The smallest bookstore still contains more ideas of worth than have been presented in the entire history of television.

Andrew Ross

 
 
 
 
 
Tác giả: Patrick White
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 25
helma Forsdyke gọi điện cho chồng từ một hiệu may quần áo, nơi nàng đã đau khổ một cách lố bịch về một chi tiết đơn giản của chiếc váy quan trọng. Hộp điện thoại được bọc lớp vải gio, sặc mùi thuốc lá và mùi nước hoa của các bà khác. Thelma không dùng nước hoa, vì sợ dị ứng viêm xoang, và bây giờ nàng đang cau mày, gõ gõ lên cái vật hình chữ T ở máy điện thoại, cái đang cùng bao cái khác âm mưu chống lại nàng.
- Ôi, anh Dudley, - nàng nói sau khi đã khá vất vả. - Em mệt nhoài cả chiều nay ở hiệu may đây, với Germaine, anh ạ, cái áo đáng lẽ xong rồi thế mà vẫn chưa xong.
- Ờ, ờ, ờ. - Dudley Forsdyke nói, hay là tiếng ai dội lại trong ống nghe.
- Và thế là em quyết định đi ăn một cái gì tại câu lạc bộ, rồi đi nghe một buổi hòa nhạc em vừa thấy quảng cáo.
Nàng nói, rất rành mạch với một sự tự tin do kinh nghiệm lâu năm. Người ta chỉ nắm vững một điều nào đó khi đã quên là mình học điều đó như thế nào. Thế đấy, cuối cùng Thelma Forsdyke đã quên hẳn.
- Được thôi, em ạ, - Dudley Forsdyke nói. - Nếu em nghĩ vậy.
Và Forsdyke tiếp tục ăn tối với sự hững hờ giống như khi có mặt nàng, có lẽ hơi nhanh hơn, để thoát khỏi hơi thở cố nén của chị hầu đứng tuổi.
- Em cảm thấy đi xem cũng tốt - Thelma nói và mỉm cười vào máy với vẻ nhạy cảm rất riêng. - Buổi hòa nhạc này rất hay.
Và mình chưa thể về nhà được, nàng gõ nhẹ vào ống nghe, mình không thể, hay đúng hơn, sẽ không, chưa thể. Cứ như nàng khiếp đảm về một trách nhiệm nào đó mà cuộc sống đột nhiên trao tới.
- Thôi, tạm biệt em. - Người chồng luật sư nói, không chờ đợi gì nữa, lúc bây giờ hay mãi mãi sau này. - Chúc em vui vẻ, - ông nói, xưa nay vốn tôn trọng lý thuyết.
Thelma Forsdyke cúp máy không nói gì nữa. Mời chồng đến thăm bố luôn là một điều nhục nhã. Thế là nàng cầm đôi găng tay khốn khổ bước ra khỏi cửa hiệu sang trọng. Nhưng nhìn thẳng về phía trước. Sự phiền nhiễu khiến nàng nghi ngờ về cái lịch sự kệch cỡm. Đương nhiên nàng vẫn trả tiền váy, nhưng nàng sẽ mặc nó với vẻ duyên dáng quê mùa đặc biệt của nàng.
Nàng là một phụ nữ gầy gò có tuổi, trang phục màu đen. Bít tất của nàng cực kỳ đắt nhưng chẳng giúp được gì cho nàng khi đi, đặc biệt lúc bước xuống bậc cấp, nàng duỗi thẳng hai chân, chậm rãi đặt đôi bàn chân xuống, như thể tin chắc rằng nếu không cẩn thận có thể ngã.
Từ ngày Madeleine Fisher, bạn của nàng, chết, Thelma cảm thấy ngày càng cô đơn và nhận thấy máu tuần hoàn không tốt. Không phải là tình bạn đã làm cho máu nàng chảy, mà nó thường hay dừng lại trong tĩnh mạch bằng cách tăng thêm sự ngu dốt của nàng về những cơ chế của hành vi được coi là cần thiết. Mặc dù cho đến lúc này không ai nhận thấy điều đó. Ngay cả bà Fisher bạn của nàng, người về cuối đời bắt đầu sống nội tâm.
Thế là bà Fisher đã chết. Chết như thế nào, đến nay bà Forsdyke vẫn chưa thông suốt, vì thực tế là từ trước đến giờ nàng chưa bao giờ được ông Fisher hoặc bất cứ ai trong gia đình Fisher ưu ái tiếp đón, một đôi lần đã bị buộc phải ngồi nhìn bàn ghế. Vì thế sẽ không bao giờ nàng biết chắc được là bạn mình chết có đơn giản là bởi tuổi già hay không. Bà Forsdyke đi dọc theo đường phố ban đêm, tay cầm một chiếc túi da cá sấu.
Tại câu lạc bộ, trước mặt một số phu nhân, nàng ăn một ít cá tẩm bột chiên.
- Tối mai chúng ta sẽ gặp lại nhé. - Bà Owens-Johnson nói.
- Nhất định rồi, - bà Forsdyke mỉm cười nói, vẻ hiểu biết.
Và thắc mắc không rõ bà Fisher có hủy mất sự vinh quang của nàng bằng cú đấm nào không. Bởi vì đây là lần đầu tiên gia đình Forsdyke ăn tối tại Phủ Thủ tướng, với những người dân khác cùng đẳng cấp với họ, cũng giàu có và cơ cực ngang họ. Thế là suốt ngày họ cứ ngồi nghĩ về quần áo.
Nhưng trong khi đó bà Forsdyke đang ngồi một mình tại buổi hòa nhạc. Khi đàn đã lên dây, một trận mưa vàng tuôn rơi khỏi đôi vai nàng. Chưa bao giờ nàng hoàn hảo, thậm chí cả bây giờ, khi mắt cá chân bắt chéo nhau, làn da trắng nổi gân xanh, mà bao nhiêu năm nay chẳng có ích gì nữa. Nàng chờ đợi những thú vui tế nhị và trang nhã. Dạ dày nàng không đầy thức ăn. Thần kinh nàng ổn định.
Chưa bao giờ mình cảm thấy dễ chịu hơn, nàng tự nhủ, trừ chiếc váy làm mình khó chịu, đáng ra phải xong rồi, Germaine chán quá đi mất.
Có một vài tiết mục âm nhạc trong chương trình bà Forsdyke cạch không bao giờ nghe nữa, thậm chí còn ghê tởm. Rồi một người Do Thái nghiêm nghị có mí mắt đen với một chiếc vĩ cầm được mời lên chơi một bản concerto. Bà Thelma cuộn tờ chương trình thành một ống hình xilanh nhỏ nhất; bà cũng muốn bản thân giá có thể thu lại nhỏ hơn, siết đôi cùi tay lại chặt hơn, và bó hẹp bộ đùi căng cứng của mình. Được ép lại như thế, nàng sẽ có thể bay bổng theo nốt nhạc tung hoành. Nhưng nàng không thể làm được gì cho tâm hồn mình. Tâm hồn vẫn thả neo nằm đấy. Nó như một quả bóng bay buộc vào một cành xương. Song, nó sẽ vật lộn một cách cao quý.
Người Do Thái bắt đầu chơi đàn, thoạt tiên tha thiết chạm vào da thịt của âm nhạc. Nó vẫn trong tầm của ông và của mọi người. Thelma Forsdyke cúi đầu, mái tóc lúc này đã hoa râm, và phục tùng những lời tán tỉnh. Nàng băn khoăn không rõ mình có thể biểu thị sự âu yếm nào, nếu có dịp. Một cái gì đó không dâm dật mà siêu phàm, đung đưa trong cơn gió thiêng liêng của âm nhạc. Dĩ nhiên âm nhạc là tình yêu của nàng. Ngay cả khi lược bỏ những gì là đạo đức giả, mà chúng rất nhiều, thì vẫn còn những ngôn từ mạnh mẽ giản dị nàng có thể sở hữu và hiểu đến tận sự im lặng cuối cùng của tính giản dị ấy. Nếu nàng mở miệng ra thì âm nhạc sẽ đi theo cuống họng chui vào. Bây giờ nàng ngồi cúi người xuống, trong một tư thế rất lúng túng, trên chiếc ghế thẳng đứng. Để nghe âm nhạc. Đây là giai đoạn làm tình của âm nhạc, khi các tua dải bò quanh bầu ngực theo những khuôn mẫu trang trọng.
Người Do Thái vẫn kéo đàn. Nhiều khó khăn lớn hơn vẫn còn. Dù ông có chơi đến trăm lần với trình độ điêu luyện, thậm chí thiên tài, vẫn có những đoạn khiến ông kinh hãi mỗi khi tiếp cận, mồ hôi vã ra ở bả vai, ở khoeo đầu gối, đúng vào lúc ông biết họ đã kiệt sức. Như đã đoán trước, ông đã bắt đầu vật lộn với âm nhạc, mặc dù máu chưa bắt đầu ộc ra khỏi đôi mắt màu vàng của ông.
Âm nhạc đã chinh phục những con người có đủ dũng khí để chơi, và trong một vài trường hợp cả những ai đang nghe. Thelma cụp mí xuống trước sự tấn công này, choáng váng, sợ hãi trước sự cao quý đang đến gần. Hầu như tất cả mọi người đều có thể được nâng lên, ở một thời điểm nào đó trong đời, đến tận những đỉnh cao mà họ không màng tới. Vì thế những người đàn bà này nhìn ngơ ngác và lùi lại. Sự nhận thức tình thế của nàng - một sự nhận thức mà gần như tức khắc nàng được phép quên đi - quá rõ ràng và mãnh liệt, đến nỗi nước mắt nàng chảy giàn giụa. Hai bàn tay nàng trầy xước, không phải vì các móng tay, mà vì những đỉnh cao sừng sững này.
Vừa đúng lúc ấy âm nhạc tóm lấy và gần như ném người Do Thái xuống dưới chân người chỉ huy dàn nhạc. Một số người cười khẩy về hành động ngông cuồng kia. Nhưng Thelma Forsdyke, lúc này đã suy sụp và khiếp đảm, chỉ đánh rơi tờ chương trình cuộn tròn xuống sàn, khiến những người ngồi cạnh nhíu mày. Nàng là một người đàn bà khốn khổ mặc tuyền màu đen, đeo hai viên kim cương nhỏ xíu ở vành tai xanh tái.
Sau đó nàng nghe, hay được người khác chơi cho nghe, một cách buồn bã. Nàng bị xây xát trong não nề vì những cành lá âm nhạc. Mọi khuôn mặt đều chín muồi và sẵn sàng rụng khỏi cành. Nàng đang đi qua những cánh đồng cỏ. Dạ dày của nàng mỏng dính và xuôi xuống. Đó là một nỗi buồn riêng tư hoặc căn bệnh riêng tư, đã nhiễm vào âm nhạc và nàng không thể chịu đựng nổi. Các khiếm khuyết của nàng lộ rõ và phơi bày bộ mặt thật của chúng.
Nàng bắt đầu lén cựa quậy trong chiếc ghế không thoải mái, và ước gì được đi ra ngoài bằng cách nào đó, nhưng điều này rõ ràng là không thể được.
Và những bông hoa violet. Nàng đang đứng trên con đường bê tông vỡ ở cạnh nhà, trên đó những bụi kim ngân xương xẩu mọc sum suê, cao vống lên, quẹt vào cạnh ngôi nhà. Tất cả cạnh nhà ấy đều xanh màu lá violet. Người bố đang đứng đấy, nàng nhìn thấy, ông cụ không cạo râu sáng nay, hay là? Hay là? Ôi bố ơi, nàng bắt đầu kinh sợ bởi vì trước đây nàng chưa bao giờ nói ra điều ấy, chưa bao giờ.
Chẳng ai để ý đến nỗi khắc khoải của người khác, bởi vì nó không thể nhìn thấy được trong những con người kín đáo, ngay cả khi toàn bộ hạch dây thần kinh bị cắt.
Mình phải đi ra ngoài, Thelma Forsdyke thầm nói.
Cuối cùng nàng đã làm như thế. Khi cuộc biểu diễn xuất sắc sắp kết thúc, nàng len qua đầu gối mọi người, mút một viên kẹo thơm mang theo trong túi.
Bà Forsdyke dần dần hiểu rõ ngôi nhà kỳ lạ mình sống. Với đồ gỗ màu trắng lấp lánh và kiến trúc đồ sộ, chòng chành giữa biển lá màu xanh thẫm và ánh trăng, bởi vì vào cái đêm lạnh ấy có gió thổi, ngôi nhà nom giống như một chiếc tàu, nàng nhìn nó thật lâu trước khi đi vào cái lối nhỏ nối nó với đất liền. Hai bàn chân nàng in những nốt trắng trên những tấm ván khô, và hầu như ngay lập tức một bóng đen mở cánh cửa thủy tinh, bước ra ngoài hành lang tiến về phía nàng, được soi sáng bởi con mắt màu đỏ của điếu xì gà.
- Anh đấy phải không, Dudley? - Nàng hỏi.
- Anh đây. - Ông trả lời.
Họ cảm thấy lúng túng. Dĩ nhiên, quan hệ giữa hai người cũng chỉ có vậy.
- Anh thử ra câu lạc bộ để gặp em, - ông nói, - nhưng em đã đi rồi.
- Em đã bảo với anh là em đi nghe hòa nhạc mà, - người đàn bà nói, cao giọng.
Tất cả những việc này đều xảy ra dưới ánh trăng, ánh trăng đã gột sạch các dấu vết năm tháng trên khuôn mặt và dấu vết của môi trường trên cơ thể họ.
- Bên nhà gọi điện đến, - Dudley nói, vốn tính hiền lành thừa hưởng từ những người đàn ông tử tế.
- Vâng. - Nàng trả lời thật nhanh qua cái mồm nhỏ xíu. - Bố đấy. - Nàng không hỏi.
- Hẳn thế, - Dudley Forsdyke nói. - Ông cụ mất chiều này.
Ta phải là gì bây giờ? Thelma tự hỏi. Cái khoảnh khắc cao quý mà vừa rồi nàng được nâng lên bằng âm nhạc, sẽ không lặp lại trong suốt một đời người.
- Ôi trời ơi, ôi trời ơi, - nàng đã học cách nói như thế, vừa bước đi trên đôi chân gầy guộc, bước chân bà yếu ớt dọc theo các đồ gỗ trong nhà.
- Thế còn tang lễ? - Nàng hỏi.
- Anh đoán là chiều mai. - Dudley Forsdyke nói.
- Em sẽ xuống nhà, - nàng nói. - Ngày mai. Sáng sớm. Em sẽ lái xe. Em thích đi một mình hơn, anh Dudley ạ. Rồi anh sẽ hiểu. Dọc đường sẽ mua hoa.
Được bó lại phẳng phiu và nền nã.
- Nhưng còn bữa tiệc. - Nàng bỗng chựng lại. - Tại Phủ Thủ tướng.
- Phải rồi. - Dudley nói.
Một cách lịch thiệp, hay thô bạo, ông sẽ chẳng giúp đỡ gì nàng.
Có lẽ tang lễ ở nông thôn, những tang lễ nhỏ của những người bình thường, không quan trọng, mà kéo lê thê qua những bãi cỏ vàng trên ô tô thuê và trong nhiều thứ quần áo kinh khiếp, thường kết thúc nhanh. Thelma ẻo lả nghĩ vậy.
Ngày hôm ấy đối với nàng có quá nhiều điều xảy ra. Nàng vào phòng ăn và uống một ly xôđa.
Vào buổi sáng, nàng đủ hồi phục để khóc than cho bố cũng như chính mình. Tội nghiệp bố. Nàng nhớ lại đôi bàn tay quyến rũ của ông cụ, đôi bàn tay của một người lao động. Nhớ lại những sự im lặng của ông mà mình không sao xâm nhập được, không phải nàng đã thực sự cố gắng, mà nhiều khi nàng nghi là nó chứa đựng một cái gì đó có giá trị.
Sự kinh khủng làm mờ đi suy đoán sâu xa hơn khi nàng lái xe qua phong cảnh ngoại ô. Dẫu sao những giờ phút khai trí sẽ chẳng dành cho nàng.
Khi gần đến ngôi nhà có người chết, một nỗi kinh hoàng xâm chiếm hồn nàng, tuy những cành hồng trần trụi vẫn đang run rẩy dưới đàn chim và đất ẩm bốc hơi sau trận sương giá. Nàng bước ngược lên con đường mòn, không gắn bó với ngôi nhà trong đó nàng đã sinh ra.
Một người đàn bà mặc tạp dề đi đến cửa ra vào. Đó là người vợ góa của Ray, người Thelma hầu như không quen biết. Nàng nghĩ rằng tên người đó là Elsie. Nàng có một khuôn mặt màu kem, bẹt và khá nặng nề, từ đấy tóc được cặp ngược lên theo cái mốt chẳng bao giờ thay đổi. Đó là một phụ nữ xấu xí. Tuy nhiên vầng trán thoáng, rộng gợi lên một sự thanh thản bao la.
- Mẹ thế nào? - Thelma hỏi.
Tuy rằng, sau khi nói ra điều ấy, nàng nhận thức được mình không có quyền hành gì trong cái nhà này cả.
- Mẹ ở trong bếp, đang nướng bánh. - Elsie trả lời.
Người vợ của Ray chẳng ngạc nhiên về chuyện gì.
- Cô vào với mẹ chứ?
- Có. - Thelma nói. - À, có ít hoa tôi vừa mua.
Elsie vội ra lấy xe vào, ôm hoa trong hai bàn tay vuông vắn, để mang lại thêm vẻ quan trọng cho người phụ nữ mảnh mai này. Lúc đó hai người đang đứng trên bậc thềm, hít thở cái mùi khó chịu của hoa cúc vạn thọ dập nát. Nhưng những bông hoa rất to và đắt tiền.
- Ôi, hoa đáng yêu làm sao! - Elsie nói, vì Thelma.
Và cô yêu thực sự, bởi vì, lạ thay, đó là thiên hướng của cô.
Ngược lại, Thelma vẫn không chắc chắn về chiều hướng cuộc sống đang đi theo, và quá lắm nàng để mặc cho người ta dắt đi.
Trong khi theo Elsie vào nhà, ngôi nhà, mặc dù sự kiện trọng đại vừa xảy ra, vẫn được mở rộng bốn bề đón chim, lá và nắng ập vào lục lọi, tìm kiếm, Thelma hoàn toàn không tồn tại nữa.
Ngày ông chết, Stan Parker đang mò mẫm phía sau vườn hoặc ngồi không. Phần lớn là ngồi, mặc một chiếc áo khoác mà bà cụ buộc ông phải mặc, cái áo vải tuýt đã cũ, bạc màu, bởi vì ánh nắng trong sáng, chất phác, thường rút lui một cách nhanh chóng và bội bạc khỏi vùng lân cận, ngay tức khắc để lộ ra những giếng lạnh không đáy, những vũng xanh của chiều tối. Thế là ông cụ ngồi đó, choàng áo và đội mũ lưỡi trai. Ông có một chiếc gậy màu đen, ai đó đã lấy nó ra từ chỗ lâu không dùng đến; và nay ông đi với chiếc gậy hoặc tựa nó vào ghế, kể từ ngày ông lên cơn đột quỵ cách đây mấy tháng.
Amy Parker không nói về chuyện đó. Chẳng ai nói về những cơn đột quỵ, nhất là khi chúng quật vào những người trong gia đình. Bà đưa cho ông cụ chiếc gậy, mỗi khi nó không ở trong tầm tay của ông, đưa trả lại như thể một vật vô hình. Giản dị biết bao khi Stan, một người đàn ông to lớn, ngã xuống với sự đồng tình của Chúa, và nằm đấy, tan vỡ. Gia đình Finlayson cũng có mặt ở nhà họ lúc bấy giờ. Jack và Merle trước đó đã đến vì một chuyện gì đó và để trò chuyện. Lúc ấy vào khoảng mười một giờ. Bà vừa mới rót trà. Họ quay lại nhìn Stan một lúc lâu, và tự hỏi phải làm gì, không phải cho lúc bấy giờ, vì nâng một người đàn ông dậy thì dễ thôi, mà cho mãi mãi. Hình như họ phải có một phương hướng nào đó cho tương lai. Chỉ có hiện tại là không chịu chờ đợi. Bản thân nó tiềm tàng cả tương lai. Và, vì chẳng ai bảo ai, Jack Finlayson đành bước tới và nâng Stan dậy. Mọi việc đều đơn giản như thế. Bà cụ không khóc hay làm gì cả. Bà cụ theo dõi việc xảy ra.
Nhưng sau đó rõ ràng là bà đâm hoảng sợ. Bà không muốn gặp ai cả, ngộ nhỡ phải giải thích một điều gì đó mà bản thân bà không rõ.
Dĩ nhiên cái tin về ông Parker được truyền khắp nơi vì gia đình Finlayson có mặt tại đấy. Họ phải kể lại những gì họ nhìn thấy, vì trong đời họ chưa bao giờ có một chuyện huyền ảo như thế xảy ra. Nhưng có những người khác quanh đấy lại bắt đầu tránh nhà Parker sau chuyện này. Phần lớn mọi người không muốn bàng quan trước cái chết, đặc biệt là cái chết tự nhiên của người già. Nhưng sẽ khác nếu nó rơi xuống đầu anh từ trên trời, giữa đường chẳng hạn, hay bởi một người lạ nào đó, điều ấy có thể gây kích thích đôi chút.
Bà cụ vui mừng là mọi người để mặc mình, hoặc bó hẹp sự quan tâm của họ vào lòng tử tế xã giao. Do vậy bà có thể quan sát chồng mình một cách yên bình, và trong thời gian còn lại, chuyên tâm vào việc tìm hiểu xem ông có thực sự yêu mình, xem thử ông có bao giờ ý thức được rằng bà đã gây cho ông những vết thương to lớn mà ông phải chịu, và để xem vào thời điểm cuối cùng này liệu còn có thể yêu một người đúng mức người ấy phải được yêu hay không.
Về phần ông cụ, ông sẽ hài lòng được ngồi trong ánh nắng hơi lạnh, nhưng được quấn người thật cẩn thận. Chẳng bao lâu sau ông sẽ chống gậy đi cà nhắc. Đôi khi ông sẽ đi xuống lán xưởng, và xê dịch các dụng cụ từ chỗ này sang chỗ khác. Theo sau là con chó mực kia.
Hẳn đó là con chó cuối cùng của Stan, bản thân nó cũng cao tuổi lại bị lở loét và ngứa ngáy.
- Con chó nào cũng mến Stan, - vợ ông cụ nói, nhíu lông mày một cách bi thảm. - Chúng đi theo ông ấy khắp nơi. Con chó lông đỏ hồi chúng tôi mới tới đây ấy, tôi không bao giờ chịu nổi, một con chó la cà chẳng bao giờ để cho tôi sờ vào người. Một con chó con nào đó ông đã nhặt được khi còn trẻ. Hãy xem con chó này đi. Chẳng còn chiếc răng nào. Vàng ệch. Hơi thở nó kinh lắm, thật thế. Nhưng Stan chẳng chịu quẳng nó đi. Ông ấy hiểu nó, tôi đoán thế, nếu có bất cứ cái gì để hiểu.
Và con chó, lúc đó đang nhìn lên qua đôi mắt màu sữa, nhe răng qua cái mõm màu hoa cà mà từ đó các nếp nhăn chạy dài xuống, có lẽ nó hiểu Stan chăng? Thỉnh thoảng bà cũng muốn du nó một cái, nếu nó không lở lói đến thế. Nhưng bà vẫn đặt những bát sữa cho nó trên cỏ, rồi vội vàng đi ngay trước khi nhận thấy chi tiết nỗi khổ của con vật.
Con chó nằm bên Stan, gặm gặm vào chỗ giữa ngón chân. Đó là một con chó trầm lặng. Phía sau cổ nó nom hiền lành và vô dụng. Một cú đấm cũng dễ dàng quật ngã được nó.
Chiều hôm ấy chiếc ghế tựa của ông lão được đặt ở đám cỏ sau nhà trông tiêu điều vào những ngày đầu đông. Đằng sau nhà, chẳng thể gọi đó là sân cỏ được, các lùm cây mà bà lão suốt cả đời đã cắm xuống, chứ không thể gọi là trồng, tạo thành một vòng tròn. Lúc đầu khu vườn cũng có chút thiết kế này nọ, dù là kiểu hình thành từ hoang dã. Rõ ràng là ông lão đang ngồi giữa vườn, từ chỗ giữa này cây cối tỏa ra, cùng với những chuyển động nghiêm trang của sự sống, bên ngoài chúng là một khu vườn rau bát ngát, cỏ dại mọc đầy trong những tháng ông lão bị bệnh, phô bày những bộ xương xác xơ của bắp cải, những khóm hành giống khẳng khiu như những chiếc que. Tất cả là vòng tròn của trung tâm, và bên kia là thế giới của những vòng tròn khác, hoặc giả những biệt thự đỏ thắm hình lưỡi liềm, hay những vạt đất bỏ không, trên đó mấy chú thỏ ngồi quan sát rất lâu cảnh trừu tượng nào đó, trong một cánh đồng chưa gieo mạ. Vòng tròn cuối cùng là chiếc bát vàng lạnh lẽo của mùa đông, chứa đựng mọi thứ vật chất và hữu hình, mà ông lão thỉnh thoảng nhấp nháy đôi mắt ướt nhìn vào, không nhận thức được rằng ông là trung tâm của nó.
Cái ý đồ to lớn và toàn thắng mà ông ngày càng nhận thức được một cách huyền bí khiến ông cựa mình trong chiếc ghế, oán giận sự đột nhập của một chàng trai nhảy qua rào, đang tiến về phía ông, giẫm lên các luống rau chứ không phải đường mòn; chàng quá tự tin sẽ hoàn thành sứ mệnh của mình bằng các biện pháp và phương cách trực tiếp.
Trong suốt thời gian này Stan Parker thu mình lại. Ông không muốn chuyện trò với bất cứ ai. Da ông mỏng dính, hầu như có thể nhìn xuyên qua, dưới ánh sáng nhất định. Đôi mắt ông thu lại thành một hình dáng thô sơ, qua đấy quan sát một loạt các vật có khả năng có thực.
Khi chàng trai bước đến chỗ ông lão, ông cố tình không ngẩng lên, mà chỉ nhìn chiếc giày đang đến gần và giẫm nát những lớp cỏ ba lá màu nâu. Chàng trai lập tức tuôn ra những lời thao thao bất tuyệt, nhắm vào chiếc cúc trên cái mũ lưỡi trai của ông lão.
- Tôi chỉ muốn nói chuyện một chút, thưa ông. Tôi đi ngang qua đây và nom thấy ông đang ngồi chơi vào ngày đẹp trời như thế này. - Anh ta nói.
Thưa ông, anh ta nói rất cung kính. Có lẽ là một loại sinh viên nào đó. Nhưng ông cụ rụt cổ lại, nhăn nhúm như cổ rùa.
- Thưa ông, khi nhìn thấy ông, tôi muốn kể cho ông câu chuyện về Kinh Phúc âm, - chàng thanh niên nói, - và của Chúa. Tôi muốn kể cho ông những gì tôi đã trải qua, và nói cho ông biết làm sao có thể cứu rỗi được những linh hồn ít có khả năng nhất.
Ông cụ rất khổ sở.
- Tôi xưa là một công nhân đường sắt. Tôi không rõ ông có biết gì về điều kiện trong các trại công nhân đường sắt không, - chàng thanh niên nói, những gì đã trải qua chứa đầy trong mắt anh, lấn át cả sứ mệnh hiện tại của anh, tức là ông cụ.
Nhà truyền giáo trẻ bắt đầu tự trình bày một cách hết sức trần trụi.
- Rượu chè và trác táng suốt các cuối tuần, - anh nói. - Chúng tôi phải đi xuống trại định cư gần nhất và chở rượu về. Phần lớn là rượu vang. Chúng tôi đập vỡ cổ chai mà tu, chúng tôi khát khao thứ đó. Phụ nữ cũng sẽ đi theo, vì họ biết rõ trại ở đâu. Có cả phụ nữ da đen.
Ông lão vô cùng khổ sở.
Khi chàng thanh niên đã kết thúc cơn cực khoái, anh giơ hai bàn tay ra, bảo là anh đã quỳ gối như thế nào, và ân phúc đã ban xuống ra sao.
- Điều này cũng có thể xảy đến với ông. - Anh ta nói, quỳ một gối xuống, mồ hôi chảy ra khắp các lỗ chân lông.
Ông cụ hắng giọng:
- Tôi không chắc là người ta có ý định cứu rỗi tôi.
Nhà truyền giáo mỉm cười với tính hoài nghi của tuổi trẻ. Chẳng có điều tinh tế nào thoát nổi bánh xe lăn của lòng tin.
- Ông không hiểu. - Anh ta mỉm cười nói.
Nếu anh hiểu được, ở cái tuổi của anh, những cái mà tôi vật lộn suốt đời, thì quả là một điều kỳ diệu, ông cụ nghĩ thầm.
Ông cụ nhổ toẹt xuống đất trước mặt anh ta. Ông đã ngồi trong một tư thế khá lâu, và cảm thấy sức nặng của đờm dãi đè trên ngực.
- Tôi già quá rồi, - ông nói một cách bàng quan.
Ông mệt lắm rồi và chỉ muốn được yên thân.
- Nhưng vinh quang của sự cứu rỗi, - nhà truyền giáo cứ khăng khăng, mái tóc của anh gợn sóng đều đặn, - vinh quang lớn lao này dành cho tất cả mọi người, chỉ cần chìa bàn tay ra.
Ông cụ sốt ruột. Ông chẳng nói điều gì nữa. Vinh quang lớn lao đang lấp lánh giữa ban trưa. Ông cụ chưa gì đã hơi lóa mắt.
- Ông không ngoan cố chứ, ông bạn?
- Nếu tôi không ngoan cố thì tôi đã không ở đây, - ông cụ nói.
- Ông không tin vào Chúa ư? - Nhà truyền giáo hỏi, anh bắt đầu nhìn quanh và cảm thấy cần phải kích thích thêm những lời thú tội. - Tôi có thể đưa cho ông xem một ít sách, - anh ngáp dài.
Lúc này ông cụ đã bị dồn vào thế chân tường lâu quá rồi, ông bỗng nhìn thấy rõ, có lẽ là do tính ương ngạnh của ông, chứ không bằng chính đôi mắt của ông. Ông đã sáng trí.
Ông cầm cái gậy chỉ vào cục đờm, và nói:
- Chúa đấy.
Trong khi cục đờm lấp lánh dữ dội trên mặt đất.
Chàng trai hơi nhíu mày. Đúng là gặp đủ loại người.
- Này, - anh ta nói. - Tôi sẽ để lại cho ông mấy tập sách này. Cứ thong thả. Đọc qua đi. Có mấy cuốn nhẹ nhàng thôi.
Tật xấu của bản thân đang giày vò anh ta. Anh ta phải đi đến cuối con đường.
Sau khi anh ta đi rồi và mấy cuốn sách đạo bay phần phật trong lùm cây thấp, con chó đen ngửi ngửi một cuốn với cái đầu mũi khô khốc, ông già tiếp tục nhìn cục đờm nom như viên ngọc. Một niềm thông cảm trìu mến dâng lên trong ngực ông. Ngay cả những sự kiện mờ nhạt nhất, tởm lợm nhất trong đời ông cũng hiện lên rõ rệt. Dưới ánh sáng kia. Họ còn để cho mình sống trong yên bình và thông cảm thế này bao lâu nữa? Ông băn khoăn tự hỏi.
Nhưng vợ ông đã đến ngay.
- Này anh Stan, - bà đến gần nói. Ông biết đấy là bà, cái chân đau của bà đang giẫm lên cỏ. - Nói ra anh chẳng tin đâu, vừa rồi em đang cào xới quanh lán, trong đám cỏ dại, nơi trước kia có bụi hồng mà ta đã chuyển về cạnh nhà ấy, bụi hồng bạch ấy mà, thế anh có biết em tìm thấy cái gì không? Chính cái nạo con bằng bạc mà bà Erbey cho em hôm cưới ấy. Đây anh xem.
- À! - Ông nói.
Cái vật vớ vẩn này là cái gì thế? Ông chẳng còn nhớ nữa.
Những cành bóng tối đang lướt qua khuôn mặt ông, khiến ông không nhìn thấy rõ. Hương violet thoang thoảng lành lạnh.
- Thế mà ta cứ đổ riệt cho cái ông bán thuốc nước ấy, - Amy Parker nói.
Mặt bà nom hớn hở. Bản thân bà tâm địa chẳng ra gì nên hay nghĩ xấu về người khác. Nhưng đôi khi, tuy là hiếm, con người cũng được giải tội.
- Dĩ nhiên, - bà nói, - bây giờ nó bạc thếch rồi và chả dùng được nữa. Mà ta thì có bao giờ dùng nó đâu.
Bà đang đi bỗng quay lại, cầm hai tay chồng như thể cầm những vật vô tri vô giác, và nhìn thẳng vào mặt ông, nói:
- Anh có cần thứ gì không, anh Stan?
- Không. - Ông nói.
Bà có thể cho ông cái gì nào?
Bản thân bà cũng bắt đầu nghi ngờ điều này. Bà bỏ đi, thơ thẩn qua vườn tìm một việc gì đó để làm.
Những bóng râm màu xanh mát dịu bắt đầu lọt xuống qua kẽ lá cây óng ánh. Một vài tảng đá to được để nằm trong vườn bao nhiêu năm nay, hoặc giả vì chúng nặng quá không xê dịch được, hay, có lẽ đúng hơn, vì chẳng ai biết đến, nom to lớn đồ sộ trong ánh sáng màu đồng nặng nề. Một mặt có các dáng hình lỏng lẻo hòa tan, mặt khác có những huy hoàng khoáng chất lờ mờ hiện ra.
Stan Parker lại bắt đầu đi. Trên hai chân. Tuy hông của ông đã cứng đờ.
Ta tin ở chiếc lá này, ông cười vang, lấy gậy chọc vào chiếc lá.
Chùm lông đuôi bám bụi của con chó về mùa đông lê theo sau ông lão. Ông cụ bước chầm chậm, nhìn vào những vật kì diệu được trên trái đất này, hay ánh nắng chói chang không sao sờ mó được. Lúc này nó đang chứa đựng trong mắt ông.
Khi ông đến được phía nhà có bụi kim ngân quăn queo mọc sum suê đang cào vào cạnh nhà, và đi qua chỗ ấy, vợ ông đứng trên bậc thềm, hỏi:
- Gì thế anh?
Gương mặt bà lộ vẻ sợ hãi.
Ta tin, ông tự nhủ, vào các vết nứt trên con đường mòn. Trên đó đàn kiến đang tụ tập, cố sức trèo lên một dốc đứng, cố ráng sức. Giống như mặt trời đau đớn trong bầu trời băng giá. Quay cuồng và quay cuồng.
Nhưng cố ráng sức. Nhưng hân hoan. Đến nỗi cả người ông run lên. Bầu trời bây giờ đã mờ đi. Trong khi đứng chờ thịt trên người rã dần, ông nguyện cầu cho trí óc được minh mẫn hơn, và điều đó hiển nhiên như một bàn tay. Rõ ràng chỉ có số Một, chứ không phải con số nào khác, là đáp án cho mọi con tính.
- Anh Stan, - vợ ông thét lên và chạy đến, vì bà thực sự sợ mình bị bỏ rơi.
Hai người níu chặt vào nhau trong giây lát trên con đường mòn bê tông nứt vỡ, hai tâm hồn giằng co với nhau. Nếu làm được thì bà đã kéo ông trở về, để chia sẻ cái án sắp tới của bà, mà lúc ấy bà không thể dự tính được, ngoài hình phạt biệt giam. Thế là bà ôm chặt lấy ông với tất cả sức lực và ý chí. Nhưng ông thoát dần khỏi tay bà.
- A… a… - Bà thét lên khi ông nằm xuống con đường mòn.
Bà nhìn ông.
Ông không thể bảo bà rằng bà sẽ không tìm thấy điều ấy trên gương mặt của ông. Bà đã xa quá rồi.
- Sẽ ổn thôi. - Ông nói.
Bà ôm lấy đầu ông và nhìn vào đó mấy phút sau khi còn có chút gì để nhìn.
Amy Parker không khóc nhiều, bởi vì từ trước bà đã hình dung chuyện này. Bà lảo đảo đứng lên, nay bà đã là một bà lão nặng nề, và đi qua vườn, lòng trìu mến, chân mang một chiếc bít tất rách, để gọi mọi người đến giúp đỡ về vật chất. Bà hứa hẹn với mình niềm an ủi lớn từ việc này. Và ở thằng cháu nội, con trai của Elsie, trong đôi mắt nó cuộc đời u ám, bí ẩn của bà cuối cùng sẽ trở nên trong suốt.
Bà đi vòng qua góc nhà trống trải. Khóc thút thít cho những gì còn lại của tình yêu và thói quen đang víu chặt lấy bà. Stan đã chết. Chồng ta. Trong khu vườn bát ngát.
Cây Người Cây Người - Patrick White Cây Người