Nguyên tác: The Light Between Oceans
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Phần Iii.1
N
gay khi họ vừa lên bờ, hạ sĩ Spragg lấy trong túi ra một cặp còng số tám, bước về phía Tom. Vernon Knuckey khẽ lắc đầu, ra ý ngăn cản.
“Đúng thủ tục là phải vậy,” tay hạ sĩ đồn cánh sát đồn Albany đáp lại, ra vẻ. Đồn cảnh sát Albany thì rõ là quan trọng hơn đồn xứ Mũi Partageuse rồi.
“Không được. Ở đây có trẻ nhỏ,” Knuckey vừa nói vừa gật đầu về phía Lucy. Con bé chạy tới Tom, ôm lấy chân anh.
“Ba! Ba! Bồng Lulu lên đi ba!”
Nỗi đau trần trụi vụt qua gương mặt Tom khi mắt anh gặp mắt con bé, khi nó nói ra yêu cầu vô cùng bình thường đó. Trên đỉnh cây liễu bạc hà một đôi chim chìa vôi ríu rít trò chuyện. Tom nuốt khan, nắm chặt tay, móng tay ghim vào lòng bàn tay. “Nhìn kìa Lulu! Trên kia có mấy con chim ngộ ghê. Ở ngoài đảo không có con chim đó phải không Lulu?” Mắt vẫn nhìn vào cặp chim, anh giục con, “Con đi xem đi!”
Hai chiếc xe hơi đậu gần cầu tàu. Hạ sĩ Spragg rạ lệnh cho Tom. “Lối này. Xe thứ nhất.”
Tom quay lưng về phía Lucy, con bé giờ đang mải nhìn cặp chim đang lúc lắc hai chiếc đuôi đen dài. Anh vừa định với tay tới chỗ con bé, nhưng lại thôi: tốt hơn hết là lẳng lặng mà đi.
Con bé nhận ra anh chuẩn bị đi khỏi, nó đưa cả hai tay ra. “Ba ơi, đợi con! Bồng con lên!” nó giục anh. Nghe giọng hẳn nó đã đoán ra có chuyện không ổn.
“Anh đi nhanh cho,” Spragg hối thúc, túm lấy khủy tay Tom.
Tom quay đi, mỗi bước một đau đơn, Lucy vẫn nằng nặc đòi cha, hai tay đưa ra. “Ba ơi, đợi LuLu với,” nó sợ hãi nài nỉ, không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Con bé trượt chân, ngã úp mặt xuống sỏi. Nó khóc thét lên. Tom không thể bước được nữa. Anh quay lưng, vùng khỏi tay viên cảnh sát.
“Lulu!” Anh đỡ nó dậy rồi hôn lên chỗ cằm bị xước. “Lucy, Lucy, Lucy, Lucy” anh thầm thì, môi anh cọ vào má con bé. “Con không sao đâu cưng à. Con không làm sao hết.”
Vernon Knuckey nhìn xuống đất, nghèn nghẹn hắng giọng.
Tom nói, “Cưng à, giờ ba phải đi đây. Ba mong là...” Anh dưng lại. Anh nhìn vào mắt con bé, vuốt tóc nó, hôn nó lần cuối cùng. “Tạm biệt cưng của ba.”
Con bé không có vẻ gì là muốn buông anh ra cả, vậy là Knuckey quay sang nhìn Isabel. “Chị Sherbourne?”
Isabel đón lấy con bé từ tay Tom. “Lại đây với má. Cưng không sao mà. Má đây cưng à,” cô nói, mặc cho con bé tiếp tục gọi. “Ba ơi, Lulu muốn đi với ba mà, ba ơi!”
“Anh vừa lòng chưa hả Tom? Chẳng phải anh mong như vậy sao?” Mấy giọt nước mắt lăn trên gương mặt Isabel, nhỏ xuống gò má của Lucy.
Trong giây lát, Tom như tê liệt khi nhìn vợ con, nhìn nỗi đau khắc trên gương mặt của cả hai – anh từng hứa với Bill Graymark sẽ che chở chăm sóc cho cả hai. Cuối cùng, anh chỉ nói được, “Chúa ơi, Izz... Tôi xin lỗi mình.”
Kenneth Spragg đã cạn hết kiên nhẫn, chụp lấy cánh tay Tom rồi tống anh vào trong xe. Khi Tom thụp người ở phía sau xe, Lucy bắt đầu hét lên. “Ba ơi, đừng đi mà! Đừng mà ba! Đừng đi mà!” Gương mặt nó méo xệch, đỏ gay, nước mắt giàn giụa, miệng gào khóc. Isabel không cách gì dỗ dành được. “Má ơi, cản họ lại đi! Mấy ông đó hư lắm má! Họ hư với ba đó!”
“Má biết cưng à, má biết mà.” Cô đặt môi lên tóc con bé, thầm thì. “Nhiều khi mấy người đàn ông làm những chuyện rất tệ, cưng à. Tệ lắm.” Khi thốt lên những lời đó, cô biết chuyện tồi tệ hơn vẫn còn ở phía trước.
Ralph đứng ở mũi thuyền, thấy hết cảnh tượng đó. Khi về tới nhà gặp Hilda, lão nhìn vợ mình: ngây người nhìn, có lẽ đã hai mươi năm mới nhìn như vậy.
“Sao vậy?” bà vợ hỏi, thấy sự quan tâm đó hơi lạ lùng.
“Chỉ là… chỉ là… mà… không có gì cả,” lão đáp, rồi kéo bà vào lòng, ôm bà thật lâu.
***
Tại đồn cảnh sát xứ Mũi, Vernon Knuckey nói với Kenneth Spragg. “Tôi nói lại lần nữa, thưa hạ sĩ. Anh không thể mang anh ấy về Albany ngay trong chiều nay. Rồi anh ấy sẽ được chuyển đi đàng hoàng, để tôi hỏi thêm vài câu đã.”
“Đằng nào cũng là tù nhân của Albany. Hải đăng là tài sản của Khối Thịnh Vương chung, anh biết mà, nên cứ để tụi tôi làm cho đúng luật.”
“Tôi cũng biết luật như anh vậy.” Từ Perth đi xuống phía Nam ai cũng biết Kenneth Spragg rất thích tỏ vẻ. Vẫn còn tự ái chuyện mình không nhập ngũ, giờ đây Spragg cố bù lại, hạ sĩ mà ăn nói ra điều ta đây thượng sĩ chứ chẳng vừa. “Đằng nào anh ấy cũng được chuyển về Albany.” Knuckey nói thêm.
“Tôi muốn ra tay xem sao – để coi, tôi mà hỏi kiểu gì cũng ra hết. Tôi còn ở đây, vậy nên để tôi mang tay Sherbourne về Albany luôn một chuyến.”
“Nếu anh muốn tra hỏi thì khi nào quay lại rồi hẵng tra hỏi. Ở đây tôi là người chỉ huy.”
“Gọi cho Perth đi.”
“Cái gì?”
“Anh để tôi gọi cho Perth. Nếu cấp trên đồng ý, tôi sẵn sàng để anh ta lại đây. Bằng không anh ta phải lên xe đi về Albany với tôi.”
Phải mất một lúc khá lâu Isabel mới dỗ được đứa bé đang hờn khóc để nó chịu đi vào chiếc xe thứ hai. Lúc xe vừa đến đồn cảnh sát thì Tom đã ngồi trong nhà giam.
Ở khu chờ đợi, Lucy ngồi trên đùi Isabel, cáu kỉnh và mệt mỏi vì chuyến đi dài và những việc khác lạ vừa xảy ra. Con bé cứ sờ lên mặt Isabel, hết vỗ rồi chọc ngón tay, như tìm kiếm một câu trả lời. “Ba đâu rồi má? Lulu muốn thấy ba.” Isabel tái nhợt, vầng trán hằn nếp nhăn, thẫn thờ. Thi thoảng, tâm trí cô dạt trôi, cô tập trung nhìn múi gỗ trên quầy thủ tục, hay nghe tiếng con chim ác là từ xa. Thế rồi ngón tay của Lucy và một câu hỏi nữa đưa cô trở về với thực tế nghiệt ngã, cô nhớ ra mình đang ngồi ở đâu.
Một ông lão đi vào đồn để trả tiền phạt vì để mấy con bò chạy ra xa lộ. Ông đứng ở quầy lễ tân, đợi lấy biên nhận. Ông giết thời gian bằng cách rủ Lucy chơi trò ú òa.
“Con tên gì vậy?” ông hỏi.
“Lucy,” con bé nói, hơi mắc cỡ.
“Tưởng vậy mà không phải vậy,” Harry Garstone lẩm bẩm, vừa cười mỉa mai vừa nguệch ngoạc viết biên nhận cho ông lão chăn bò.
Ngay lúc đó bác sĩ Sumpton cũng vừa đến, thở hổn hển, tay cầm túi y tế. Ông ta gật đầu cho có lệ với Isabel nhưng cố tránh nhìn vào mắt cô. Isabel ngượng chín, nhớ lại lần cuối cùng được bác sĩ khám và cả kết luận tồi tệ sau đó.
“Mời bác sĩ đi lối này,” Garstone lên tiếng, dẫn đường cho bác sĩ Sumpton vào căn phòng phía sau. Viên cảnh sát quay lại chỗ Isabel. “Đứa nhỏ phải được khám sức khỏe. Phiền chị đưa nó đây.”
“Khám gì kia? Để làm gì? Nó chẳng đau ốm gì cả!”
“Chị Sherbourne, việc này chị không quyết được.”
“Nhưng tôi là…” Isabel sựng lại trước khi kịp nói hết câu. “Con nhỏ không cần khám gì cả. Xin anh mà. Anh làm ơn đi.”
Viên cảnh sát giật lấy đứa bé khỏi tay Isabel, nó vừa khóc, vừa cố vùng ra. Tiếng khóc inh tai vang khắp đồn cảnh sát, đến tận nhà giam nơi Tom ngồi. Anh mường tượng ra con bé đang phải chịu những gì, nghe tiếng khóc đó như còn lớn hơn.
Trong văn phòng của Knuckey, Spragg đặt ống nghe điện thoại xuống, gầm gừ nhìn người đồng nhiệm ở xứ Mũi. “Được rồi. Giờ thì đúng như anh muốn…” Spragg kéo thắt lưng lên, thay đổi chiến thuật. “Cô kia cũng phải bị giam mới đúng. Chắc là cùng một giuộc cả thôi.”
“Tôi biết Isabel từ lúc nó còn nhỏ xíu, hạ sĩ à,” Knuckey đáp. “Còn không dám trốn lễ nhà thờ. Mà anh cũng nghe Tom Sherbourne khai rồi còn gì: nghe như Isabel cũng là nạn nhân của anh ta thôi.”
“Khai khiếc gì! Tôi nói anh nghe, cái cô kia cũng chẳng vừa đâu. Cứ để tôi tra anh ta, kiểu gì cũng biết được tay Roennfeldt kia làm sao mà chết…”
Knuckey biết quá rõ tiếng tăm của Spragg trong nghề tra hỏi, nhưng không để tâm đến lời nhận xét đó. “Anh nghe đây. Tôi không biết tường tận cái nhà anh Sherbourne kia. Có thể anh ta là một con quỷ Jack the Ripper[1] mới, biết đâu đó. Nếu đúng anh ta có tội thật thì phải bị trừng phạt thích đáng. Nhưng tống giam cô vợ thì có ích gì, vậy nên anh hãy chờ đã. Anh với tôi đều biết rằng phụ nữ đã có chồng thì được miễn tố nếu phạm tội do bị chồng ép buộc.” Knuckey xếp lại chồng giấy ngay ngắn, đặt cục chặn giấy lên trên. “Xứ Mũi nhỏ lắm. Làm gì cũng phải nghĩ. Muốn tống giam người ta thì phải có đủ chứng cứ. Vậy cái gì chắc thì hẵng làm.”
[1] Jack the Ripper: nhân vật bí hiểm được cho là thủ phạm của các vụ giết người hàng loạt mà cảnh sát không thể tìm ra ở khu White Chaperl, London 1888. Jack the Ripper được xem là một “huyền thoại” tội ác ở Anh Quốc và là cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm trinh thám ly kỳ (ND)
Sau khi hạ sĩ Spragg giận dữ bậm môi bước ra khỏi đồn, Knuckey bước vào phòng khám bệnh, mang Lucy ra.
“Bác sĩ nói nó không sao hết,” Knuckey nói, rồi hạ giọng. “Giờ tụi tôi đem nó trả về cho má ruột, Isabel à. Tôi sẽ rất biết ơn chị nếu chị đừng gây phiền hà hơn nữa. Vậy chị có muốn… tạm biệt nó không?”
“Tôi xin ông. Đừng làm vậy mà!”
“Chị đừng khiến mọi sự tồi tệ hơn.” Vernon Knuckey đã chứng kiến cảnh ngộ của Hannah Roennfeldt qua chừng đó năm, từng nghĩ Hannah bị ảo tưởng khi tin rằng chồng con mình còn sống, nhưng giờ đây ông ta nhìn người đàn bà trước mặt, lại có cùng cảm giác đó. Lucy cứ tưởng là đã được trả về với mẹ. Con bé ôm Isabel thật chặt khi cô hôn lên má nó, khiến cô không thể nào dứt ra khỏi làn da mềm mại ấy. Harry Garstone đặt tay ngang hông con bé, giằng nó ra.
Mặc dù mọi chuyện xảy ra trong hai mươi tư giờ qua đã báo trước kết cục này, mặc dù từ lần đầu tiên nhìn thấy Lucy, Isabel đã ôm nỗi sợ hãi về ngày hôm nay, giờ đây cô vẫn thấy xé cả ruột gan.
“Làm ơn mà!” cô nài nỉ trong nước mắt. “Tôi xin ông!” Giọng cô dội khắp những bức tường trống trải. “Làm ơn đừng mang con tôi đi!”
Khi đứa nhỏ cuối cùng cũng bị giằng khỏi tay cô, miệng la hét, Isabel ngã quỵ xuống nền đá, âm thanh khô khốc vọng lại.
***
Hannah Roennfeldt không thể ngồi yên. Cô hết nhìn đồng hồ đeo tay, rồi lại xem đồng hồ trên bệ lò sưởi, rồi quay sang hỏi em gái – hỏi bất kỳ ai có thể cho cô biết cô đã chờ bao lâu rồi. Con thuyền khởi hành ra Janus sáng hôm qua, và kể từ đó mỗi phút trôi qua nặng nề, chậm rãi như vua Sisyphus chịu hình phạt đẩy hòn đá ngược lên đỉnh núi.
Cô vẫn dường không thể tin nổi rằng mình sẽ gặp lại con gái. Kể từ khi có manh mối quanh chiếc lục lạc, cô cứ mơ mộng nghĩ đến ngày con gái trở về. Những vòng tay ôm. Những giọt nước mắt. Những nụ cười. Cô cắt hoa sứ ngoài vườn cắm trong phòng trẻ, để mùi hương tỏa khắp căn nhà nhỏ. Cô vừa lau dọn vừa mỉm cười; vừa khẽ hát vừa đặt lại mấy con búp bê trên ngăn tủ kéo. Rồi nỗi lo lắng xộc đến: con bé ăn được những gì? Vậy là cô nhờ Gwen đi chợ mua táo, sữa và kẹo bánh. Khi em gái còn chưa kịp đi chợ về, Hannah đột nhiên băn khoăn, nghĩ rằng chắc cô phải chuẩn bị thêm món gì khác. Không kịp ăn uống Hannah chạy ngay sang nhà bà Dernley hàng xóm, mẹ của năm đứa con nhỏ để hỏi xem trẻ con cỡ tuổi Grace thì nên cho ăn gì. Fanny Darnley vốn thích ngồi lê, ngay lập tức kể lại với ông Kelly ở tiệm chạp phô rằng Hannah đã hóa điên, giờ còn bày trò dọn cho ma ăn nữa – khi đó tin tức vẫn chưa lọt ra ngoài. “Không ai thích đặt điều gì cho xóm giềng, nhưng mà... người ta xây nhà thương điên là có lý do chứ, phải không ông? Tôi không ưa chuyện có nguời như vậy sống gần sắp nhỏ nhà tôi. Ông mà là tôi thì ông cũng nghĩ vậy thôi.”
***
Cú điện thoại từ đồn cảnh sát chỉ qua loa. “Ông nên xuống tận nơi, thưa ông Graysmark. Con gái ông đang ở đây.”
Bill Graysmark đến đồn cảnh sát ngay chiều hôm đó, gan ruột rối bời. Cú điện thoại làm ông nghĩ ngay đến việc phải thấy Isabel nằm trên giường lạnh, chờ người nhà đến nhận xác. Dường như ông còn không nghe hết những lời viên cảnh sát nói sau đó trên chiếc điện thoại vừa lắp. Với Bill, kết luận hiển nhiên nhất chỉ là cái chết. Không thể là đứa con thứ ba. Làm sao ông có thể mất hết cả đám con cái – làm sao Chúa để chuyện như vậy xảy ra được? Tâm trí ông không thể tập trung vào những lời giải thích về em bé nhà Roennfeldt, rồi còn chuyện liên quan đến Tom và một thi thể.
Tại đồn cảnh sát người ta đưa Bill vào phòng sau, nơi đó con gái ông ngồi trên ghế gỗ, hai tay đặt trên đùi. Ông cứ ngỡ là Isabel đã chết, vậy nên khi thấy con, ông ứa nước mắt.
“Isabel. Isabubba!” ông thầm thì, kéo con vào lòng. “Vậy mà ba cứ tưởng sẽ không còn gặp con nữa.”
Mấy giây sau ông nhận ra Isabel có gì đó thật lạ lùng: cô không choàng tay ôm ông; không nhìn ông. Cô ngồi thõng người xuống ghế, không một chút sinh khí, gương mặt nhợt nhạt.
“Lucy đâu rồi?” ông hỏi, đầu tiên là hỏi Isabel, rồi quay sang hỏi viên cảnh sát Garstone. “Nhỏ Lucy đâu rồi? Còn Tom nữa?” Tâm trí ông lại quay mòng mòng: hẳn hai cha con đã bị chết đuối... Hẳn là vậy rồi.
“Anh Sherbourne đang ở trong nhà giam, thưa ông.” Viên cảnh sát đóng dấu lên mảnh giấy trên bàn. “Anh ta sẽ được đưa đến Albany sau khi phiên sơ thẩm.”
“Sơ thẩm? Chuyện quái quỷ gì vậy? Lucy đâu rồi?”
“Nó đang ở với mẹ ruột, thưa ông.”
“Rõ ràng là nó không có ở đây! Anh đã làm gì nó vậy? Chuyện gì đang xảy ra thế này?”
“Có vẻ như cô Hannah Roennfeldt mới là mẹ ruột của nó.”
Bill cho là mình nghe nhầm, vẫn tiếp tục khăng khăng, “Tôi yêu cầu anh trả con rể tôi ngay bây giờ.”
“Tôi e là tôi không thể làm việc đó, thưa ông. Anh Sherbourne hiện đang bị tạm giam.”
“Tạm giam? Vì cái quỷ gì kia chứ?”
“Tính tới giờ thì có các tội làm giả hồ sơ Ngành, thiếu trách nhiệm công chức. Đó là bắt đầu thôi. Rồi còn tội bắt cóc trẻ con. Rồi còn chuyện tụi tôi mới đào được xương cốt của Frank Roennfeldt trên đảo Janus Rock.”
“Anh loạn trí rồi sao?” Ông quay sang nhìn con gái, đột nhiên hỏi ra cái vẻ thẫn thờ nhợt nhạt đó. “Con đừng lo, con à. Ba sẽ giải quyết được. Có chuyện gì đi nữa thì hẳn đã có sự nhầm lẫn, ba sẽ làm cho tới cùng.”
“Tôi nghĩ ông vẫn chưa hiểu ra, ông Graysmark à,” viên cảnh sát lại lên tiếng.
“Anh nói đúng, tôi không hiểu gì cả. Rồi anh sẽ phải trả giá! Dám lôi con giá tôi vào đồn cảnh sát chỉ vì một chuyện hoang đường. Vu khống con rể tôi.” Bill quay sang nhìn con gái. “Isabel, con nói cho anh ta biết đi, tất cả chỉ là bịa đặt thôi!”
Con gái ông vẫn ngồi im, gương mặt vô cảm. Người cảnh sát hắng giọng. “Chị Sherbourne không chịu nói gì cả, thưa ông.”
***
Sự tĩnh lặng trong nhà giam đè nặng lên tâm trí Tom, cũng đặc quánh, chầm chậm chảy như thủy ngân. Đã từ lâu cuộc sống của anh gắn liền với sóng gió, với nhịp quay đèn. Đột nhiên mọi thứ ngừng lại. Anh thẫn thờ nghe tiếng chim quất roi[2] tuyên bố lãnh địa từ trên ngọn cây bạch đàn karri cao vút.
[2] Ở đây là chim whipbird: một loài chim đặc trưng của Australia có tiếng kêu như tiếng roi quất (whip có nghĩa là ngọn roi trong tiếng anh) (ND)
Sự cô quạnh này cũng quen thuộc, như lúc anh còn đơn chiếc ở Janus. Anh tự hỏi phải chăng chính anh vừa tưởng tượng ra những năm tháng sống cùng Isabel và Lucy. Thế rồi anh đút tay vào túi và lấy ra dải ruy-băng bằng satin màu tím của con bé, nhớ lại nụ cười của nó khi nó nhặt lên đưa cho anh. “Ba cầm cho Lulu một chút nghe.” Khi Harry Garstone cố tịch thu dải ruy-băng ở đồn cảnh sát, Knuckey đã nổi cáu. “Thôi đi cậu ơi. Chẳng lẽ anh ta âm mưu thắt cổ tôi với cậu bằng cái thứ trời ơi đó à!” Tom cuộn dải ruy-băng lại, cất kỹ.
Anh không thể dung hòa nỗi buồn khi nghĩ đến việc mình vừa làm, với cảm giác nhẹ lòng trong sâu thẳm khi sự thật đã được nói ra. Hai thứ cảm giác đối lập, tạo ra một phản ứng kỳ lạ, bị lấn lướt bởi một cảm giác thứ ba – ý nghĩ rằng anh đã tước lấy đứa con của Isabel. Anh thấy như mình bị ghim trên móc sắt, thấy tan nát cõi lòng, như Hannah Roennfeldt hẳn từng cảm thấy; như Isabel đã phải chịu đã nhiều lần và giờ đây lại thêm một lần nữa. Anh bắt đầu tự hỏi làm sao mình lại gây ra nhiều đau khổ đến vậy, mình đã làm cái quỷ gì thế này.
Anh cố hiểu cho được – hết thảy tình yêu thương này đã bị bóp méo, bị phân tán, như ánh sáng đi qua thấu kính đèn.
***
Vernon Knuckey biết Isabel từ khi cô chỉ là đứa trẻ còn chập chững. Bill Graysmark là thầy dạy năm đứa con của Knuckey. “Tốt nhất là ông đưa cô ấy về nhà,” Knuckey rầu rĩ khuyên Bill. “Ngày mai tôi sẽ nói chuyện với cô ấy.”
“Nhưng còn...”
“Cứ đem Isabel về đã, Bill à. Đem con bé về nhà đi.”
“Isabel con ơi!” Người mẹ ôm chầm lấy cô ngay khi Isabel vừa bước qua cửa. Violet Graysmark cũng rối bời như ai, nhưng khi nhìn thấy bộ dạng của con gái, bà không hỏi gì cả. “Giường đã dọn sẵn. Bill, mình mang túi của nó vào đi.”
Isabel lơ đãng bước vào nhà, gương mặt trống rỗng. Violet dìu cô ngồi xuống ghế tựa rồi vội đi vào bếp và quay trở ra cầm theo ly nước. “Nước ấm pha brandy. Uống đi con,” bà nói. Isabel lặng thing uống cạn ly, đặt lại trên chiếc bàn con.
Violet mang vào một tấm chăn, phủ lên đầu gối cô con gái, mặc dù căn phòng đã đủ ấm. Isabel bắt đầu miết tay lên mặt len, ngón trỏ chạy theo những đường kẻ ô vuông. Cô tập trung đến nỗi dường như không hề nghe thấy tiếng mẹ hỏi, “Con có cần gì nữa không hả cưng? Con có đói không?”
Bill ló đầu qua cửa, ra dấu gọi Violet vào bếp. “Nó đã nói gì chưa?”
“Không nói năng gì cả. Tôi nghĩ nó vẫn còn sốc, mình à.”
“Tôi cũng còn sốc. Tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả. Sáng mai tôi sẽ ra đồn, làm cho ra lẽ. Hannah Roennfeldt đã rồ dại bao nhiêu năm nay rồi. Còn ông già Potts đó nữa, cứ nghĩ có tiền là muốn gì cũng được sao.” Bill kéo vạt áo gi-lê qua bụng. “Tôi sẽ không để hai cha con cái cô loạn trí đó ép nhà mình, mặc cho ông ta có bao nhiêu tiền đi nữa.”
***
Đêm đó Isabel nằm trên chiếc giường từ ngày thơ ấu, giờ đây trở nên lạ lẫm, chật chội. Cơn gió nhẹ khẽ đẩy rèm cửa bằng vải ren, bên ngoài tiếng dế rì rầm theo nhịp sao trời lấp lánh. Cũng trong một đêm như đêm nay, dường như chỉ vừa chớp mắt đó thôi, cô cũng đã thao thức nằm trên chiếc giường này, nôn nóng chờ hôn lễ sáng hôm sau. Cô đã từng cảm ơn Chúa đã mang Tom Sherbourne đến: đã để anh được sinh ra, giữ anh an toàn nơi chiến trận, mang anh đến với cô bằng cơn gió của Định mệnh, khiến cô là người đầu tiên gặp anh khi anh vừa đặt chân đến xứ Mũi.
Cô cố nhớ lại cái cảm giác hồi hộp sung sướng đó, cái cảm giác rằng sau những đau khổ và mất mát của cuộc chiến, cuối cùng sự sồng cũng trở lại, nở hoa. Nhưng cảm giác đó đã mất rồi: giờ đây tất cả chỉ như một lầm lỗi, một thứ ảo tưởng. Hạnh phúc của cô ở Janus giờ đã xa xôi, không thể mường tượng được nữa. Vậy là trong hai năm Tom đã lừa dối cô trong từng lời nói, trong cả sự im lặng. Nếu cô còn không nhận ra sự lừa dối đó, liệu cô đã không nhận ra những gì khác nữa? Tại sao anh ta không hề hé lời về chuyện từng gặp Hannah Roennfeldt? Anh ta đang giấu diếm điều gì? Trong thoáng chốc choáng váng cô tưởng tượng ra Tom, Hannah và Lucy… một gia đình hạnh phúc. Cảm giác bị phản bội từng bắt đầu đeo bám cô ở Janus giờ quay lại, tăm tối hơn, quyết liệt hơn. Có lẽ anh ta từng bỏ vợ… mà biết đâu không chỉ một người… ở bên phía đông… biết đâu còn có cả con cái… Những ý nghĩ kỳ quặc đó trở nên cũng tin được, còn khá là thuyết phục vì chúng lấp đầy khoảng trống trong ký ức của Isabel giữa đêm trước ngày cưới và hiện tại nghiệt ngã trước mắt. Ngọn hải đăng cảnh báo nguy hiểm. Nó lên tiếng khuyên người khác phải tránh xa. Vậy mà cô đã lầm tưởng đó lại là chốn nương náu an toàn.
Cô đã mất con. Khi thấy Lucy sợ hãi và đau đớn khi bị chia cắt khỏi hai người thân thiết trên thế gian, cô tưởng như đã không thể chịu nổi. Nhưng còn chuyện chính người chồng của cô đứng sau những việc đó – chính người đàn ông mà cô ngưỡng mộ, đã trao trọn cuộc đời… Isabel thấy không thể hiểu được. Anh ta từng hứa sẽ chăm sóc cô, vậy mà anh ta đã làm cái việc chỉ có thể hủy hoại cuộc đời cô.
Tập trung suy nghĩ về Tom như vậy, mặc dù vô cùng đau đớn, nhưng lại giúp cô tránh tự vấn chính mình, hẳn sẽ còn giằng xé hơn. Một cảm giác sắt đá chậm rãi lớn dần lên giữa những bóng đen trong tâm trí Isabel: một thôi thúc trừng phạt – cơn thịnh nộ của con thú hoang vừa mất con. Ngày mai cảnh sát sẽ tra hỏi cô. Khi những ánh sao vừa tắt lịm trên bầu trời đang hửng sáng, cô đã thuyết phục được chính mình: Tom đáng phải chịu trừng phạt vì việc anh ta đã làm. Và chính anh chứ không ai khác vừa đưa cho cô thứ vũ khí để làm việc đó.