Số lần đọc/download: 202 / 19
Cập nhật: 2020-01-25 21:22:13 +0700
Chương 24 - Cuộc Gặp
L
eo lên bức tường bao của tu viện, Rick và Jason đã vào được tầng hai ngôi nhà gỗ của ông Peter, nơi có một cánh cửa sổ không được đóng. Trước khi tới chỗ hai cậu bé, Julia ra lệnh cho Diogo hãy giữ yên lặng và ngoan ngoãn chờ chúng ở đó. Sau đó cô bé cũng leo lên, trèo qua cửa sổ và vào một cái xưởng đầy những món đồ cơ học lạ lùng: nào búa nhỏ, lò xo, nào khung và các khớp nối bằng kim loại. Có một cánh cửa đang đóng thông với nhà thờ. Phía bên kia căn phòng là cầu thang gỗ dẫn xuống dưới. Qua những thanh gỗ của sàn nhà, ánh sáng của rất nhiều ngọn nến cùng lời qua tiếng lại của một cuộc tranh luận nảy lửa từ tầng dưới lọt lên.
Bọn trẻ nhón chân tới phía chiếu nghỉ cầu thang, lom khom ở bậc thang trên cùng, lần đầu tiên chúng nhìn thấy ông Peter Dedalus: một người đàn ông nhỏ bé, đeo kính và có cái mũi dài, trông vô cùng khổ sở bởi sự có mặt đầy kích động của Oblivia Newton.
“Lúc nào cũng ngáng đường!” Jason bức xúc nói. “Giờ mình sẽ đi và...”
“Suỵt! Trước hết hãy nghe xem họ nói gì đã!” Rick giữ cậu lại.
“Tại sao cô cứ làm khổ tôi thế?” Ông Peter lắc đầu kêu than. “Sao cô cứ dai dẳng như vậy?”
“Peter, cưng à...”
“Và đừng có gọi tôi là CƯNG!” Ông rền rĩ. “Tôi biết rõ là cô chẳng quan tâm gì đến tôi! Tôi biết rõ là cô đã luôn lừa dối tôi và cô vẫn đang tiếp tục làm vậy! Cô... cô chỉ muốn biết về những cánh cửa... và về những chiếc chìa khóa... Cô muốn biết chúng tôi đã làm gì, và vì sao lại làm vậy.”
“Ôi, không đâu. Anh nhầm rồi, Peter. Em đâu có quan tâm. Em biết rõ bọn anh đã làm gì rồi: bọn anh đã cố giấu tất cả những cánh cửa. Và thu hồi tất cả những chiếc chìa khóa. Tất cả, ngoại trừ hai chiếc.”
Chiếc chìa khóa có tay cầm hình mèo và sư tử thấp thoáng trong cổ áo Oblivia.
“Chiếc chìa khóa sư tử!” Người đàn ông bé nhỏ thốt lên. “Nhưng... cô không thể nào có nó, Oblivia!”
“Nó là chìa khóa của chúng ta mà anh Peter. Chiếc chìa khóa mở cánh cửa mà anh đã tạo nên để...”
“Không!” Ông cắt ngang lời cô ta. “Tôi không tạo nên cánh cửa nào cả! Cánh cửa đã có sẵn ở đó rồi... Tất cả những cánh cửa đều có sẵn.”
“Ra vậy. Thông tin đầu tiên. Bọn anh không phải những người tạo nên những cánh cửa. Thế thì là ai?”
“Không ai biết cả! Tôi không biết, không ai biết, kể cả Ulysses, Penelope hay bất kỳ ai. Đó là một trong những quy tắc của chúng tôi.”
“Quy tắc ư Peter?”
Ông ấy trượt vào một góc của căn phòng, đưa tay ôm đầu.
“Phải, những quy tắc... Những quy tắc mà tôi đã phản bội.”
Oblivia lấy một chiếc ghế và ngồi lên đó.
“Nói em nghe về những quy tắc đi anh Peter.”
“Không... Tôi không thể...”
“Tại sao lại không? Bạn bè cũ của anh mất hết rồi. Chỉ còn lại mình em thôi.”
“Nhưng cô... làm thế nào cô có được chiếc chìa khóa đó?” Ông Peter khẽ hỏi. “Tôi đã mở cánh cửa ở Ngôi nhà Gương, tôi đã tháo chiếc chìa khóa và gửi nó cho Ulysses. Ông ấy lẽ ra phải cất nó ở nơi an toàn, cùng những chiếc khìa khóa khác...”
“Nhưng lại không phải vậy, cục cưng bé nhỏ ạ. Ulysses đã ở thế giới bên kia rồi và người làm vườn đã cầm nó.”
“Người làm vườn ư?” Ông Peter kinh ngạc hỏi.
“Đúng, người làm vườn.” Oblivia khẳng định kèm một nụ cười chiến thắng.
“Ông già điên khùng đó...”
“Chính là ông ta,” người phụ nữ nói. “Có lẽ ông ta đã tìm ra nơi cất giấu những chiếc chìa khóa khác và bắt đầu lấy chúng ra.”
Ông Peter nhìn cô ta chăm chú.
“Vậy thì có lẽ chính ông ta là người đã mở lại những cánh cửa. Bằng... bằng...”
“Bằng gì, anh Peter?”
“Bằng Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên.” Ông thì thầm trong một tiếng thở dài.
“Tốt lắm, anh Peter. Thông tin thứ hai. Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên là gì?”
“Không, tôi không thể nói điều này với cô. Nó đi ngược lại tất cả các quy tắc.”
“Những quy tắc thiêng liêng này là gì nhỉ, anh Peter?”
Người đàn ông bé nhỏ diễn thuyết, chỉ trong một hơi:
“Quy tắc thứ nhất: bảo vệ Kilmore Cove. Quy tắc thứ hai: không nói với ai về những cánh cửa. Quy tắc thứ ba: không cố tìm ra ai đã tạo nên chúng.”
Khi ông kết thúc, Oblivia chờ một giây rồi phá lên cười.
“Đây là những quy tắc kinh khủng của các bạn anh à? Ôi, trời ơi, xúc động quá... tôi cứ tưởng mình đã quay lại thời của các hướng đạo sinh: không đốt rừng và không giết hại động vật! Và giúp em thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình đi, ai là người đặt ra chúng?”
“Là Moore.”
“Vậy chính Ulysses Moore huyền thoại là vị quan tòa vô hình của toàn bộ chuyện này ư? Vậy anh nói xem... chuyện gì sẽ xảy ra nếu các anh khám phá ra ai là người đã tạo nên những cánh cửa?”
“Quy tắc ấy được lập ra sau khi bọn tôi đã thử tìm ra điều đó bằng mọi cách. Và sau mỗi lần chúng tôi phải đầu hàng trước một điều bí ẩn hay phải liều mạng mình.”
“Còn Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên, anh Peter?”
Đúng lúc ấy có tiếng chó sủa phía ngoài tường bao.
“Để mình đi...” Julia nói khi nghe thấy Diogo sủa.
Jason đặt một tay lên vai cô bé.
“Không. Em đi cho.”
Cậu băng qua căn phòng và cẩn thận không gây ra tiếng động, sau đó từ ô cửa sổ cậu lại nhảy lên bức tường bao. Khi cậu kịp chạm đất ở phía bên kia thì chú chó cũng đã ngừng sủa.
“Diogo!” Jason thì thào tìm chú chó ở quanh đó. Rồi cậu đi về hướng khu rừng. “Diogo, mày biến đi đâu rồi?”
Bỗng cậu thấy như chú chó đang nằm sõng soài bất động ở giữa con đường mòn.
“Diogo?”
Cậu bé chầm chậm lại gần, tin rằng mình đã nhầm.
Một bàn tay đeo găng chộp lấy vai cậu từ phía sau và một chiếc mặt nạ hình chim mỏ khoằm hiện ra.
“Cấm cử động, nhóc con, hoặc không ta sẽ kết liễu con chó của mày...” Bá Tước Tro rít lên.
Oblivia nhìn ra ngoài cửa sổ, rồi khi chó đã ngừng sủa, ả quay lại cuộc hỏi cung.
“Nào, nói xem, anh Peter... Tại sao lại có những điều bí mật này?”
“Kilmore Cove có nguy cơ trở thành một ngôi làng của những kỳ quan, nơi người ta mua vé để thăm quan.” Ông khẽ nói.
“Cái đó gọi là kinh doanh, cưng ạ, và nó chẳng có gì là xấu cả.”
“Bọn tôi lại nghĩ khác.”
“Chà nghe kìa, họ mới lãng mạn làm sao! Thay vì cho cả thế giới biết về sự tồn tại của một nơi đáng kinh ngạc như Kilmore Cove, các anh lại chọn... chọn cách giấu nó đi! Làm cho nó biến mất. Giấu một ngôi làng ở giữa thế kỷ 21! Các anh có hiểu không? Có Internet, có vệ tinh, cả điện thoại di động nữa chứ... chúng ta đang ở kỷ nguyên của truyền thông và các anh... các anh lại làm gì vậy?”
“Bọn tôi không tạo ra các trang mạng và cũng không xây dựng những khách sạn sang trọng. Đó là quy tắc đầu tiên của chúng tôi: bảo vệ Kilmore Cove. Có lẽ để bảo vệ ngôi làng, chúng tôi cũng sẽ từ bỏ cả việc du hành xuyên thời gian.”
“Nhưng sau đó... thật không may là em lại tới. Và em tình cờ gặp được mắt xích yếu nhất trong nhóm.” Oblivia lại gần ông Peter và quấn ông trong một làn hương. “Và mắt xích yếu bắt đầu hát líu lo.”
“Tôi đâu có hát! Tôi... tôi cứ nghĩ rằng cô giống tôi. Tôi đã yêu cô!”
“Cưng à, cả em cũng đã yêu anh. Nhưng anh, thay vì nói cho em mọi chuyện... anh lại đi vào một ngày đẹp trời và bỏ lại em một mình.”
“Cô không yêu tôi, Oblivia...” Ông Peter nức nở. “Cô chỉ muốn biết cách kiểm soát những cánh cửa.”
“Nếu là vì điều này thì giờ em vẫn muốn biết. Có thể nói đó là món quà cuối cùng anh tặng em, Peter... để khiến em biến mất mãi mãi. Nói tiếp đi cưng, đừng khiến em phải cầu xin anh chứ...” Oblivia thầm thì và đan những ngón tay sơn màu tím vào những sợi tóc của người thợ đồng hồ.
Ông Peter yên lặng một hồi lâu, ngây ngất bởi mùi hương vô cùng ngọt ngào của Oblivia. Sau đó ông tiến đến một chiếc tủ ngăn kéo, lấy ra từ đó một cuốn album cũ và một chiếc máy ảnh kỳ quặc. Ông đặt cả hai lên bàn và nói:
“Thực ra tôi rất nhớ Kilmore Cove... và những người quen biết. Trong những năm này tôi chẳng làm gì khác ngoài việc nghĩ về họ. Về mọi người. Tôi đã ngắm họ trong những bức ảnh cũ kỹ này gần như hàng ngày.”
Oblivia lơ đễnh mở cuốn album.
“Sau khi tới Venice được vài tháng, tôi đã thử quay trở lại.” Ông Peter nói tiếp. “Tôi đã trở lại phố Tình Bạn để xem liệu cánh cửa còn mở không. Nhưng nó đã bị đóng. Tôi nghĩ ai đó đã vào đó thay vào chỗ của tôi và tới Kilmore Cove... Ngay cả khi, cô biết đấy, cánh cửa được giấu rất kỹ.”
“Hiển nhiên là vậy rồi. Người trong ảnh này là ai thế?”
“Cha Phoenix.” Ông Peter nói và nhìn cuốn album.
Oblivia giở sang trang.
“Còn người đứng với anh ở gần ngọn hải đăng?”
“Đó là Ulysses.”
“Đây là Ulysses Moore sao?” Oblivia thốt lên và nhìn bức ảnh chăm chú hơn. “Quỷ tha ma bắt. Bức ảnh này được bao lâu rồi?”
“Ít nhất là hai mươi năm.” Ông Peter trả lời.
Oblivia ngó lơ cuốn album và quay lại câu chuyện lúc nãy.
“Nào cưng, anh đã làm gì khi phát hiện cánh cửa đã bị đóng?”
“Tôi tin chắc rằng những người khác đã tìm thấy nó... và đóng cánh cửa lại.”
“Xin lỗi, tìm thấy gì cơ?”
“Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên. Chiếc chìa khóa kiểm soát được tất cả những cánh cửa.” Ông Peter chỉnh lại cặp kính trên mũi rồi đi quanh chiếc bàn. “Ban đầu bọn tôi tin rằng đó chỉ là truyền thuyết. Sau đó tôi đã phân tích tất cả ổ khóa, từng cái từng cái một. Và tôi chắc chắn rằng có thể tồn tại một chiếc chìa khóa có khả năng đóng và mở tất cả chúng, giống một chiếc chìa khóa vạn năng. Ulysses đã tìm thấy ẩn ý về Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên trong một cuốn sách cũ trong thư viện của ông ấy: Sổ tay của Những người trốn chạy. Chìa khóa, ổ khóa, lối đi bí mật và cơ chế tẩu thoát. Trong số nhiều bài báo, có một bài do cụ Raymond của ông ấy viết về những cánh cửa của Kilmore Cove với nhiều hình vẽ về Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên. Chiếc chìa khóa vạn năng.”
“Tuyệt, nó chính xác là những gì em cần, một chiếc chìa khóa có thể mở tất cả những cánh cửa của Kilmore Cove!” Oblivia rú lên.
“Không chỉ của Kilmore Cove,” ông Peter thở dài giải thích, “mà của tất cả những Cánh cửa Thời gian khác. Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên là chìa khóa vạn năng của những người tạo nên các cánh cửa, chiếc chìa khóa mà chính họ đã sử dụng để di chuyển trong thời gian, tới tương lai và quay lại quá khứ.”
“Lại là những người tạo nên các cánh cửa... Nhưng họ là ai mới được cơ chứ?”
“Chúng tôi không biết.” Ông Peter nhắc lại. “Chúng tôi cũng chưa từng khám phá ra điều đó. Nhưng... khi chúng tôi quyết định giấu những cánh cửa và nghiên cứu kế hoạch để làm Kilmore Cove biến mất khỏi bề mặt Trái đất thì chúng tôi thấy cần phải tìm được Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên. Bởi nếu nó thực sự tồn tại, nó không chỉ cho phép chúng tôi mở tất cả các cánh cửa mà cả đóng chúng lại nữa.”
“Đóng chúng lại nghĩa là sao?”
“Khi cô bước qua một cánh cửa từ Kilmore Cove, nó sẽ mở cho đến khi ai đó bước qua nó theo chiều ngược lại. Ở chiều này thì không thể đóng nó lại. Đó là một cuộc du hành mở tới chỉ một hướng duy nhất: Kilmore Cove.”
“Anh hãy giải thích rõ hơn đi...”
“Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên có thể mở và đóng những cánh cửa từ cả hai đầu. Ai sở hữu nó có thể mở và đóng vĩnh viễn kết nối giữa những bến cảng trong mơ. Nó có thể khiến một nơi không bao giờ có thể tiếp cận được nữa, đồng thời gìn giữ và bảo vệ nó khỏi mọi nguy hiểm. Đó là chiếc chìa khóa duy nhất có thể làm được điều đó.”
Oblivia Newton tưởng tượng có hàng nghìn cánh cửa bị đóng nằm rải rác khắp nơi trên thế giới mà cô ả có thể mở lại từng cánh một, lần nào cũng được vùi mình vào sự giàu có không thể đo đếm.
“Em muốn có nó.” Ả nói.
Ông Peter mỉm cười.
“Tất cả chúng ta ai cũng muốn có nó. Lúc đó chúng tôi chỉ cách nó một bước. Nó đã ở gần. Rất gần. Tuy nhiên sau đó tôi đã bỏ trốn... Tôi đã canh chừng. Và bởi trong một thời gian dài không thấy ai tới Venice, nên tôi tin rằng Ulysses và Penelope cuối cùng đã tìm thấy nó và họ đã sử dụng nó để đóng tất cả những cánh cửa của Kilmore Cove và...”
“Và gạt em ra.” Oblivia nói nốt. “Anh không dối em, phải không? Anh không có Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên bên mình chứ?”
“Tiếc là không! Nếu có Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên, ít nhất tôi đã trở về để thăm Kilmore Cove một lần rồi.”
Người phụ nữ bắt đầu bực bội đi lại trong phòng, sau đó cô ta dừng lại gần giá để nến đang thắp sáng.
“Vậy thì nó đang ở đâu?”
“Nếu họ chưa tìm thấy nó thì tôi không biết. Nhưng vì những cánh cửa đã đóng trong một thời gian dài... tôi tin rằng họ đã tìm thấy nó. Và nếu như vậy thì nó đã an toàn cùng những chiếc chìa khóa khác.”
“Ở đâu?”
“Cô hãy hỏi Ulysses Moore ấy.”
“Moore chết rồi, Peter ạ! Em đang hỏi anh bởi anh là người duy nhất còn sống!”
“Black cũng mất rồi sao?”
“Black ư?” Oblivia Newton hỏi. “Black là ai?”
“Núi Lửa Đen. Người lái tàu. Khi tôi bỏ đi, vẫn còn ba người họ: Ulysses, Penelope và anh ta.”
“Chẳng có Núi Lửa Đen nào ở Kilmore Cove hết.”
Ông Peter cho cô ta xem một bức ảnh trong cuốn album của mình.
“Ông ấy đây, với bộ râu ấn tượng. Trong số bọn tôi, ông ấy là người có niềm tin sắt đá về sự tồn tại của Chiếc Chìa Khóa Đầu Tiên.”
“Núi Lửa Đen...” Oblivia lẩm bẩm. “Vậy là vẫn còn một người.” Cô ta trải tấm bản đồ chỉ dẫn những cánh cửa của Kilmore Cove lên trên bàn và hỏi. ”Ông ấy từng sống ở đâu?”
“Chỗ này, ở ga tàu.”
Oblivia rú lên và chỉ vào một điểm trên tấm bản đồ bằng móng tay sơn tím.
“Có một cánh cửa ở nhà ga. Em cá là anh cũng biết làm thế nào để mở nó.”
“Bằng chiếc chìa khóa hình ngựa, nếu tôi nhớ không nhầm...”
Oblivia túm lấy gáy ông Peter và in lên giữa trán ông một nụ hôn.
“Giỏi lắm, cưng à. Anh thực sự rất giỏi. Còn bây giờ, nếu anh không phiền... hãy nói cho em chiếc chìa khóa hình ngựa đang ở đâu.”
“Ngược lại, bây giờ nếu không phiền thì...” một giọng nói xen ngang, “các vị sẽ nói cho tôi biết chính xác các vị đang nói về cái gì, bởi tôi e rằng mình đang bị rối một chút. Nhưng trước hết, tôi xin được thể hiện phép lịch sự. Rất hân hạnh, ông Pietro l’Inglese... Cô Newton, chúng ta lại gặp nhau.” Với chiếc đèn dầu trong tay, Bá Tước Tro bước vào, ông ta cúi chào hài hước rồi quẳng Jason ra giữa phòng.
(...)
Manfred xoay xở với con dốc Salton Cliff bằng thái độ cáu bẳn, sự thê thảm của động cơ chiếc Bọ Cát ì à ì ạch đương nhiên không làm cho tâm trạng gã khá hơn. Gã không muốn nghĩ tới cái xe cà tàng đó nữa. Gã muốn quay lại Biệt thự Argo và lấy lại chiếc ô tô thể thao của Oblivia mà gã đậu trong sân.
Manfred nhớ như in rằng mình đã để chùm chìa khóa trên bảng đồng hồ. Gã hoàn toàn dửng dưng về chuyện đã xảy ra với chiếc xe thể thao màu đen sau khi gã ngã xuống từ mỏm đá. Dù vậy gã vẫn định tìm hiểu xem sao.
Rồi trong khi uể oải nghiêng người theo những khúc cua, gã lại nghĩ tới những khám phá mới của mình: trước hết là sự trở về của Ulysses Moore. Tại sao ông ta lại rời xa ngôi làng bằng cách giả chết? Và nhất là vì sao ông ta lại quay về? Ông ta giờ đang ở đâu? Manfred đã từng cho rằng ông ta ở ngay tại Biệt thự Argo. Cũng vì thế mà gã đã quyết định lên trên đó lần thứ hai dù Oblivia đã cấm tiệt gã làm điều đó.
Gã đã hộ tống cô thợ làm tóc về cửa hàng và xin cô một tấm danh thiếp với ý định sẽ gọi cho cô ngay khi vụ mấy cánh cửa được giải quyết xong. Rồi gã quay lại Ngôi Nhà Gương để kiểm tra xem Oblivia đã ra khỏi đó chưa, và vì không thấy ai nên gã đã quyết định đi ngay tới Biệt thự Argo.
Trong lúc đương đầu với những khúc cua tay áo, Manfred phát hiện ra gã đang lái xe ra giữa đường: độ cao của vách đá ấy khiến gã khó chịu. Nó quá cao. Và còn dốc thẳng đứng nữa.
Khi đang leo chậm như rùa bò, chiếc Bọ Cát chồm lên vì bị một cơn gió mạnh bất chợt dội tới từ bên hông. Manfred phải bẻ lái trên không mất vài mét trước khi có thể đưa mũi xe trở lại mặt đất và tiếp tục cày đường nhựa.
Ở khúc cua tay áo kế tiếp, con đường men theo bờ vách đá, gã tài xế của Oblivia Newton chễm chệ ở giữa con đường và nhìn chằm chằm vào biển đầy căm hờn.
Có tiếng ngựa hí.
Manfred nghe thấy một tiếng ngựa hí và quay lại nhìn đường. Bất chợt, từ khúc cua cuối đường xuất hiện một cỗ xe độc mã được một con ngựa đang phi nước kiệu kéo đi.
“Ôi, quỷ tha ma bắt!” Manfred thốt lên và chộp lấy vô-lăng.
Để né cỗ xe độc mã, gã nhấn ga và quẹo về phía rìa ngoài của con đường. Đúng lúc đó, cơn gió thứ hai nhấc bổng mũi chiếc Bọ Cát khiến nó chồm lên.
“Ôi, không! KHÔNGGG!” Gã thét lên khi thấy đã hết đường.
Gã bỏ vô-lăng để lao ra khỏi chiếc xe, nhưng bị mắc lại trong dây an toàn. Gã tháo được nó vào chính khoảnh khắc bánh chiếc Bọ Cát đang cào xé không khí và mũi xe bắt đầu chúi xuống dưới.
Vào không trung.
Manfred thoát khỏi dây an toàn và lao xuống. Và, lần thứ hai trong vòng ba ngày, gã ngã khỏi vách Salton Cliff.