There is no such thing as a moral or immoral book; books are well written or badly written.

Oscar Wilde, Picture of Dorian Gray, 1891

 
 
 
 
 
Tác giả: Frank Herbert
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 48
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5856 / 761
Cập nhật: 2020-09-12 14:37:53 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 25
ột lần cha nói với ta rằng lòng tôn trọng sự thật đang tiến gần tới chỗ trở thành nền tảng của mọi giáo lý. "Không điều gì có thể hiện ra từ con số không," Người nói. Đây là suy nghĩ thâm sâu nếu người ta hiểu được "sự thật" có thể không ổn định đến thế nào.
- trích "Đàm luận với Muad'Dib" của Công chúa Irulan
"Tôi luôn luôn tự hào vì mình có thể nhìn nhận vấn đề theo đúng bản chất của chúng," Thufir Hawat nói. "Đó là một lời nguyền khi trở thành Mentat. Anh không thể ngừng phân tích dữ liệu."
Khi ông nói, gương mặt già nua thô kệch có vẻ điềm tĩnh trong ánh sáng lờ mờ trước lúc rạng đông. Đôi môi nhuốm màu sapho mím lại thành một đường thẳng với những nếp nhăn tỏa ra phía trên.
Một người mặc áo choàng im lặng ngồi chồm hỗm trên cát đối diện Hawat, hình như lời Hawat nói không làm ông ta nhúc nhích.
Hai người ngồi xổm bên dưới vòm đá trông xuống một vùng đất thấp rộng lớn. Bình minh đang lan rộng trên những vách núi lởm chởm phía bên kia lòng chảo, phủ màu hồng lên mọi vật. Bên dưới vòm đá không khí rất lạnh, một cái lạnh khô thấu xương còn lại từ ban đêm. Ngay trước lúc bình minh vừa có một cơn gió ấm áp nhưng bây giờ thì gió cũng lạnh rồi. Hawat có thể nghe thấy từ phía sau tiếng răng đánh vào nhau lập cập của những chiến binh còn lại trong đội quân của ông.
Người đàn ông ngồi xổm đối diện Hawat là một người Fremen đã vượt qua vùng đất thấp trong tia sáng đầu tiên của bình minh giả tạo, lướt nhanh trên cát, lẫn vào những đụn cát, gần như không để ai nhìn thấy chuyển động của ông ta.
Người Fremen chĩa một ngón tay xuống dải cát ở giữa họ, vẽ một hình lên trên. Trông hình vẽ giống chiếc bát có một mũi tên từ trong bay ra. "Có rất nhiều đội tuần tra của bọn Harkonnen," ông ta nói. Ông ta nhấc ngón tay, chỉ lên phía những vách núi mà Hawat và đám thuộc hạ đã đi xuống.
Hawat gật đầu.
Rất nhiều đội tuần tra. Đúng thế.
Nhưng ông vẫn không hiểu người Fremen này muốn gì và việc này làm ông khổ sở. Người ta cho rằng sự huấn luyện Mentat trao cho một người khả năng hiểu rõ những động cơ.
Đây là đêm tồi tệ nhất trong đời Hawat. Ông đang ở Tsimpo, một thị trấn đồn trú, một khu đệm cho thành phố thủ đô trước đây - Carthag, thì bắt đầu nhận được những bản báo cáo về cuộc tấn công. Đầu tiên, ông nghĩ: Đó là một cuộc đột kích. Bọn Harkonnen đang thử nghiệm.
Nhưng báo cáo nối tiếp báo cáo - ngày càng dồn dập hơn.
Hai quân đoàn đổ bộ vào Carthag.
Năm quân đoàn - năm mươi lữ đoàn! - tấn công căn cứ chính của Công tước tại Arrakeen.
Một quân đoàn ở Arsunt.
Hai chiến đoàn ở Đá Vụn.
Sau đó các báo cáo ngày càng chi tiết hơn - có quân Sardaukar của Hoàng đế trong lực lượng tấn công - có khả năng là hai quân đoàn Sardaukar. Và có thể thấy rõ bọn xâm lược biết chính xác phải gửi bao nhiêu quân đến đâu. Chính xác! Thật là tính toán như thần.
Cơn thịnh nộ điên cuồng của Hawat đã dâng lên tới mức đe dọa chức năng ôn hòa của năng lực Mentat. Quy mô của cuộc tấn công giáng vào tâm trí ông như một cú đòn thô bạo giáng vào thể xác ông.
Lúc này, trốn dưới một đống đá sa mạc, ông gật đầu với chính mình, quấn chặt chiếc áo choàng nát tươm, bị chém rách tả tơi quanh mình như để né tránh những cái bóng lạnh lẽo.
Quy mô của cuộc tấn công.
Ông vẫn luôn cho rằng kẻ thù sẽ thuê ngắn hạn một chiếc tàu hàng của Hiệp hội để tiến hành những cuộc đột kích thăm dò. Đó là nước cờ thí tốt khá thông thường trong kiểu chiến tranh Gia tộc với Gia tộc này. Các tàu hàng đều đặn hạ và cất cánh trên Arrakis để vận chuyển hương dược cho Gia tộc Atreides. Hawat đã tiên liệu các biện pháp chống trả những cuộc đột kích hú họa từ những con tàu chở hương dược giả mạo. Nếu chúng có thực sự tấn công thì cùng lắm cũng chỉ mười lữ đoàn.
Nhưng đã có tới hơn hai nghìn tàu chiến hạ cánh xuống Arrakis ở lần thông kê cuối cùng - không chỉ có tàu hàng mà cả tàu chiến, tàu do thám, tàu thiết giáp, tàu nghiền, tàu chở quân, tàu trút...
Có nhiều hơn một trăm lữ đoàn - những mười quân đoàn!
Toàn bộ thu nhập từ hương dược của Arrakis trong năm mươi năm có thể chỉ đủ để trả giá cho một sự liều lĩnh đến thế.
Có thể lắm chứ.
Ta đã đánh giá quá thấp những gì tên Nam tước sẵn sàng bỏ ra cho cuộc tấn công, Hawat nghĩ. Ta đã làm Công tước thất vọng.
Lại còn chuyện tên phản bội nữa.
Ta sẽ sống đủ lâu để nhìn thấy mụ ta bị bóp cổ! ông nghĩ. Lẽ ra ta nên giết mụ phù thủy Bene Gesserit đó ngay khi có cơ hội. Trong tâm trí ông không còn gì nghi ngờ về danh tính kẻ phản bội - Lệnh bà Jessica. Mụ ta khớp với tất cả những sự việc xảy ra.
"Gurney Halleck, thuộc hạ của ông, và một nhóm trong đội quân của ông ta vẫn an toàn cùng với những người bạn buôn lậu của chúng ta," người Fremen nói.
"Tốt."
Vậy là Gurney sẽ thoát khỏi cái hành tinh địa ngục này. Chúng ta sẽ không chết hết.
Hawat liếc đám thuộc hạ ở đằng sau. Mới đêm qua ông hãy còn ba trăm thuộc hạ giỏi nhất. Giờ thì số đó chỉ còn lại hai mươi người, một nửa bị thương. Lúc này vài người đã ngủ, người đứng, kẻ dựa vào vách đá, kẻ nằm ườn trên cát dưới tảng đá. Chiếc tàu cuối cùng của họ, chiếc tàu họ đã sử dụng như thiết bị hiệu ứng đất chở những người bị thương, thì đã hỏng từ trước rạng đông. Họ đã cắt nó ra bằng súng laze rồi giấu các mảnh vỡ đi, sau đó thì lên đường đến nơi ẩn trốn tại rìa vùng trũng này.
Hawat chỉ biết đại khái về vị trí của họ - cách Arrakeen khoảng hai trăm ki lô mét về phía Đông Nam. Những con đường giao thông chính giữa các cộng đồng sietch ở Tường Chắn nằm đâu đó phía Nam họ.
Người Fremen đối diện Hawat lật mũ trùm đầu và mũ sa phục ra đằng sau để lộ mái tóc và chòm râu màu cát. Tóc ông ta chải hất ra sau, phô ra cái trán cao và hẹp. Ông ta có đôi mắt toàn màu xanh do chế độ ăn nhiều hương dược, đôi mắt khiến người đối diện khó đoán được suy nghĩ hay cảm xúc của ông ta. Một bên râu và ria mép bị vấy bẩn, tóc ở đó rối lại do sức ép của cái ống hứng cong từ các phích cắm mũi dẫn ra.
Người đàn ông tháo các phích cắm, điều chỉnh lại. Ông ta xoa lên vết sẹo cạnh mũi.
"Nếu tối nay ông đi qua sink ở đây," người Fremen nói, "ông không được dùng những tấm chắn bảo vệ. Có một chỗ nứt trong bức tường..." Ông ta xoay người bằng gót chân, chỉ về phía Nam. "... ở đó, có cát lộ thiên chảy xuống erg. Những tấm chắn bảo vệ sẽ thu hút một...", ông ta ngập ngừng, "... con sâu cát. Bọn sâu cát không thường tới đây, nhưng cứ kích hoạt tấm chắn là sẽ có con mò đến."
Ông ta nói sâu cát, Hawat nghĩ. Ông ta định nói về một điều khác. Là cái gì? Ông ta muốn nói gì với chúng ta?
Hawat thở dài.
Ông không thể nhớ nổi mình đã bao giờ mệt mỏi thế này chưa. Cơ bắp ông mệt lử đến nỗi những viên thuốc trợ lực cũng không thể làm chúng thư giãn.
Lũ Sardaukar đáng nguyền rủa!
Với nỗi cay đắng tự buộc tội mình, ông đối mặt với ý nghĩ về những tên lính cuồng tín và sự phản bội của Đế quốc mà bọn chúng là hiện thân. Cách đánh giá dữ liệu kiểu Mentat của ông nói với ông rằng ông chẳng có mấy cơ hội trưng những bằng chứng về sự phản bội này ra trước Hội đồng Cấp cao Landsraad, nơi công lý có thể được thực thi.
"Ông có muốn đến chỗ những người buôn lậu không?" người Fremen hỏi.
"Có thể đến đó sao?"
"Đường đến đó rất dài."
"Người Fremen không thích nói từ không," một lần Idaho đã nói với ông như thế.
Hawat nói: "Ông vẫn chưa cho tôi biết liệu người của ông có giúp được những người bị thương của tôi hay không."
"Họ bị thương."
Lần nào cũng cái câu trả lời chết tiệt ấy!
"Chúng tôi biết họ bị thương!" Hawat cáu kỉnh. "Chuyện đó không..."
"Yên lặng đi nào, ông bạn," người Fremen cảnh cáo. "Những người bị thương của ông nói gì? Trong bọn họ, ai có thể nhận ra nhóm của ông thiếu nước không?"
"Chúng ta không bàn về nước," Hawat nói. "Chúng ta..."
"Tôi không thể hiểu sự do dự của ông," người Fremen nói. "Họ là bạn ông, thành viên trong nhóm của ông. Ông có nước không?"
"Không đủ."
Người Fremen chỉ vào quân phục của Hawat, làn da lộ ra dưới lớp áo. "Ông bị mắc kẹt trong sietch mà không mang theo sa phục. Ông phải đưa ra một quyết định nước, ông bạn ạ."
"Chúng tôi có thể thuê ông giúp không?"
Người Fremen nhún vai. "Ông không có nước." Ông ta liếc nhóm người đằng sau Hawat. "Ông sẽ dành cho tôi mấy người trong số người bị thương của ông?"
Hawat im lặng, nhìn ông ta chằm chằm. Là một Mentat, ông có thể thấy sự giao tiếp giữa họ thật lệch pha. Ở đây những âm thanh trong lời nói không được kết nối theo một thể thức bình thường.
"Tôi là Thufir Hawat," ông nói. "Tôi có thể phát ngôn thay Công tước. Bây giờ tôi sẽ đưa ra cam kết dành cho sự giúp đỡ của ông. Tôi muốn một hình thức giúp đỡ hạn chế, bảo tồn lực lượng của tôi chỉ cần trong khoảng thời gian đủ dài để tôi giết một kẻ phản bội, mụ ta nghĩ không ai báo thù mụ được."
"Ông muốn tôi đứng về phía ông trong một mối thù truyền kiếp?"
"Cái mối thù truyền kiếp đó tôi sẽ tự tay xử lý. Tôi muốn được rảnh trách nhiệm với những người bị thương để có thể giải quyết chuyện này."
Người Fremen giận dữ. "Ông có thể chịu trách nhiệm về những người bị thương của mình như thế nào đây? Họ chịu trách nhiệm về chính mình. Chúng ta đang bàn về chuyện nước, Thufir Hawat. Phải chăng ông muốn tôi miễn cho ông việc tự mình quyết định?"
Người đàn ông đặt tay lên vũ khí giấu dưới áo choàng.
Hawat căng thẳng, băn khoăn: Có sự phản bội nào ở đây không?
"Ông sợ gì?" người Fremen hỏi.
Bọn người này và cái tính thẳng thắn đến mức khiến người ta phải bối rối của họ! Hawat nói thận trọng: "Người ta treo giải thưởng cho cái đầu của tôi."
"Ái chà chà." Người Fremen bỏ tay ra khỏi vũ khí. "Ông nghĩ chúng tôi có sự tham nhũng của đế quốc La Mã phương Đông. Ông không hiểu chúng tôi. Bọn Harkonnen không có đủ nước để mua dù chỉ một đứa bé nhỏ nhất của chúng tôi đâu."
Nhưng bọn chúng có tiền thuê Hiệp hội vận chuyển hơn hai nghìn tàu chiến, Hawat nghĩ. Và cái mức giá đó vẫn làm ông choáng váng.
"Cả hai chúng ta đều chiến đấu chống bọn Harkonnen," Hawat nói. "Chẳng lẽ chúng ta không nên chia sẻ những vấn đề và cách giải quyết vấn đề đang tranh luận sao?"
"Chúng ta đang chia sẻ đây," người Fremen nói. "Tôi vừa trông thấy ông đánh nhau với bọn Harkonnen. Ông giỏi lắm. Có nhiều lúc tôi sẽ rất cảm kích nếu có được cánh tay của ông ở bên cạnh."
"Hãy nói cánh tay của tôi có thể giúp ông ở đâu," Hawat nói.
"Ai biết được?" người Fremen hỏi. "Quân đội Harkonnen có mặt khắp nơi. Nhưng ông vẫn chưa đưa ra quyết định nước hoặc trao nó cho những người bị thương."
Ta phải thận trọng, Hawat tự nhủ. Ở đây có điều gì đó ta chưa hiểu.
Hawat nói: "Ông sẽ chỉ cho tôi con đường của ông, con đường Arrakeen chứ?"
"Suy nghĩ của người lạ," người Fremen nói, giọng toát lên vẻ chế nhạo. Ông ta chỉ về phía Tây Bắc bên kia đỉnh núi. "Tối qua chúng tôi đã theo dõi ông đi qua vùng cát." Ông ta hạ cánh tay xuống. "Ông để quân của mình đi trên bề mặt trơn trượt của những đụn cát. Thật tệ. Ông không có sa phục, không có nước. Ông sẽ không trụ lâu được."
"Tới những con đường ở Arrakis không dễ dàng," Hawat nói.
"Đúng thế. Nhưng chúng ta vừa giết bọn Harkonnen."
"Ông làm gì với những người bị thương của mình?" Hawat hỏi.
"Chẳng lẽ một người không biết khi nào anh ta đáng được cứu ư?" người Fremen hỏi. "Những người bị thương của ông biết ông không có nước." Ông ta nghiêng đầu, ngước sang một bên nhìn chếch vào Hawat. "Rõ ràng đây là thời điểm ra quyết định nước. Cả những người bị thương lẫn người không bị thương phải hướng về tương lai cả nhóm."
Tương lai cả nhóm, Hawat nghĩ. Nhóm người Atreides. Có một ý nghĩa ở trong đó. Ông buộc mình hỏi câu hỏi mà ông đang trốn tránh.
"Ông có tin gì về Công tước hay con trai ngài không"
Đôi mắt màu-xanh-trong-màu-xanh nhìn chằm chằm vào Hawat. "Tin gì?"
"Số phận của họ!" Hawat cáu kỉnh.
"Mọi người đều chung một số phận," người Fremen nói. "Người ta nói Công tước của ông đã tiếp nhận số phận ngài. Còn Lisan al-Gaib con trai ngài thì nằm trong tay Liet. Liet không nói gì cả."
Ta đã biết câu trả lời mà không cần hỏi, Hawat nghĩ.
Ông liếc đám thuộc hạ ở phía sau. Lúc này tất cả bọn họ đều thức. Họ đã lắng nghe. Họ đang nhìn chằm chằm qua dải cát với nét mặt cho thấy họ hiểu rất rõ: không có đường cho họ quay trở về Caladan, còn bây giờ thì Arrakis cũng không còn nữa.
Hawat quay lại người Fremen. "Ông có biết tin gì về Duncan Idaho không?"
"Anh ta đang ở trong ngôi nhà lớn khi tấm chắn bảo vệ bị ngắt," người Fremen nói. "Tôi chỉ nghe được có vậy... không hơn."
Mụ ta đã ngắt tấm chắn bảo vệ và cho bọn Harkonnen vào, ông nghĩ. Ta là người luôn ngồi quay lưng ra cửa. Làm sao mụ có thể làm chuyện đó khi nó cũng có nghĩa là chống lại chính con của mình? Nhưng... ai mà biết một mụ phù thủy Bene Gesserit suy nghĩ thế nào chứ... nếu người ta có thể gọi đó là suy nghĩ?
Hawat cố nuốt nước bọt trong cổ họng khô khốc. "Khi nào ông sẽ biết tin tức về thằng bé?"
"Chúng tôi không biết gì nhiều về những chuyện xảy ra ở Arrakeen," người Fremen nói. Ông ta nhún vai. "Ai biết được?"
"Ông có cách nào tìm ra không?"
"Có thể." Người Fremen xoa xoa chiếc sẹo cạnh mũi. "Hãy cho tôi biết, Thufir Hawat, ông có kiến thức về những vũ khí hạng nặng bọn Harkonnen đã sử dụng chứ?"
Trọng pháo, Hawat cay đắng nghĩ. Ai mà đoán được bọn chúng lại sử dụng pháo trong thời đại tấm chắn này cơ chứ?
"Ông muốn nói loại pháo chúng đã sử dụng làm lính của chúng tôi mắc kẹt ở trong hang," Hawat nói. "Tôi có kiến thức... lý thuyết về những vũ khí nổ như thế."
"Bất cứ kẻ nào rút lui vào một cái hang chỉ có một lối vào thì đều đáng chết," người Fremen nói.
"Tại sao ông hỏi về những vũ khí hạng nặng?"
"Liet muốn có chúng."
Liệu đó có phải điều ông ta muốn tìm hiểu từ bọn ta? Hawat băn khoăn. Ông nói: "Có phải ông đến đây để tìm kiếm thông tin về những khẩu súng lớn?"
"Liet muốn có một trong các vũ khí hạng nặng."
"Thì các anh cứ đi mà lấy một cái," Hawat châm chọc.
"Có chứ," người Fremen nói. "Chúng tôi lấy một cái rồi. Chúng tôi giấu nó ở nơi mà Stilgar có thể nghiên cứu cho Liet và Liet có thể đích thân xem xét nó nếu ông ấy muốn. Nhưng tôi không nghĩ là ông ấy sẽ muốn xem: vũ khí này không phải thứ tốt. Kiểu dáng tồi đối với Arrakis."
"Các anh... lấy một cái rồi?" Hawat hỏi.
"Một trận chiến thật tuyệt," người Fremen nói. "Chúng tôi chỉ mất hai thuộc hạ nhưng lại làm hơn một trăm người bọn chúng phải đổ nước."
Quanh khẩu pháo nào cũng có bọn Sardaukar, Hawat thầm nghĩ. Cái gã điên xứ sa mạc này nói ráo hoảnh về chuyện chỉ mất hai thuộc hạ trong cuộc chiến với bọn Sardaukar!
"Giá như không có những kẻ khác chiến đấu bên cạnh bọn Harkonnen thì chúng tôi đã không mất hai người," người Fremen nói. "Vài tên trong số chúng là những chiến binh cừ khôi."
Một thuộc hạ của Hawat khập khiễng tiến lên, nhìn xuống người Fremen đang ngồi xổm trên cát. "Ông đang nói về quân Sardaukar phải không?"
"Ông ta đang nói về quân Sardaukar," Hawat nói.
"Sardaukar!" người Fremen nói, dường như trong giọng toát lên niềm vui sướng. "Chà chà, thì ra bọn chúng là Sardaukar! Đây thực sự là một đêm tuyệt vời. Sardaukar. Quân đoàn nào vậy? Ông có biết không?"
"Chúng tôi... không biết," Hawat nói.
"Sardaukar," người Fremen trầm ngâm. "Tuy nhiên bọn chúng mặc trang phục Harkonnen. Điều đó không lạ sao?"
"Hoàng đế không muốn người ta biết ngài đang chống lại một Đại Gia tộc," Hawat nói.
"Nhưng ông biết bọn chúng là Sardaukar."
"Tôi là ai chứ?" Hawat chua chát hỏi.
"Ông là Thufir Hawat," ông ta nói thản nhiên. "Được rồi, sớm muộn gì chúng tôi cũng sẽ biết thôi. Chúng tôi vừa gửi ba tên tù binh Sardaukar cho người của Liet thẩm tra."
Sĩ quan phụ tá của Hawat nói chậm rãi, vẻ hoài nghi lộ rõ trong từng lời: "Ông... bắt được quân Sardaukar?"
"Chỉ ba tên thôi," người Fremen nói. "Bọn chúng đánh nhau cũng cừ."
Giá như chúng ta có thời gian để liên kết với những người Fremen này, Hawat nghĩ. Đó là một lời than vãn chua chát trong đầu ông. Mẹ Vĩ đại ơi, giá như chúng ta có thể huấn luyện và trang bị vũ khí cho họ thì chúng ta đã có một lực lượng chiến binh cừ khôi đến cỡ nào!
"Có lẽ ông đang trì hoãn vì lo lắng cho Lisan al-Gaib," người Fremen nói. "Nếu cậu bé thực sự là Lisan al-Gaib thì không gì có thể hại cậu ta. Đừng mất công suy nghĩ về một vấn đề chưa được chứng minh."
"Tôi phục vụ... Lisan al-Gaib," Hawat nói. "An toàn tính mạng của Người là mối quan tâm của tôi. Tôi nguyện xả thân mình vì điều đó."
"Ông nguyện xả thân vì nước của Lisan al-Gaib?"
Hawat liếc sang tay sĩ quan phụ tá, anh ta vẫn đang nhìn chằm chằm vào người Fremen, rồi ông hướng về phía dáng người đang ngồi xổm. "Vì nước của Người, đúng thế."
"Ông muốn quay trở về Arrakeen, đến nơi có nước của Người?"
"Đến... đúng thế, đến nơi có nước của Người."
"Tại sao ông không nói ngay từ đầu đó là một vấn đề nước?" Người Fremen đứng lên, gắn chặt phích cắm vào mũi.
Hawat hất đầu ra hiệu cho sĩ quan phụ tá quay lại chỗ đám quân. Viên sĩ quan mệt mỏi nhún vai tuân lệnh. Hawat nghe thấy trong đám thuộc hạ có tiếng rì rầm bàn tán.
Người Fremen nói: "Luôn có một con đường đi đến nước."
Đằng sau Hawat, một thuộc hạ chửi thề. Viên sĩ quan gọi: "Thufir! Arkie chết rồi."
Người Fremen đặt một nắm tay lên tai. "Giao kèo nước! Đó là một dấu hiệu!"
Ông ta chăm chú nhìn Hawat. "Chúng tôi có một nơi tiếp nhận nước ở gần đây. Tôi gọi người của mình nhé?"
Viên sĩ quan quay lại đứng cạnh Hawat rồi nói: "Thufir ạ, có hai thuộc hạ để vợ lại Arrakeen. Họ... ồ, ông biết chuyện đó là như thế nào tại một thời điểm như lúc này đấy."
Người Fremen vẫn để nắm tay ở tai. "Đây có phải một giao kèo nước không Thufir Hawat?" ông ta hỏi.
Đầu óc Hawat làm việc liên tục như đang chạy đua. Lúc này ông đã cảm nhận được cái ngụ ý trong lời nói của người Fremen, nhưng ông sợ đám thuộc hạ mệt mỏi đứng dưới vòm đá sẽ phản ứng khi họ hiểu ra ngụ ý này.
"Một giao kèo nước," Hawat nói.
"Hãy để người của chúng tôi tham gia," người Fremen nói, hạ thấp nắm tay xuống.
Như thể đó là một tín hiệu, có bốn người vừa trượt vừa thả người xuống từ những tảng đá phía trên đầu họ. Họ lao xuống dưới vòm đá, cuộn người chết vào một chiếc áo choàng rộng thùng thình, kéo anh ta lên rồi bắt đầu vác cái xác chạy dọc theo bức tường đá về bên phải. Bụi cuốn mù mịt theo những bước chạy của họ.
Sự việc kết thúc trước khi đám thuộc hạ mệt mỏi của Hawat kịp trấn tĩnh. Nhóm người đó chạy một vòng trên vách đá, mang theo cái xác thõng xuống như cái bao bọc trong chiếc áo choàng.
Một thuộc hạ của Hawat kêu lên: "Bọn họ mang Arkie đi đâu thế? Anh ta..."
"Họ mang anh ta đi... chôn," Hawat nói.
"Người Fremen không chôn người chết!" anh ta quát lên. "Đừng có cố lừa bịp chúng tôi, Thufir. Chúng tôi biết họ đang làm cái gì. Arkie là người của..."
"Thiên đường chắc chắn dành cho người nào hy sinh vì phục vụ Lisan al-Gaib," người Fremen nói. "Nếu các anh đang phục vụ chính Lisan al-Gaib như các anh vừa nói, thì tại sao phải cất tiếng khóc thương? Ký ức về người hy sinh cho mục đích cao cả này sẽ sống mãi chừng nào trí nhớ của con người còn tồn tại."
Nhưng đám thuộc hạ của Hawat vẫn tiến lên, khuôn mặt giận dữ. Một người lính đoạt được khẩu súng laze. Anh ta bắt đầu rút súng ra.
"Đứng nguyên tại chỗ!" Hawat quát. Ông cố nén nỗi mệt mỏi đang siết chặt các cơ bắp. "Những người này kính trọng người chết của chúng ta. Tập quán khác nhau nhưng ý nghĩa giống nhau."
"Bọn họ sẽ lọc xác Arkie ra để lấy nước," người lính cầm súng gầm gừ.
"Có phải thuộc hạ của ông muốn tham dự buổi lễ?" người Fremen hỏi.
Thậm chí ông ta không nhìn ra vấn đề, Hawat nghĩ. Cái ngây thơ của người Fremen thật đáng sợ.
"Bọn họ lo lắng cho người bạn đáng kính," Hawat nói.
"Chúng tôi sẽ đối xử với bạn các người bằng lòng tôn kính như đối xử với chính người của chúng tôi," người Fremen nói. "Đây là giao kèo nước. Chúng tôi hiểu những nghi thức này. Xương thịt của một người là của chính anh ta; còn nước thì thuộc về bộ tộc anh ta."
Hawat vội nói khi người lính cầm súng tiến thêm bước nữa. "Bây giờ thì ông sẽ giúp đỡ những người bị thương chứ?"
"Điều đã cam kết thì chẳng ai thắc mắc," người Fremen nói. "Chúng tôi sẽ làm cho các vị điều mà một bộ tộc làm cho thành viên của chính họ. Đầu tiên, chúng tôi phải cho các vị mặc quần áo thích hợp và chăm lo những nhu cầu thiết yếu."
Người lính cầm khẩu súng laze ngập ngừng.
Viên sĩ quan phụ tá của Hawat nói: "Chúng ta mua sự giúp đỡ của họ bằng... nước của Arkie phải không?"
"Không phải mua," Hawat nói. "Chúng ta gia nhập những người này."
"Tập quán khác nhau," một thuộc hạ lẩm bẩm.
Hawat thở phào nhẹ nhõm.
"Và họ sẽ giúp chúng ta đến Arrakeen chứ?"
"Chúng tôi sẽ giết bọn Harkonnen," người Fremen nói. Ông ta cười toe toét. "Và cả quân Sardaukar nữa." Ông ta lùi lại, khum tay thành hình chén bên cạnh hai tai và nghiêng đầu về đằng sau lắng nghe. Ngay sau đó, ông ta hạ thấp tay xuống rồi nói: "Có tàu đến. Hãy trốn dưới tảng đá kia, ngồi yên đó."
Hawat ra hiệu và đám thuộc hạ tuân lệnh.
Người Fremen nắm lấy cánh tay Hawat, ép ông quay lại phía sau với những người khác. "Chúng tôi sẽ đánh trận này," ông ta nói. Ông ta lần xuống dưới chiếc áo choàng, rút ra một chiếc lồng nhỏ, lấy ra một con vật. Hawat nhận ra một con dơi nhỏ xíu. Con dơi quay đầu lại, và Hawat nhìn thấy một đôi mắt màu-xanh-trong-màu-xanh.
Người Fremen vuốt ve con dơi, nựng nịu nó, hát khe khẽ với nó. Ông ta uốn cong đầu con vật lên trên, cho một giọt nước bọt từ miệng ông rơi xuống cái miệng đang chĩa lên của nó. Con dơi giang cánh nhưng vẫn đậu trên bàn tay để mở của người Fremen. Ông ta lấy một chiếc ống bé xíu, gài vào bên đầu con dơi rồi nói liên tục một hồi vào chiếc ống; sau đó ông ta nâng con vật lên cao, tung nó lên trời.
Con dơi bổ nhào xuống cạnh vách đá rồi mất hút khỏi tầm nhìn.
Người Fremen gập chiếc lồng lại, nhét vào dưới áo choàng. Lại một lần nữa, ông ta cúi đầu nghe ngóng. "Bọn chúng lùng sục khắp vùng cao," ông ta nói. "Chả biết bọn chúng tìm kiếm ai ở đó."
"Chúng biết chúng tôi rút lui theo hướng này," Hawat nói.
"Đừng bao giờ cho rằng mình là đối tượng duy nhất của một cuộc săn lùng," người Fremen nói. "Hãy quan sát phía khác của vùng trũng. Ông sẽ thấy một thứ."
Thời gian dần trôi.
Vài thuộc hạ của Hawat ngọ nguậy, thì thầm.
"Im lặng như những con thú đang sợ hãi đi," người Fremen rít lên.
Hawat nhận ra có sự chuyển động gần vách đá đối diện - những vệt mờ màu nâu vàng trên nền nâu vàng bay vụt qua.
"Người bạn nhỏ của tôi mang tin đi đấy," người Fremen nói. "Nó là một người đưa tin giỏi - ngày cũng như đêm. Tôi sẽ rất buồn nếu để mất nó."
Con vật bay qua vùng sink rồi mờ dần. Trên toàn bộ dải cát rộng cỡ bốn đến năm ki lô mét tuyệt không có gì khác ngoại trừ sức ép ngày một tăng của cái nóng ban ngày - những cột không khí đi lên mờ mờ.
"Giờ thì hãy im lặng tuyệt đối," người Fremen thì thầm.
Một hàng người hiện ra từ một kẽ nứt trong vách đá đối diện, lê bước tiến thẳng ngang qua sink. Với Hawat, họ có vẻ là người Fremen, nhưng là một nhóm người vụng về đến kỳ quặc. Ông đếm được sáu người nặng nề lê bước trên những đụn cát.
Có tiếng kêu "túc túc" của cánh tàu chim vọng từ trên cao phía bên phải nhóm Hawat. Con tàu bay đến bức tường đá bên trên họ - một con tàu của Gia tộc Atreides được trang trí màu sắc chiến trận Harkonnen. Con tàu bổ nhào về phía toán người đang đi qua sink.
Toán người đứng lại trên đỉnh một đụn cát, vẫy tay.
Con tàu lượn một vòng trên đầu họ theo một đường cong hẹp, rồi quay lại bãi đáp phủ bụi ở phía trước đám người Fremen. Từ con tàu có năm người đi xuống, và Hawat nhìn thấy ánh lấp lánh mờ mờ ngăn bụi của những tấm chắn bảo vệ, và, dựa vào cách di chuyển của họ, cái vẻ thiện chiến rắn đanh của quân Sardaukar.
"Chà chà! Bọn chúng dùng những tấm chắn ngu ngốc," người Fremen bên cạnh Hawat khẽ nói bằng giọng giận dữ. Ông ta liếc về phía bức tường trơ trụi phía Nam sink.
"Bọn chúng là Sardaukar," Hawat thì thầm.
"Tốt."
Bọn Sardaukar dàn thành hàng rào nửa vòng tròn, tiến đến gần nhóm người Fremen đang đứng đợi. Ánh mặt trời lấp lánh trên những thanh kiếm bọn chúng cầm lăm lăm trên tay. Đám người Fremen đứng sát bên nhau, nhìn bề ngoài có vẻ thờ ơ.
Bất ngờ, một toán người Fremen đội cát trồi dậy xung quanh hai nhóm. Họ tiến lại phía chiếc tàu, sau đó thì vào trong tàu. Nơi nhóm Fremen và quân Sardaukar gặp nhau tại đỉnh đụn cát, cát bụi tung lên mù mịt che khuất phần nào cuộc giao tranh dữ dội.
Ngay sau đó, bụi lắng xuống. Chỉ có người Fremen vẫn còn đứng.
"Bọn chúng chỉ để lại ba người trên tàu," người Fremen bên cạnh Hawat nói. "Thật là may. Tôi không nghĩ là chúng tôi phải làm hỏng con tàu trong khi chiếm lấy nó."
Đằng sau Hawat, một thuộc hạ thì thầm: "Những tên đó là Sardaukar!"
"Ông có để ý thấy chúng đánh nhau cừ thế nào không?" người Fremen hỏi.
Hawat hít một hơi sâu. Ông ngửi thấy mùi bụi bị thiêu đốt xung quanh mình, cảm thấy sức nóng, độ khô hanh. Bằng một giọng nói cũng khô như thế, ông nói: "Đúng thế. Quả thực bọn chúng chiến đấu rất cừ."
Con tàu bị người Fremen chiếm vỗ cánh mềm mại như chim, vừa nâng mình thẳng lên trên vừa gập cánh vào rồi bay vút về phía Nam.
Thì ra những người Fremen này cũng điều khiển được tàu, Hawat nghĩ.
Trên đụn cát phía xa, một người Fremen vẫy một mảnh vải hình vuông màu xanh: một lần... hai lần.
"Chúng đến nữa đấy!" người Fremen bên cạnh Hawat quát. "Hãy sẵn sàng. Tôi cứ hy vọng chúng ta sẽ ra khỏi đây mà không có thêm phiền phức nào nữa."
Phiền phức! Hawat nghĩ.
Ông thấy ở phía Tây có thêm hai con tàu nữa từ trên cao bổ nhào xuống một vùng cát nơi đột nhiên không còn bóng dáng người Fremen nào nữa. Chỉ còn tám mảng màu xanh - tám thi thể lính Sardaukar mặc trang phục Harkonnen - vẫn nằm lại trên khung cảnh khốc liệt đó.
Một con tàu khác lướt đi trên bức tường đá bên trên Hawat. Ông thình lình hít vào một hơi khi thấy con tàu - một tàu chở quân lớn. Nó bay chậm, dang rộng cánh với cái vẻ nặng nề vì chở quá đầy, như một con chim khổng lồ trên đường về tổ.
Ở đằng xa, một tia sáng của súng laze có hình ngón tay màu đỏ tía bật ra từ một trong các con tàu đang bổ xuống. Nó quất ngang mặt cát, làm hằn lên một lằn bụi rõ mồn một.
"Lũ hèn!" người Fremen bên cạnh Hawat nói giọng the thé.
Chiếc tàu chở quân chao xuống về phía khoảnh cát có những cái xác mặc đồ xanh. Những chiếc cánh của nó trườn ra hết cỡ, bắt đầu động tác khum xuống để đỗ gấp xuống.
Hawat chú ý tới một ánh mặt trời lóe sáng trên kim loại ở phía Nam, một con tàu chim đang chúi xuống đó bằng động tác bổ nhào mạnh mẽ, cánh gập khít lại hai bên sườn, những tia lửa nó phụt ra trở thành một luồng sáng màu vàng nổi bật trên nền trời xám sẫm như bạc. Nó lao như tên bắn về phía chiếc tàu chở quân vốn không được che chắn vì đang trong phạm vi hoạt động của súng laze. Con tàu đang bổ xuống kia lao thẳng vào chiếc tàu chở quân.
Một tiếng gầm tóe lửa làm rúng động vùng lòng chảo. Đá đổ rầm rầm từ những vách đá khắp xung quanh. Một cột lửa màu đỏ cam phụt thẳng lên trời từ trảng cát nơi tàu chở quân và các tàu chim hộ tống vừa ở đó - mọi thứ chìm trong lửa.
Chính người Fremen đã cất cánh trên con tàu chim bị chiếm ấy, Hawat nghĩ. Anh ta chủ ý hy sinh để hạ chiếc tàu chở quân kia. Mẹ Vĩ đại ơi! Những người Fremen này thật ra là gì vậy chứ?
"Một cuộc trao đổi hợp lý," người Fremen bên cạnh Hawat nói. "Trên tàu đó ắt phải có tới ba trăm người. Giờ thì chúng ta phải đi lấy nước của họ và lập kế hoạch chiếm một tàu khác." Ông ta bắt đầu ra khỏi nơi họ trú ẩn nãy giờ dưới bóng những tảng đá.
Một cơn mưa những bộ đồng phục màu xanh dương nhô lên trên bức tường đá trước mặt ông, rơi xuống với tốc độ chầm chậm của trường hấp dẫn treo thấp. Trong khoảnh khắc chớp nhoáng ấy, Hawat vẫn đủ thì giờ nhận ra đó là quân Sardaukar, những khuôn mặt rắn đanh chìm trong cơn điên cuồng chiến trận, nhận ra chúng không có tấm chắn bảo vệ và tên nào cũng tay cầm dao, tay cầm súng bắn phi tiêu.
Một con dao ném ra cắm thẳng vào họng người Fremen bên cạnh Hawat khiến ông ta bật lộn ra sau, mặt bẻ quặt xuống đất. Hawat chỉ vừa rút dao ra thì cái màn đen của một phi tiêu tẩm độc đã quật ông ngã gục.
Xứ Cát Xứ Cát - Frank Herbert Xứ Cát