Nguyên tác: The Painted Veil
Số lần đọc/download: 0 / 11
Cập nhật: 2023-06-14 21:36:44 +0700
Chương 25
B
uổi chiều ngày hôm sau Waddington đến rủ Kitty đi dạo một vòng ở vùng quê. Nàng vui vẻ nhận lời. Từ khi đến đây nàng chưa đi đâu cả.
Waddington nói:
- Chỉ tiếc là ở đây những nơi đi chơi được lại không nhiều lắm. Hay là ta trèo lên đỉnh đồi vậy?
- Ồ, phải rồi. Chỗ cái mái tam quan. Đứng trên sân gác tôi vẫn thường nhìn ra đó.
Một tên bồi mở cánh cửa nặng nề và hai người đi ra ngoài con đường nhỏ đầy bụi. Nhưng đi được mấy bước Kitty đã bíu vào tay Waddington, kêu lên kinh hoảng:
- Ông xem kìa!
- Gì thế?
Dưới chân tường, một người đàn ông đang nằm ngửa, chân duỗi thẳng, tay co quắp đưa lên mặt. Bộ quần áo xanh rách mướp và cái bím tóc xòe ra như cái chổi cho biết đó là một gã ăn mày.
Kitty ấp úng:
- Hình như hắn chết rồi.
- Đúng thế. Thôi ta đi. Bà đừng nhìn nữa. Lúc về tôi sẽ bảo họ khiêng đi.
Nhưng Kitty run bắn đến nỗi không sao bước đi được.
- Tôi chưa trông thấy người chết bao giờ.
- Nếu thế, bà cũng nên tập trông thấy cho quen, vì từ đây cho đến ngày rời được nơi đây, bà sẽ còn gặp độ vài ba cái xác như thế nữa.
Ông ta cầm bàn tay Kitty luồn dưới tay mình. Hai người lại lặng lẽ đi.
Mãi một lúc lâu nàng mới hỏi:
- Có phải bệnh dịch tả không?
- Chắc thế.
Cả hai trèo lên đồi, đến chỗ cái mái tam quan. Cả một khối chạm trổ tinh vi ấy vươn lên sừng sững như một dấu hiệu dị kỳ, thách thức. Cả hai ngồi trên nền đá, nhìn xuống cánh đồng trải ra bao la trước mặt. Những nấm mộ xanh rì mọc ngổn ngang trên khắp sườn đồi gây ra cái cảm tưởng là dưới ba thước đất hẳn những người chết cũng phải chen chúc nhau mới có đủ chỗ nằm. Con đường hẹp len lỏi quanh co qua các thửa ruộng. Một đứa bé ngồi trên lưng trâu đang thản nhiên đưa trâu về nhà. Ba người nhà quê đội nón rơm thật rộng với lối đi lắc lư đang còng lưng dưới gánh nặng. Sau cơn nóng nực, được thở làn gió nhẹ buổi chiều thực dễ chịu và khoảng chân trời mênh mông đã mang lại cho cõi lòng nghẹn ngào một cảm giác thư thái, lâng lâng. Nhưng Kitty vẫn không rứt được những ý nghĩ về người chết vừa rồi.
Nàng hỏi:
- Làm thế nào mà mình có thể nói được, cười được, rượu chè được giữa lúc xung quanh mình có bao nhiêu người đang hấp hối.
Waddington không đáp, chỉ quay lại nhìn nàng. Một lúc sau ông ta đặt bàn tay lên cánh tay nàng và nghiêm trang nói:
- Bà cũng biết nơi đây không phải là nơi thích hợp cho đàn bà. Tại sao bà không bỏ đi?
Hai hàng lông mi dài của Kitty ngước lên và môi nàng thoáng một nụ cười.
- Trong những lúc như thế này tôi thiết tưởng người đàn bà phải ở bên cạnh chồng mình.
- Khi nhận được điện tín báo tin là bà sẽ đến với bác sĩ Lane, tôi đã lấy làm lạ lắm. Nhưng tôi lại nghĩ có lẽ bà làm y tá: vì như thế mới cắt nghĩa được sự có mặt của bà. Tôi vẫn đinh ninh bà là một con mụ dữ tợn, dáng vóc như đàn ông, chỉ biết hành hạ các bệnh nhân thôi. Nhưng đến khi bước vào nhà, trông thấy bà nằm trên chiếc ghế dài, tôi mới đâm ra sửng sốt. Lúc ấy bà có vẻ mảnh khảnh, xanh nhợt và mệt mỏi.
- Chẳng lẽ ông lại cho là tôi còn có thể tươi được như hoa sau chín ngày đường ròng rã?
- Lúc ấy bà có vẻ mảnh khảnh, xanh và mệt, và xin bà cho phép tôi được nói là bà lại còn có vẻ vô cùng khổ sở nữa.
Kitty cố giữ mà vẫn cứ đỏ bừng cả mặt. Nhưng nàng cũng cười một cách khá tự nhiên:
- Tôi tiếc là dáng điệu của tôi lúc bấy giờ lại thiểu não quá làm ông thất vọng. Từ năm mười hai tuổi tôi nhận thấy mình có cái mũi hơi dài, do đó mà lúc nào tôi cũng buồn rười rượi. Nhưng cái nét buồn khó hiểu ấy tuy thế mà lại có lợi: chắc ông không tưởng tượng nổi con số những chàng trai trẻ đã tình nguyện xin được an ủi tôi.
Cứ nhìn đôi mắt xanh của Waddington cũng thấy rõ là không dễ gì lừa được ông ta. Nhưng Kitty không cần biết thế, vì Waddington đang làm ra vẻ rất tin nàng.
- Tôi cũng được biết là bà cũng chỉ vừa kết hôn với bác sĩ Lane được ít lâu nay thôi, nên trước đây tôi đã nghĩ là hai ông bà chắc phải yêu nhau lắm. Tôi không tin là ông ấy đã có mang bà đi theo, mà có lẽ chính bà đã nhất định từ chối không chịu sống xa chồng.
- Ông đoán như thế nghe cũng có lý.
- Phải, có lý. Có lý nhưng sai.
Kitty lo ngại không hiểu câu chuyện rồi sẽ xoay ra như thế nào, nàng cố chờ cho Waddington nói tiếp. Nàng biết Waddington có tài thấu triệt tâm lý và cũng không lạ gì tính bộc trực sỗ sàng của ông ta. Nhưng làm sao cưỡng lại cái ý muốn được nghe người ta nói về mình?
- Không lúc nào tôi tin là bà yêu ông ấy cả, vì bà có vẻ không ưa. Mà dù cho bà có thù ghét ông ấy, có lẽ tôi cũng sẽ không lạ lắm. Điều mà tôi có thể chắc chắn là ông ấy đã làm bà sợ hãi.
Kitty quay mặt đi. Nàng không muốn để Waddington trông thấy là nàng khó chịu vì những lời lẽ vừa rồi.
Nàng nói:
- Hình như ông cũng chẳng có cảm tình gì mấy đối với nhà tôi.
- Tôi kính trọng ông ấy. Ông ấy thông minh, có tư cách, người như thế rất hiếm, tôi không nói giấu bà đâu. Có bao giờ bà ngờ đến những việc ông ấy đang làm ở đây không nhỉ? Với bà, chắc ông ấy cũng không thích nói nhiều. Nhưng cái bệnh dịch ghê gớm ở đây, nếu có trừ tuyệt được, thì chính là nhờ ở một tay ông ấy. Ông ấy chăm nom người ốm, cho quét dọn trong thành phố, tìm cách lọc sạch nước ăn. Mỗi ngày ông ấy đùa với cái chết có đến hàng mươi, hai mươi lần. Đại tá Ngọc chỉ tin cậy mỗi ông ấy, giao hết binh lính cho ông ấy mặc tình sai khiến. Ông ấy lại còn lay chuyển được cả cái lão chánh án nữa kia, bây giờ thì lão mới chịu cố sức làm việc. Ở nhà tu thì các bà sơ đều phục lăn, xem ông ấy như một đấng anh hùng.
- Thế còn ông?
- Nói cho đúng thì hãy xem đó có phải là nghề nghiệp chuyên môn của ông ấy hay không đã? Ông ấy là nhà vi trùng học. Chẳng ai bắt buộc ông ấy đến đây. Theo tôi xem thì cũng không phải là ông ấy thương xót gì bọn người Tàu. Watson trước đây thì lại khác, Watson yêu tất cả mọi người. Tuy là mục sư, nhưng Watson không phân biệt người Công giáo, người Phật giáo hoặc Khổng giáo gì cả, đối với Watson thì ai cũng là con người tất. Nhưng với ông chồng bà thì giá có đến hai mươi vạn tên Tàu ngã ra chết vì dịch tả có lẽ ông ấy cũng chẳng cần. Hơn nữa, ông ấy đến đây cũng không phải vì lòng say mê khoa học. Như thế thì tại sao?
- Ông cứ hỏi ngay ông ấy.
- Tôi ao ước được trông thấy cái lúc bà và ông ấy ngồi chung. Nếu chỉ có hai người đối diện với nhau thôi thì thái độ hai người mới sẽ ra sao nhỉ? Trước mắt tôi ông bà chỉ đóng kịch và phải nói là đóng rất kém. Nếu tất cả tài nghệ chỉ có thế thôi thì giá có đi theo gánh hát rong hạng bét ông bà cũng khó kiếm nổi ba mươi đồng bạc mỗi tuần.
Kitty nói:
- Tôi không hiểu ông định nói thế nào.
Nàng vẫn tiếp tục làm ra cái vẻ lửng lơ mà nàng biết rõ là không đánh lừa ai được.
- Bà rất đẹp. Nhưng tại sao ông ấy lại không bao giờ chịu ngó đến bà? Lúc nói gì với bà giọng ông ấy không được tự nhiên.
Kitty đột ngột buông rơi vẻ mặt lạnh lùng. Nàng nghẹn ngào:
- Ông cho là ông ấy không yêu tôi ư?
- Điều ấy thì tôi không được biết. Tôi không hiểu có phải bà đã làm cho ông ấy ghê tởm đến nỗi sợ không muốn đến gần bà hay là ông ấy đã yêu bà bằng một mối tình mà chỉ vì một sự bí ẩn nào ông ấy không tỏ bày ra được? Nhiều khi tôi tự hỏi hay là ông bà đưa nhau đến đây để tự tử cũng không chừng.
Kitty nhớ đến vẻ sửng sốt của Waddington hôm xảy ra vụ ăn món rau sa lát. Nàng cố làm ra vẻ ung dung:
- Theo tôi thì ông đã quá chú ý đến việc mấy lá rau.
Nàng đứng lên.
- Chúng ta đi về thôi. Ông ghé nhà uống với tôi một ly whisky-soda nhé?
- Dù sao đi nữa bà cũng không phải là người anh hùng. Tôi biết bà đang sợ lắm. Có phải thực tình bà không muốn rời khỏi nơi đây không?
- Nhưng điều ấy can hệ gì ông?
- Tôi có thể giúp bà.
- Hay là ông cũng bị lầm vì vẻ mặt ủ rũ của tôi nữa đây? Tôi xin nhắc sở dĩ tôi buồn chính là vì cái mũi không mấy đẹp của tôi thôi.
Waddington có dáng suy nghĩ, nhìn Kitty chầm chập. Tuy nhiên trong mắt vẫn có vẻ hiền lành khiến cái nhìn ấy cũng dịu đi tựa như bóng tối làm nhòa hình ảnh phản chiếu của khóm cây trên mặt nước. Kitty rưng rưng nước mắt.
- Bà bị buộc phải ở lại phải không?
- Đúng thế.
Hai người đi qua dưới mái tam quan rồi bước xuống chân đồi. Về đến gần nhà lại trông thấy cái xác của gã ăn mày. Waddington toan dắt Kitty bước tránh nhưng nàng giằn ra rồi đứng lặng không nhúc nhích.
- Ghê thực phải không ông?
- Bà nói thế nào? Cái chết?
- Phải. So với cái chết mọi thứ không nghĩa gì! Như gã ăn mày ở đây chẳng hạn. Hắn không còn vẻ gì là người nữa. Khó tưởng tượng là hắn cũng đã từng sống như mình. Ông xem có buồn không, khi nghĩ rằng cách đây chẳng mấy năm hắn có thể là một đứa trẻ đã chạy tung tăng thả diều trên đồi.
Kitty không giữ nổi một tiếng nấc nghẹn ngào.