Nhựt vào ngôn ngữ An Tai chính vì vị trí của động từ Nhựt Bổn, tức Nhựt và Hàn đã lấy văn phạm An Tai, chớ không phải là văn phạm Mã Lai Hoa Bắc như chúng tôi đã nhận xét ở một Chương trước.
Khả Tu nói: Ku inuk kap anô inuk.
Nghĩa là: Tôi chó cắn anh chó.
Nghĩa là chó của tôi cắn nhau với chó của anh.
Nhựt nói: (Wat) Aku (Shi) nô inu wa watashi nô ani nô inu ga kamiau teiru.
Nghĩa là: Tôi CHI chó và tôi CHI anh CHI chó… đích thị cắn nhau.
Câu văn Nhựt trên đây không bảo đảm là đúng, vì chúng tôi viết theo sách dạy, không kỹ bằng có thầy. Nhưng chắc 100% là động từ Cắn của Khả Tu nằm giữa, y hệt như của ta, còn động từ Cắn nhau của Nhựt thì nằm ở cuối câu luôn luôn.
Cú pháp Khả Tu và cú pháp Nhựt giống hệt nhau. Tôi chó (Khả Tu). Tôi CHI chó (Nhựt), Chó anh (Khả Tu), Chó CHI anh (Nhựt). Nhựt văn minh, thấy rằng Tôi chó không ổn, nên thêm tiếng đệm NÔ có giá trị như CHI của Tàu. Nhơn chi sơ, chớ không là Nhơn sơ.
Sự thêm thắt Nô của Nhựt là sáng tác của chủ đất cũ là bọn Trãi, dưới ảnh hưởng Phù Tô, chớ không phải của bọn từ Nam Dương lên, vì bọn sau tuyệt đối không biết Inu là gì. Cú pháp Nhựt đã thành hình trước khi bọn Mã đến nơi.
Còn thì danh từ giữa Nhựt và Khả Tu phần lớn giống nhau hết thảy.
Khả Tu Nhựt
Ku = Tôi Wat Tô (Aku) shi = Tôi
Inuk = Chó Inú = Chó
Káp = Cắn Kamiau = Cắn nhau
Anô = Anh Ani = Anh
Vả lại cả hai đều giống ta, nhứt là Kamiau của Nhựt giống cắn nhau của ta hơn là giống Kap của Khả Tu. Anô, Ani của họ với Anh của ta cũng chỉ là một. Còn Watakushi và Ku thì đồng gốc với TÔI (xem lại Chương I)
Chỉ có Chó là Lạc Địch, Nhựt với Lạc Địch và Khả Tu giống nhau. Lạc Địch Đại Hàn và Lạc Địch Việt Nam thì nói Cầy.
Chó, chỉ là danh từ của Việt, tức của Austronésien, tức của Lạc bộ Mã, tức của Mã Lai Hoa Nam, tức của Mã Lai đợt II, tức của Nam Dương, nó đã thắng thế khó hiểu ở xứ sở ta, mặc dầu kẻ phổ biến danh từ chó chỉ là một nhóm thiểu số: người Mường, hồi năm 500 trước Chúa Giáng Sinh.
Phụ chú
Ở V.N có ba bộ lạc Khả Tu, tất cả là một, tuyệt đối không có tiếp xúc với V.N. Khả Tu Phù Hoa và Khả Tu An Điềm có tiếp xúc với ta và đã học với ta những danh từ như đồng, thùng, xe. Trong vòng 10 năm nay họ có làm địa phương quan và có học thêm: Pháo, Gác, Phép, Phạt, Mỹ v.v.
I. Nhựt, Hàn và Việt Nam
Tại sao, đều là Lạc Địch với nhau mà Đại Hàn, Nhựt Bổn lại không có những danh từ mà Việt Nam có?
Thí dụ: Bobo thì Thượng Việt gọi là Bokobo, Việt Nam gọi là Bobo, còn Nhựt thì phải mượn Ý DĨ của Tàu và đọc là BIKI?
À, ở đây thì sự quên đầu quên đuôi của ông Nhựt thấy rõ bông ra. Ổng dịch chữ BIKI ra Pháp ngữ là SORGHO. Thế thì đó là BOBO không còn chối cãi được. Vậy mà chua chữ Hán, ông ta lại chua chữ THỮ thành KÊ.
Người Nhựt rất giỏi, rất cẩn thận, thế mà làm tự điển, họ lại bê bối đến thế.
Biki là Kê hay là Ý Dĩ. Nếu là Kê thì tại sao lại dịch ra tiếng Pháp là Sorgho. Bằng như là Ý Dĩ, tại sao chua chữ Hán là Thử?
Ông Đại Hàn khá hơn. Ông cũng mượn tiếng Tàu, nhưng lại mượn Thục Thử chớ không mượn Ý Dĩ và ông đọc là SuSu. Như vậy là đúng. Nhưng khi dịch ra tiếng Pháp, ông cũng cứ dịch là Millet, tức KÊ. Có cái là ông không chua chữ Hán nên không biết ông sai hay đúng về chữ Hán. THỤC THỮ đúng là MILLET DES INDES, đúng là BOBO, là Ý DĨ.
Tóm lại, ông Nhựt sai về chữ Hán, ông Đại Hàn sai về chữ Pháp.
THỬ gọn lỏn, chỉ có nghĩa là KÊ. Phải là THỤC THỬ hoặc CAO LƯƠNG mới là Ý DĨ, chớ Lương gọn lỏn cũng là Kê chớ không là Ý Dĩ.
Trong danh từ Ngũ Cốc của Hạ, Thương, Chu, có Thử, nhưng Mã Viện lại chưa ra đời, chưa có ai mang giống Bobo về Tàu cả, tức Thử không phải là Bobo.
Ông Châu Văn Cán, nhà trí thức Trung Hoa ở Chợ Lớn, rất tinh thông Việt ngữ, định nghĩa ngũ cốc:
Đạo = Nếp
Mạch = Lúa mì
Tắc = Bắp
Thử = Kê
Thúc = Các thứ đậu
Trung Hoa cổ thời không biết Gạo, không biết Bobo, không biết Đậu nành, mặc dù Thúc là các thứ đậu. Đậu nành chỉ xuất hiện sau khi Tư Mã Thác diệt nước Thục, vì đậu nành được trồng ở nước Thục mà không được trồng ở Hoa Bắc.
Bobo cũng có mặt ở Thục (Thục Thữ) nhưng đó là Bobo xấu, nên Tàu không lấy giống Thục Thử trong biến cố Tư Mã Thác, đợi mấy trăm năm sau mới lấy giống Bobo Giao Chỉ.
Và họ cũng sáng tác Ý Dĩ mà bỏ Thục Thử, có lẽ vì hai thứ Bobo ấy có khác nhau ở chỗ nào đó.
Thục Thử đồng nghĩa với Cao lương, chắc nhỏ hột gần như là Lương tức Kê, còn Cao lương thì lớn hột hơn Lương gọn lỏn.
Thử = Hoàng lương = Kê
Thục thử = Cao lương = Bobo
Cứ đọc sử nhà Hán thì rõ. Mã Viện diệt Hai Bà Trưng rồi thì chở về Lạc Dương nhiều xe Bobo của Giao Chỉ để gây giống. Vậy Hoa Bắc không có Bobo. Đại Hàn, Nhựt đồng khí hậu cũng không có. Không có Bobo, họ làm thế nào để có danh từ.
Nhiều trăm năm sau Mã Viện, Bobo của Tàu mới sang Đại Hàn và Nhựt nhưng dưới cái tên khác, do Mã Viện sáng tác. Đó là tên Ý Dĩ (Bi ki)
Dĩ nhiên là Đại Hàn và Nhựt cũng chẳng có Chuối, Dừa, Mít, Mía, Đường gì cả, vì khí hậu của họ không cho phép các thứ ấy xuất hiện, và họ phải học của Tàu cả. Tàu cũng không có, và đã học với Giao Chỉ, nhưng họ văn minh cao, nên không có, họ cũng cố làm cho có.
Họ không có Bưởi, nhưng họ cả hai danh từ chỉ Bưởi, đó là CHỈ (Bưởi đắng) và DƯU (Bưởi ngọt). Nhựt chỉ mới học của Việt dưới trào Nguyễn và nói ZABON và PONKAN vì ta gọi Bưởi là Bồng.
Trái lại Đại Hàn và Nhựt có TUYẾT mà ta không có, phải mượn của Tàu, vì xứ họ có tuyết.
Hai nhóm Lạc Địch đó sáng tác chớ không mượn của Tàu. Đại Hàn gọi Tuyết là NUN, Nhựt gọi là YUKI.
Tàu có một câu tục ngữ Thượng cổ: Việt khuyển phệ tuyết. = Chó Việt sủa tuyết. Chó Việt, mấy ngàn năm mới thấy tuyết một lần, nên nó hoảng, sủa dữ dội khi tuyết rơi ở đất Việt. Đất Việt ở đây là Hồ Quảng chớ không phải Việt Nam đâu nhé.
Vậy ba đám Lạc Địch đó, không giống nhau 100%, chỉ vì thế.
Nhiều người băn khoăn tự hỏi tại sao Lạc Địch Nhựt lại giỏi hơn Lạc Địch Việt Nam, mặc dầu người Khả Tu ở Đà Nẵng, chẳng giỏi gì hơn các đồng bào Thượng khác. Ấy chỉ vì Lạc Địch Nhựt cứ còn nằm trong môi trường cũ của chủng tộc. Lạc Địch ở Himalaya, rồi sang Hoa Bắc, thì cũng cứ là các xứ lạnh. Đến Nhựt, vẫn còn lạnh, nhưng khí hậu Nhựt lại tốt hơn khí hậu của hai nơi cũ rất nhiều.
Trong khi đó thì Lạc Địch Khả Tu và Lạc Địch Việt Nam lại rủi ro khi gặp khí hậu nhiệt đới.
Tâm hồn và trí não kẻ uống rượu thưởng thức cảnh tuyết rơi, rất cảm thông với loại văn thơ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa
Vì cả hai đều có rừng phong. Ta rất bỡ ngỡ với những tuyết, những liễu, những phong mà người Tàu đưa tới. Ta ca ngợi phượng vĩ, soan đâu, dừa.
Dân ăn nước mắm khác hẳn dân ăn tương đậu nành mặc dầu đồng máu mủ với nhau. Ta, ta ăn Ô MAI ngào đường cho vui miệng và Nhựt ăn U MÊ ngâm muối với cơm, tuy Ô MAI và U MÊ là một thứ, đó là quả mơ, nhưng hai lối sử dụng quả mơ như vậy không giúp cho hai kẻ cảm nghĩ giống nhau.
(Tự điển Khai trí Tiến đức định nghĩa ô là đen, đen vì phơi khô. Nhưng xem ra ô chỉ là biến thể của U. Ô mai = U mê, chớ không có nghĩa gì là đen cả. Tàu đọc là MỤI mà không có ô, u gì cả, vậy ô của ta và u của Nhựt không do tiếng Tàu mà ra.)
K. Vớ
Miền Bắc gọi VỚ là BÍT TẤT. Ở một Chương trong sách nầy, chúng tôi thú nhận rằng VỚ của miền Nam, có ngữ nguyên bí. Nhưng đã tự hào là biết hết cả các ngữ nguyên miền Nam thì không có quyền bí về VỚ. Thế nên chúng tôi học đêm học ngày và khi sách nầy được sắp chữ xong thì chúng tôi đã thành công và phải năn nỉ nhà in cho thêm đoạn nầy vào.
Từ Đông Bắc Á, đến Đông Nam Á, dân tộc nào cũng sáng tác danh từ nầy cả chớ không có mượn của Tàu, trừ Đại Hàn.
Thái Lan: Thoong taow sun
Nam Dương: Sarong kaki
Đại Hàn: Yal mal (Dương Miệt)
Nhựt Bổn: Kutsushita
Việt (Bắc): Bít tất
Việt (Nam): Vớ
Nhưng thật ra thì Việt miền Nam không sáng tác, và đây là ngữ nguyên ly kỳ nhứt trong mấy vạn danh từ Việt Nam.
VỚ chỉ là tiếng Tàu, đọc theo giọng Quan Thoại: WOÁO.
Nhưng không phải là giản dị như thế đâu, nếu giản dị như vậy, chúng tôi đã không bí.
Trung Hoa có danh từ HÓA, có nghĩa là ĐÔI HIA (giày Bottes). Đó là danh từ đời nhà Thương, bằng vào tự dạng của nó. Hóa viết như BIẾN HÓA, nhưng với bộ CÁCH là da thuộc (Cuir).
Chúng tôi biết đó là danh từ đời Thương vì có chứng tích. Cách + Hóa, tức là biến hóa da thuộc thành một món đồ. Dưới đời nhà Thương, họ chỉ chế tạo một món đồ độc nhứt bằng da thuộc là cái yên ngựa. HÓA là món đồ thứ nhì. Đó là lần thứ nhì mà họ biến Hóa da thuộc thành một món đồ. Nhưng cái yên ngựa là món đồ thứ nhứt, không được gọi là Hóa, vì họ đã có yên ngựa bằng vải mà họ trót gọi là YÊN, AN, nên HÓA không được dùng cho yên ngựa. Vậy Hóa, được kể như món đồ thứ nhứt, biến hóa da thuộc thành vật dụng.
Nhưng mang Botte đau chơn, thế là họ chế tạo bít tất. Nhưng không biết gọi là gì, họ đồng hóa hai thứ: BÍT TẤT và HIA, gọi cả hai là WOÁO.
Hàng ngàn năm sau họ mới sáng tác danh từ MIỆT để chỉ BÍT TẤT, nhưng đã quen miệng gọi Bít tất là WOÁO rồi, nên họ cứ tiếp tục như thế cho đến ngày nay mà không dùng MIỆT trong câu chuyện.
Các man di quanh họ, bị chinh phục trễ, nên không mắc phải cái nạn quen miệng và tất cả đều nói MIỆT, chẳng hạn Quảng Đông phát âm là MẠCH.
Ta, ta cũng bị chinh phục trễ, nhưng ta học với lính Tàu gốc Hoa Bắc họ nói theo thói quen là WOÁO, ta biến thành VỚ, còn Quảng Đông, Phúc Kiến, học với thầy đời Tần, nên nói theo các thầy là MIỆT. Các thầy là trí thức, phải theo sát sự tiến hóa của ngôn ngữ, lính là dân chúng, giữ thói quen cũ.
Mà như thế thì danh từ Vớ là danh từ gốc miền Bắc, vì chỉ có dân Lạc Việt ở lưu vực Hồng Hà mới có tiếp xúc với lính của Mã Viện mà thôi. Người Việt ở miền Nam tuyệt đối không biết giọng Quan Thoại vì Hoa Kiều ở miền Nam không phải là người Hoa Bắc. Miền Nam chỉ biết Quan Thoại từ trên 10 năm nay thôi, vì thấy Hoa Kiều học thì họ học theo cho vui, chớ từ năm 1623 đến nay họ chỉ nghe nói đến Quan Thoại, mà không hề nghe ai phát âm hết.
VỚ là danh từ được lưu dân từ lưu vực Hồng Hà mang đi Bắc bố chính rồi từ Bắc bố chính mang vào Nam.
Sau cuộc di cư đi Bắc bố chính thì đất tổ sáng tác BÍT TẤT, nhưng lưu dân không hay biết, tiếp tục nói VỚ.
Người Trung Hoa cổ thời đồng hóa hai món đó cũng có lý do vì Bít tất của Tàu, luôn luôn lên khỏi gối, bởi HIA đã lên tới gối rồi. Bít tất là bít đầu gối lại.
Đại Hàn mượn tiếng Tàu là MIỆT, đọc là MAL, nhưng vẫn thêm tĩnh từ DƯƠNG (Âu châu) ở trước Mal, bởi Miệt cũng cao lên khỏi gối, mà họ thì chỉ dùng Miệt Âu châu, tức Miệt ngắn.
Nhưng có chứng tích rằng dưới các trào Thương, Chu, Tần, Trung Hoa chỉ món Hóa bằng chữ Cách, tức bằng cái bộ CÁCH ngày nay, mà không có chữ HÓA, chỉ mới được thêm sau đây thôi và biến thành ngữ căn.
Bằng chứng thấy rõ là Nhựt Bổn đã vay mượn chữ đó dưới đời nhà Tần, để chỉ giày, nhưng đọc là CÁCH (Kutsu) mà không đọc là Hóa. Có thế nào mà Nhưt đọc sai chăng? Không. Ta thấy họ không có đọc sai tiếng Tàu nào cả, hay nói cho đúng, không sai quá xa như ta đọc PÍN ra TÂN mà không ra BẾN. Họ đọc chỉ sai một chút xíu, y hệt như Quảng Đông, Phúc Kiến hay Việt Nam, nhưng HÓA mà đọc ra Kutsu thì khác quá xa.
Họ cũng có để kháng y hệt như Việt Nam. Thí dụ XỨA là cái LƯỠI, ta đọc là THIỆT vì Thiệt là danh từ của Lạc bộ Trãi, ta đọc như vậy với tinh thần để kháng. Nhựt cũng đọc là ZETSU. THIỆT của ta, PIET của Thượng Việt và ZETSU của Nhựt đồng gốc Lạc bộ Trãi.
Nhưng trường hợp Hóa bị đọc là Kutsu thì không phải là để kháng nữa vì chủng Mã Lai chưa có món CÁCH vào thời đó, để mà có danh từ Kutsu.
Hóa chỉ là danh từ đời Hán y hệt như Miệt, còn trước đó, họ chưa ghép Hóa vào, mà chỉ viết là CÁCH nên Nhựt mới đọc là Kutsu.
Ta đọc Hóa (Woáo) là HIA, mà cũng đọc là VỚ có lẽ vì có hai nguồn vay mượn. Bình dân phát âm HIA, vì họ chỉ thấy Woáo mà không có dùng nên không biết cái món bên trong, cũng có tên là Woáo.
Bọn Lạc tướng có hợp tác, biết dùng đồ Tàu, đều sáng tác hết. Đây là một sự lạ. Tuy nhiên họ sáng tác, nhưng vẫn mượn tiếng Tàu phần nào, chẳng hạn ta đã mượn TẤT của Tàu, còn Nhựt thì sáng tác là KUTSU SITA, tức cũng đã vay mượn CÁCH của Tàu.
Sita là trạng từ Mã Lai, ở đây được dùng y hệt như Pháp (Sous trong sous-vêtements) Sita là ở dưới, nhưng ở đây nó mang nghĩa bóng là ở trong. Kutsu sita được ghi ra tiếng Tàu là HÓA HẠ, nhưng có nghĩa là HÓA NỘI.
Tại sao vào đời Hán, Tàu lại thêm HÓA vào? Là vì họ đã chế tạo rất nhiều vật dụng bằng CÁCH và lấy CÁCH là cái BỘ để cho biết ngữ nguyên. Thế thì họ phải phân biệt các món bằng một chữ khác nữa ghép vào với chữ CÁCH, nhưng các chữ ghép khác, có nghĩa rõ ràng minh bạch chớ không mơ hồ như HÓA là món thứ nhì kể như thứ nhứt rất cổ mà đáng lý gì họ nên ghép CÁCH với CƯỚC chẳng hạn.
HÀI là danh từ có sau, có vào thời mà người Tàu ý thức hơn trong việc tạo tự dạng, nên họ ghép CÁCH với KHUÊ. HÀI rất đẹp, không thô kịch như HÓA thì cần ghép với một chữ có nghĩa đẹp, ngọc KHUÊ chẳng hạn.
Chữ HÓA vắng bóng trong từ điển Đào Duy Anh, vì đó là một danh từ gần như là chuyên môn, bởi trước khi Pháp đến vua quan ta không có may HIA chăng, mà chỉ may HÀI thôi?
Ta không có ảnh về những nhân vật của thời ta bị chinh phục, mà chỉ có các bức họa. Họa sĩ có thể bịa theo những gì họ thấy ở sân khấu hát bội. Theo các bức họa đó thì vua quan ta có mang hia. Nhưng sự vắng bóng của danh từ Hóa trong tự điển Đào Duy Anh, lại bắt ta nghĩ khác.
Thế thì ta có những danh từ rất non tuổi như CỐC, LY, BÍT TẤT, nhưng vì không biết do đâu mà ra, nên ta cứ tưởng là cổ lắm, không dè CỐC chỉ mới có từ khi các phái đoàn Ăng lê ve vãn các chúa Trịnh và Nguyễn, LY chỉ mới có sau 1623, và Bít tất chỉ mới có sau khi dân Việt di cư vào Bắc Bố Chính.
Trái lại, nhiều danh từ vay mượn từ thời Mã Viện, như WOÁO bị đọc là VỚ thì lại bị tưởng là do Nam Kỳ mới sáng tác riêng về sau.
Nếu Hoa Bắc không quen miệng gọi BÍT TẤT là WOÓA mà gọi là MIỆT (Dĩ nhiên là đọc theo Hoa Bắc) thì không bao giờ ai truy ra ngữ nguyên của danh từ VỚ của miền Nam được cả.
Nhưng đọc sách, không thể biết sự thật, vì cả sách Hoa Bắc ngày nay cũng trỏ Bít tất bằng chữ Miệt chớ không phải chữ HÓA. Nhưng dân chúng ở Hoa Bắc thì cứ tiếp tục gọi BÍT TẤT là WOÁO, mặc dầu họ đã có danh từ Miệt từ trên hai ngàn năm rồi.
Sách tham khảo
E. Sapir, Le langage, Introduction à l’étude de la parole, Paris 1953.
J. Vendryes, Le langage, Introduction linguistique à l’histoire, Paris 1923.
M. Cohen, Le langage: structure et évolution, Paris 1950.
E. Benveniste, Problèmes de linguistique générale, Paris 1966.
M. Leroy, Les grands courants de la linguistique moderne, Bruxelles 1963.
B. Mulmberg, Les nouvelles tendances de la linguistique, Paris 1968.
A. Meillet & M. Cohen, Les langues du monde, Paris 1964.
A. Meillet, Introduction à l’étude comparative des langues indo-européennes, Paris 1937
A. Meillet, La méthode comparative en linguistique histotique, Olso 1925
M. Swadesh, Lexico statistie dating of prehistorie ethnic contacts, Newyork 1965
Lột Trần Việt Ngữ Lột Trần Việt Ngữ - Bình Nguyên Lộc Lột Trần Việt Ngữ