I have learned not to worry about love;

But to honor its coming with all my heart.

Alice Walker

 
 
 
 
 
Tác giả: Liesl Shurtliff
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Ngô Cẩm Ly
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 32
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 226 / 7
Cập nhật: 2020-01-25 21:18:11 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 24 - Kế Hoạch Tẩu Thoát Bằng Cây
húng tôi quyết định sẽ rời đi ngay đêm hôm đó, trước khi Vua Barf phát hiện ra những cái cây và phá hủy cơ hội trốn thoát tốt nhất của chúng tôi. Nhưng trước hết chúng tôi phải trồng thêm nhiều hạt giống đã.
Mọi người đều bắt tay vào thu gom những hạt giống đã bị vứt vung vãi mà vẫn chưa đem đốt, và tiếp tục chẻ trứng để có thêm hạt. Chúng tôi làm lụng chuyên cần hơn bao giờ hết, biết rằng đây là cơ hội trốn thoát cho tất cả, và bởi vì giờ đã có dồi dào lương thực nên công việc trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Khi đã gom được nhiều hạt hết mức có thể, chúng tôi phân loại chúng thành nhiều đống nhỏ và cố gắng đoán xem chúng là thuộc loại gì.
“Đây là hạt cà chua này,” tôi nói, bởi vì vừa mới trồng một hạt.
“Và kia là một hạt lúa mì,” bố nói. “Tại sao trước đây tôi không nhìn ra nhỉ?”
“Tại bố không quen nhìn hạt khổng lồ đấy,” tôi nói. “Mà con nghĩ những hạt này sẽ khác biệt một chút. Chúng có chứa phép thuật. Đó là lý do chúng mọc nhanh đến thế.”
“Kia là những hạt giống hành,” ông thợ bánh Baker nói, chỉ vài cái hạt đen đen nhọn đầu. “Còn đây nom có vẻ là cà-rốt.”
“Giữ chúng lại,” bố nói. “Chúng không thể giúp chúng ta rời khỏi đây, nhưng có thể nuôi sống chúng ta sau này đấy.”
“Cà-rốt khổng lồ mới thích làm sao!”, thợ bánh Baker trầm trồ. “Tôi có thể làm bánh nướng cà-rốt cà-rốt. Ồ! Và đó là một cái hạt anh đào.”
Ông chỉ vào một hạt giống có kích thước bằng quả dưa. “Tôi có thể làm bánh nướng anh đào, bánh tart anh đào, bánh xốp anh đào...”
“Chúng ta không thể trồng một cây anh đào ở đây được,” bố nói. “Nó sẽ chiếm hết chỗ cái hầm ngục này và thổi tung chúng ta lên mất.”
Ông thợ bánh Baker thở dài. “Chà, ai chẳng có quyền mơ mộng,” ông nói, rồi nhét cái hạt anh đào khổng lồ vào trong túi.
Chúng tôi nhận diện được ít nhất ba mươi loại hạt giống khác nhau, và khi ngắm nhìn những đống hạt đầy ăm ắp, tôi cảm thấy mình đã phát hiện ra một kho báu tuyệt vời. Chúng tôi sẽ trồng những loại cây có thể vươn lên cao, bỏ lại những loại cây thân rễ, hoặc thân gỗ.
“Chúng ta sẽ làm gì sau khi trốn thoát khỏi nhà ngục?”, ai đó hỏi. “Làm thế nào để thoát khỏi tòa lâu đài?”
“Có ai biết chúng ta đang ở đâu không?”, tôi hỏi. “Cháu không nhìn thấy bất cứ thứ gì ngoài cái lò sưởi khi Đức vua mang chúng cháu tới đây.”
“Ta cũng thế,” ông thợ bánh Baker nói.
“Tôi cũng vậy.”
“Đừng sợ, chàng trai trẻ!” Ngài Bluberys nói. “Ta biết chính xác chúng ta đang ở đâu!” Ông ta len qua đám đông trên lưng con la của mình, đá vào đống hạt khiến chúng văng tung tóe. Vài người rên rỉ, nhưng dù sao họ vẫn lắng tai nghe câu trả lời của ông ta.
“Ta nhìn thấy vàng khi bị bắt tới đây,” ngài Bluberys nói. “Do đó chúng ta đang ở trong kho chứa của báu!”
Tom vỗ trán. “Ngài Bluberys, trên thực tế thì tòa lâu đài này được xây toàn bằng vàng! Chúng ta có thể đang ở bất kỳ nơi nào! Với tất cả những gì chúng ta biết, chúng ta có thể đang ở trong một cái lồng, hoặc phòng tắm.”
“Không, ta không chắc về việc đó đâu,” ngài Bluberys khăng khăng. “Ta đã chu du khá nhiều nơi trong thế giới khổng lồ rồi. Chúng ta đang ở trong kho báu hoàng gia.”
“Không quan trọng,” tôi nói. “Dù đang ở đâu đi chăng nữa, chúng ta cũng có thể chui ra qua những cái khe dưới các cánh cửa hoặc các kẽ nứt trên tường. Khó khăn nhất là khâu thoát khỏi nhà ngục này.”
Chúng tôi tạm dừng bàn bạc ở đó và bắt tay vào gieo hạt. Ban đầu tôi ném hạt giống vào trong đất. Lực văng của cây súng cao su khiến cho những cái cây nảy mầm và phát triển gần như ngay lập tức, nhưng như thế rễ cây lại không thể bắt sâu vào lòng đất. Vì chúng tôi cần những cái cây vững vàng để trèo lên, chúng tôi quyết định rằng tốt hơn hết là đào những cái hố để trồng cây.
Do đó, chúng tôi đào sâu vào sàn đất cứng của hầm ngục, moi thành những cái hố bằng đục, cuốc và búa, đặt chỗ hạt giống vào bên trong. Chúng tôi lấp đất, tưới nước và chờ đợi. Bằng cách này chúng không mọc thần tốc như trước, nhưng rễ cây bắt rất chặt và khỏe, những dây leo và lá cây hướng lên trên vô cùng vững chãi.
Trong lúc chờ đợi, tôi dùng súng cao su bắn thêm nhiều hạt, Tom cũng thử mấy lượt. Dường như lực va chạm giữa hạt giống và đất đã khiến thứ phép thuật bên trong bùng nổ. Những cái cây đã bị giam cầm quá lâu, và một khi được tự do, chúng vươn ra và xòe rộng, như khẳng định sự tự do của mình.
Chúng tôi gieo hạt dọc theo các bức tường, tạo nên những mạng lưới hoa và cỏ, ngô và đậu, cà chua và dâu dại. Chúng mọc lan khắp sàn nhà và leo trên các bức tường, biến cái nhà ngục nhớp nhúa bụi than của chúng tôi thành một biển xanh mát mắt. Chúng bò lên và vươn cao hơn cả thành nhà ngục. Chúng tôi trồng cả một bụi việt quất, và chẳng đứa nào kiềm chế được bản thân: hai thằng ngắt xuống những trái việt quất khổng lồ và vục mặt vào ngấu nghiến, mặc cho nước quả nhỏ ròng ròng từ mặt và ngón tay xuống cằm và ngực.
“Trông như cậu vừa ăn thịt người ấy,” Tom nói, quệt nước quả khỏi miệng.
“Cậu chả thế à,” tôi trả miếng, và cả hai đứa đều mỉm cười, nhe ra hai hàm răng tím ngắt.
Một điều thú vị khác cũng xảy ra khi chúng tôi gieo trồng những hạt cây. Chỗ vàng đã biến mất. Chúng ánh lên rồi tan vào hư không như những đám mây sau bão, để lại một vệt khói ánh kim hư ảo. Tôi đồ rằng vàng tạo ra bởi phép thuật sẽ không thể tồn tại được một khi phép thuật bị đảo nghịch. Tôi hình dung ra cái nhìn trên gương mặt của Vua Barf khi lão tới đây và nhận thấy vàng của mình đã bị thay thế bởi cà chua, hành và trái mọng. Có thể lão sẽ hài lòng, nhưng tôi thiên về khả năng lão sẽ nổ tung hơn cả.
Khi toàn bộ số trứng đã được bửa đôi và cả nhà ngục đã được bao phủ bởi chằng chịt dây leo và cành nhánh, chúng tôi sửa soạn lên đường.
Bố quay sang tôi. “Jack, con đã phát hiện ra những hạt giống. Con đã tìm ra lối thoát cho chúng ta. Con nên đi trước.”
Tất cả mọi người đều gật đầu tán thành, kể cả Tom, nó đang đẩy tôi về phía bức tường bao phủ mạng lưới xanh lục. “Bố sẽ theo ngay sau con chứ ạ?” Tôi hỏi.
“Ngay đằng sau con,” bố nói.
Tôi gật đầu, rồi tóm chắc lấy một thân cây ngô và bắt đầu trèo lên.
Khi lên tới đỉnh, tôi núp kín trong đám lá ngô và hé mắt nhìn qua khoảng không tối tăm trước mặt. Căn phòng bên trên cái vỉ lò rộng hơn hầm ngục rất nhiều, chất đầy những vật thể tối thui, to lù lù như những ngọn núi. Chỉ có duy nhất một dải ánh trăng chiếu xuyên qua những tấm rèm và in lên sàn phòng tựa một dòng sông băng giá.
Có thứ gì đó rống lên. Tôi thụt lại vào trong đám lá. Tiếng rống lại tiếp tục, một tiếng rền đều đặn thỉnh thoảng gián đoạn bởi một tiếng khịt mũi đột ngột. Hẳn đó là một con chó, hay con quái vật nào đó được sắp đặt để canh giữ chúng tôi. Tôi rón rén nhô ra khỏi chỗ nấp và ngoảnh nhìn về hướng phát ra tiếng động. Tôi không thấy bất cứ một cử động nào cả. Âm thanh dường như đến từ một cấu trúc đồ sộ hình chữ nhật tọa lạc ở giữa căn phòng. Thế rồi cùng lúc đó, một âm thanh khác xuất hiện.
Cục, cục. Cục, cục. Một con gà ư?
“Yên lặng nào, Bảo Bối...,” một giọng nói ngái ngủ lè nhè cất lên.
Cục tác!
Bảo Bối! Chúng tôi đang ở trong phòng ngủ hoàng gia. Đức vua và con gà vàng của lão đang nằm trên giường. Điều này còn tệ hơn cả một con chó. Nếu chúng tôi đánh thức Đức vua, tất cả sẽ xong đời.
Cành lá kêu sột soạt sau lưng tôi, cả bố cùng Tom xuất hiện trên gờ tường, thở hồng hộc. Tôi chặn cả hai bàn tay lên môi và hất đầu về phía Đức vua. “Vua Barf...,” tôi thì thầm. “Chúng ta đang ở trong phòng ngủ của lão.”
“Lão ta ngáy phì phò như một con gấu vậy!” Tom nói.
“Ssssss!” Tôi suỵt Tom. “Tiếng ngáy đó có thể át đi tiếng động khi chúng ta tẩu thoát đấy, nếu chúng ta biết giữ yên lặng.”
“Hai đứa con đi tìm lối thoát đi,” bố thì thào. “Bố quay lại hỗ trợ những người khác đây.”
Chúng tôi gật đầu và lom khom chạy, bắt đầu cuộc tìm kiếm. Căn phòng có rất nhiều cửa sổ lớn, nhưng chúng đều nằm trên cao và rất khó để với tới. Tôi quyết định rằng hẳn phải có một lối thoát đơn giản hơn - một cái hang chuột, hay một vết nứt bên dưới cửa ra vào chẳng hạn. Nhưng rồi tôi nhớ lại những cánh cửa khít rịt xuống đến tận sàn nhà, chẳng để lại dù chỉ một kẽ nứt đủ rộng để thò cánh tay của tôi qua. Chúng tôi sục sạo đủ các khe kẽ xó xỉnh để tìm một cái hang chuột, nhưng mọi ngóc ngách đều được trát trơn láng bằng vàng đặc. Thậm chí còn chẳng có cái lỗ nào đủ lớn cho một con chuột ở thế giới của tôi. Chúng tôi đã đụng phải một cái hầm ngục thứ hai.
“Tớ cho rằng bọn mình có thể thử với mấy cái cửa sổ,” tôi gợi ý. “Nhìn kìa, cái bàn kia kê khá gần cửa sổ đấy. Nếu trèo lên chân bàn, bọn mình có thể trồng thêm nhiều cây phía bên ngoài và trèo xuống.”
“Chúng mình có thể đu xuống như lũ khỉ ấy,” Tom nói.
Chúng tôi quay trở lại lò sưởi. Khoảng chừng năm mươi con người giờ đã lên tới đỉnh, và vẫn còn nhiều người nữa đang trên đường leo lên, trên những thân cây đậu, ngô và cà chua. Ngài Bluberys thò ra khỏi hầm ngục trên con la của ông ta. Bốn chân con vật đang đứng xiên xẹo theo một cách thức rất vụng về. Chúng được nâng lên bởi một cây ac-ti-sô mọc chậm.
“Chớ có sợ hãi, hỡi các bần cố nông!” Ngài Bluberys kêu lên. “Ta tới để dẫn dắt đoàn đây!”
Con la rống lên, và cả hai vấp phải nền lò với những tiếng kim loại loảng xoảng và rống rít giận dữ.
“Chớ có hoảng sợ!” Ngài Bluberys nói. “Chỉ là một vết xước thôi mà! Kẻ thù đâu rồi? Ta sẽ chinh phục hắn bằng thanh gươm và lòng quả cảm này!”
“Suỵttttt! Ngài Bluberys, ông phải giữ yên lặng!” Tôi rít lên.
“Ồ! Phải,” ông ta nhỏ tiếng bô bô đi một chút. “Một hiệp sĩ cao quý phải biết cách luyện tập sự rón rén.” Ông ta nhón chân đi quanh với những bước xoạc dài cường điệu, trong khi bộ giáp trụ kêu cót két trên cái nền lò lát gạch hoa vàng nguyên khối.
Con gà kêu cục ta cục tác và vỗ cánh phành phạch. “Cái gì thế?” Ngài Bluberys kêu lên, hết ngó phải lại nhìn trái. “Lộ diện đi, hỡi con quái vật đáng sợ. Chuẩn bị!” Giọng ông ta rổn rảng vang vọng khắp căn phòng.
“Ngài Bluberys, suỵtttt! Ông đánh thức Đức vua mất!”
“Đức vua ư? Ý mi muốn nói vị chúa tể cao quý đã tới để bảo vệ chúng ta ư? Hãy dẫn ta tới chỗ Người. Ta lúc nào cũng là kẻ bề tôi tận tụy của Người!”
“Không, không.” Tôi vỗ tay lên trán. “Không phải vua của chúng ta! Lão vua khổng lồ cơ!”
“Khổng lồ! Một tay ta đã tiêu diệt vô số tên khổng lồ! Chớ đừng sợ hãi! Ta sẽ chinh phục kẻ thù! Ta sẽ...”
Ông thợ bánh Baker bước lên phía trước và thụt thẳng vào mặt ngài Bluberys hai cú liền. Vị hiệp sĩ lắm điều ngã lổng chổng xuống sàn nhà. Con gà lại kêu cục tác ầm ĩ. Vua Barf khịt mũi, đồng thời ngừng bặt tiếng ngáy. Chúng tôi ai nấy thảy đều nín thở.
“Đẻ trứng...,” Đức vua ngáp.
Cục tác! Có tiếng lông vũ sột soạt, rồi Đức vua liếm môi và bắt đầu ngáy ầm ĩ trở lại.
Chúng tôi đều trợn mắt trừng trừng nhìn ngài Bluberys, đang nằm thẳng cẳng trên sàn nhà. “Làm tốt lắm, ông thợ bánh Baker,” bố khẽ nói.
“Tôi những muốn làm việc này từ lâu lắm rồi,” ông thợ làm bánh thú nhận.
Như để đồng tình, con la phun ra một quả mâm xôi lớn, và đá ngài Bluberys bằng một trong những cái móng guốc của mình.
“Giờ thì làm gì đây?” Bố hỏi.
“Không có lối thoát nào khác ngoài cửa sổ,” tôi nói với mọi người. Thế rồi tôi chia sẻ ý tưởng trồng thêm cây để trèo ra ngoài.
“Ý hay lắm, Jack,” bố nói. “Cùng đi xem chúng ta có thể làm được gì nào.”
Nhưng kế hoạch lớn của tôi đã thảm bại. Với sự nỗ lực vượt bậc, chúng tôi cũng leo lên được bậu cửa sổ và cậy mở nó. Tuy nhiên, bên dưới chúng tôi không phải nền đất, mà là một dòng nước chảy. Cửa sổ phòng ngủ của Đức vua nhìn ra con hào bao quanh tòa lâu đài, và những hạt giống cứ trôi đi mất dạng khi chúng tôi ném chúng xuống.
“Chúng ta có thể nhảy,” Tom bàn. “Cũng có thể chúng ta sẽ bị nuốt bởi một con cá, nhưng thường thì cơ hội trốn thoát là rất cao.”
Bố và tôi đều nhìn Tom trân trối.
“Lẽ nào cháu chưa từng kể cho mọi người về cái lần cháu bị nuốt sống bởi một con cá?”
“Chưa,” tôi đáp. “Nhưng việc này thật sự không phải là...”
“Thú vị cực!” Tom thốt lên. “Con cá bị bắt và đem đến nhà bếp hoàng cung. Rồi bà Martha mổ bụng cá và moi ruột nó ra, thế là cháu thoát ra ngoài!”
“Kinh quá đi mất,” tôi nói.
“Thú vị chứ,” Tom lặp lại.
“Đêm sắp qua rồi,” bố ngắt lời hai đứa tôi. “Dù định làm gì, chúng ta cũng phải nhanh lên, trước khi lão vua thức giấc.”
Bố nói phải. Bầu trời từ đen thăm thẳm đã ngả sang sắc tím sẫm. Đằng sau những tấm rèm dày phủ quanh giường lão, Đức vua hoàn toàn có thể ngủ nướng qua bình minh, nhưng chúng tôi cũng không nên quá chắc mẩm. Lão có thể tỉnh dậy vào bất kỳ lúc nào, và chúng tôi sẽ phải quay trở lại nơi chúng tôi đã bắt đầu.
“Nhìn lên kia kìa,” Tom chợt nói. Nó chỉ lên những vì sao đang lấp lánh trên bầu trời đêm. Tôi toan mở miệng nói đây không phải lúc ngắm sao, thì bỗng nhận ra thứ nó đang chỉ trỏ. Vài ngôi sao đang di chuyển vùn vụt, tựa như những ngôi sao chổi. Chúng đang tiến lại mỗi lúc một gần hơn.
“Ôi, không,” tôi nói. “Không phải chúng chứ.”
“Ai kia?”, bố hỏi.
“Tiên tí hon!” Tom kêu lên. “Vào bên trong mau! Đóng cửa lại ngay.”
Chúng tôi cố gắng khép cửa lại, nhưng kéo nó vào nặng hơn nhiều so với khi đẩy ra, mà lũ tiên tí hon lại bay quá nhanh. Hàng chục con ùa vào qua cửa số, kêu chiêm chiếp, la the thé và ca hát ngân nga trước đống vàng trong phòng - ngoại trừ một con, đang lao thẳng vào tôi và xô tôi ngã bổ chửng xuống sàn.
“Jack!” Nó ré lên.
“Annabella?”
“Em biết em sẽ tìm thấy anh! Em biết mà! Các bạn tiên tí hon biết chính xác chỗ anh ở, chúng em cứ tìm mãi tìm hoài cách để lọt vào bên trong, và chúng em đã làm được!” Gã Hoàng tử tiên tí hon có mái tóc xanh lục, kẻ đã cắp Annabella hạ cánh xuống cạnh con bé và kêu lóe xóe. Khi nhìn thấy tôi, gã nhếch mép cười khinh khỉnh. Tôi hơi nao núng và quay lưng về phía gã.
“Bells?” Bố bước lên phía trước. Annabella buông tôi ra và quay lại. Nét mặt nó bừng lên rạng rỡ.
“Bố!” Annabella nhào vào lòng bố, bố thì nhấc bổng con bé lên và xoay nó vòng quanh. Gã tiên xanh rít lên the thé phản đối.
“Không sao đâu, anh Saakt. Đây là bố em.”
Gã tiên tí hon lách chách một tràng, và Annabella bật cười.
“Cậu ta nói gì thế?” Bố hỏi.
“Anh ấy nói rằng con nom giống mẹ hơn.”
“Đúng thế đấy,” bố nói, miệng mỉm cười. “Nhân nhắc đến mẹ, bố muốn về nhà trước khi tim mẹ con tan nát vì lo lắng.”
“Các bạn tiên tí hon có thể giúp chúng ta bố ạ,” Annabella nói. “Họ có thể cắp chúng ta bay về nhà.”
“Nhưng này Bells,” tôi phản đối, “như thế không an toàn chút nào. Mày còn nhớ lúc bọn chúng tấn công hai đứa mình trước đây không?”
“Em vẫn nhớ cách bọn họ tấn công anh, sau khi anh lao vào họ với cây rìu của bố.”
Đến đây, gã tiên tí hon xanh lục rút ra một cây rìu và vung vẩy nó trước mặt tôi. Tôi né người. “Này! Nó là của tôi!”
“Eets tein sot!”, gã lách chách.
“Anh ấy nói rằng giờ nó là của anh ấy,” Annabella nói. “Anh không đáng tin cậy.”
“Anh mày mà không đáng tin cậy á? Thế còn gã thì sao?”
“Các bạn tiên tí hon đã cứu em khỏi Đức vua, và từ bấy đến giờ em ở cùng với họ. Họ đưa em tới cái tổ lớn của bọn họ, Đại Cung Điện Tiên Tí Hon, ở sâu trong khu rừng, chiêu đãi em bằng mật hoa, cho em ngồi chơi trên ngai vàng, và em được ngủ trong một cái vỏ quả óc chó! Họ giúp em tìm kiếm anh hằng ngày.”
“Bells, anh rất mừng vì mày đã tìm thấy mọi người,” tôi nói. “Nhưng chúng ta không thể trốn thoát khỏi nơi này nhờ bám vào tiên tí hon được. Quá nguy hiểm.” Chỉ nghĩ đến đó thôi là chân tôi bắt đầu phát đau.
“Chúng ta có thể chứ!” Annabella giật giật cánh tay tôi. “Họ là bạn em.”
“Không, Annabella.”
“Tại sao anh không chịu tin em?” Annabella hỏi.
“Bởi vì mày còn nhỏ quá!” Tôi bùng nổ.
Annabella quắc mắt lên nhìn tôi. “Nhỏ không có nghĩa là em sai, anh Jack ạ. Cũng không có nghĩa là em không thể giúp đỡ.”
Tôi nhìn lũ tiên tí hon, giờ đã tràn ngập khắp căn phòng, đang hân hoan sờ soạng và nhảy nhót trên đống vàng của Đức vua.
“Jack,” bố nói “có lẽ chúng ta nên tin tưởng em con chăng? Đặt niềm tin vào những thứ bé nhỏ?”
Tôi đấu tranh dữ dội với tư tưởng này trong đầu. Tôi không muốn được giải cứu bởi tiên tí hon. Bên cạnh đó, tôi phải thừa nhận rằng tôi không muốn được giải cứu bởi Annabella. Tôi mới là người anh hùng chứ. Tôi là Jack vĩ đại cơ mà. Nhưng có lẽ một phần không thể thiếu của sự vĩ đại chính là việc biết khi nào nên bước né sang một bên nhường chỗ cho một người khác dẫn dắt, kể cả khi họ nhỏ hơn bạn.
Annabella nhìn tôi đầy khẩn nài. Tôi mỉm cười.
“Chà, Bells.”
“Gì ạ?”
“Anh nghĩ mày đang trưởng thành ngay trước mắt anh.”
Con bé cúi nhìn xuống khắp người. “Thật á?”
“Thật. Giờ thì hội tiên tí hon đã có thể chở chúng ta bay chưa?”, tôi hỏi.
Annabella nhoẻn cười rất tươi. “Tất nhiên họ có thể!”
Con bé huýt sáo, lũ tiên tí hon cất cánh bay lên từ khắp mọi nơi trong căn phòng ngủ hoàng gia và hội tụ lại trong một đội hình hình thoi chặt chẽ. Tôi không thể tin được sức ảnh hưởng của đứa em gái bé bỏng của mình lên bọn chúng - mạnh mẽ hơn cả nỗi mê thích của chúng trước vàng. Chúng bay thành vòng tròn mỗi lúc một nhanh rồi sà xuống theo đường xoắn ốc như một cơn lốc xoáy, kêu the thé và chiêm chiếp.
“Bells, bảo bọn chúng trật tự đi!”
“Em không thể yêu cầu họ trật tự được. Họ quá phấn khích!”
Lũ tiên tí hon bắt đầu nhấc bổng từng người một lên cao bằng cách nắm chặt tay, chân hoặc quần áo họ. Ông thợ bánh Baker được nâng ở cả hai bên bởi hai tiên tí hon có đôi cánh ong bắp cày. Ông ta duỗi thẳng đơ như một tấm ván, nom cực kỳ kinh hãi khi được nâng lên khỏi mặt đất. Bốn tiên tí hon nắm lấy tứ chi trên cơ thể bất động của ngài Bluberys, và bốn con khác phụ trách con la của ông ta và tha bọn họ bay qua cửa sổ.
Bố đứng quan sát, gãi đầu gãi tai như thể ông không chắc chắn lắm về toàn bộ quá trình nỗ lực này, đặc biệt khi một gã tiên tí hon tóc vàng chanh đeo đôi cánh bướm đêm xanh lơ tóm lấy áo sơ mi và nhấc ông lên khỏi mặt đất. Bố lơ lửng trong không trung, tay chân vung vẩy như thể ông không biết nên sử dụng chúng như thế nào.
“Sẽ ổn thôi, bố ơi!” Annabella động viên. “An toàn tuyệt đối mà!” Trước khi bố kịp trả lời, gã tiên tí hon đã mang bố bay bổng lên bầu trời, giờ đã ửng lên sắc hồng phơn phớt và sáng lên từng phút một.
Mặt trời lên đồng nghĩa với việc Đức vua sẽ thức giấc. Lão sẽ phát hiện ra chúng tôi đã biến mất, và kha khá vàng của lão cũng vậy. Việc này dĩ nhiên sẽ khiến lão nổi đóa, nhưng liệu nó có thể ngăn bước lão không? Có thể Đức vua sẽ không đuổi theo chúng tôi, nhưng chắc chắn lão sẽ tìm được những người tí hon khác để sản xuất vàng cho lão - những nô lệ khác. Con gà vẫn sẽ tiếp tục đẻ trứng, mùa màng vẫn sẽ chết dần mòn, và chẳng có gì thay đổi cả. Tôi không thể cứ thế mà bỏ trốn. Ai đó phải ngăn Đức vua lại trước khi căn bệnh mê muội vàng của lão ta hủy diệt không chỉ một mà cả hai thế giới.
Gã tiên tí hon màu xanh lục nắm lấy hai cánh tay của Annabella và nhấc con bé lên, một gã tiên tí hon khác có mái tóc da cam cũng làm thế với Tom. Một ả tiên tí hon tóc xanh lơ toan chộp lấy tay tôi, nhưng tôi giằng ra.
“Đừng sợ, anh Jack! Các bạn ấy không cắn anh đâu!” Annabella gọi.
“Cây súng cao su của anh!” Tôi gào lên đáp lại. “Anh để quên nó rồi.” Tôi vỗ vỗ vào túi áo như thể đang tìm nó. “Hai người đi trước đi! Tôi sẽ đuổi theo sau!”
“Phải nhanh lên đấy!” Annabella cảnh báo khi nó với Tom bay vút qua cửa sổ. Chẳng mấy chốc, chỉ còn lại hai đốm đen bay ngược ánh sáng mặt trời đang bừng lên rạng rỡ sau đường chân trời bụi bặm. Những ánh nắng huy hoàng rọi xuyên qua các ô cửa sổ, khiến những đồ đạc bằng vàng mười ánh lên lấp lánh. Không còn nhiều thời gian nữa.
Tôi không hề đánh mất khẩu súng cao su, dĩ nhiên. Nhưng tôi có một ý tưởng.
Cô tiên tí hon nhìn tôi chờ đợi. Cô ta hất hất đầu về phía khung cửa sổ.
“Tôi không thể bay đi lúc này,” tôi nói với cô ta. “Tôi phải đánh cắp một con gà.”
Jack - Cây Đậu Thần Jack - Cây Đậu Thần - Liesl Shurtliff Jack - Cây Đậu Thần