Some books are to be tasted, others to be swallowed, and some few to be chewed and digested.

Francis Bacon

 
 
 
 
 
Tác giả: Ken Kesey
Thể loại: Tiểu Thuyết
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 29
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3440 / 178
Cập nhật: 2015-08-07 14:07:06 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 25
ẽ có hai cô điếm từ Portland đến để đưa chúng tôi đi câu cá giữa biển khơi, trên một chiếc tàu! Thật khó mà nằm trên giường đến sáu giờ ba mươi chờ đèn bật.
Tôi bước ra khỏi buồng ngủ đầu tiên, hồi hộp nhìn lên danh sách dán trên bảng thông báo cạnh buồng kính tìm xem có thật tên mình đã ở đó hay không. Một dòng chữ in to tướng viết trên cùng: GHI TÊN ĐI CÂU CÁ, sau đó là tên McMurphy số hai là Billy Bibbit, ngay sau McMurphy số ba là Harding, số bốn là Fredrickson, cứ thế từ số năm đến số chín, còn số mười chưa có tên ai cả. Tên tôi đã ghi trên đó, dưới cùng trong danh sách, số chín. Tôi sẽ được ra khỏi viện đi câu cá với hai cô điếm trên một chiếc tàu - tôi thầm nhắc đi nhắc lại mà vẫn không thể tin được.
Ba gã hộ lý chen ngang lên trước tôi, dò dò ngón tay xám xịt, và đến tên tôi, một gã ngoảnh mặt cười gằn:
"Hừ, thằng quái nào viế́t cả tên Thủ lĩnh vào đây, chú bọn da đỏ thì biế́t viết khỉ gì?"
"Ai bảo mày là bọn chúng biết đọc?"
Hày còn sớm nên quần áo của chúng còn nguyên nế́p hồ, các ống tay áo kêu sột soạt như những chiếc cánh giấy. Chúng cười tôi nhưng tôi vẫn sắm vai câm điếc, mặc chúng, thế nhưng đến khi chúng dúi cho cái bàn chải để thay chúng lau sàn hành lang, tôi quay đi, bước vào phòng ngủ, tố bảo: mặc mẹ bọn mày. Người ta đi biển với gái điếm Portland mà lại bắt lau sàn à.
Bỏ đi khỏi chúng khiến tôi hơi sợ hãi, trước đây tôi luôn tuân lệnh chúng. Tôi ngoái nhìn và thấy chúng xách bàn chải đi theo. Có lẽ chúng sẽ đuổi theo tôi vào tận phòng ngủ nếu như không có McMurphy ở trong đó; hắn đang hét inh ỏi, lồng lộn đi giữa các giường và quất khăn tắm vào những thằng đã ghi tên đi biển sáng nay, đến nỗi bon hộ lý phát sợ dừng lại ở cửa - chẳng nhẽ lại liều thân chỉ vì muốn bắt thằng khác gánh việc lau sàn nhà?
Cái mũ đi mô tô trên đầu McMurphy sụp xuống tận trán cho giống một thuyền trưởng thốc thụ và các hình xăm từ hồi ở Singapore lộ ra dưới tay áo may ô. Hắn đi tới đi lui trong phòng khệnh khạng như đi trên boong tàu và đưa tay lên miệng huýt sáo tựa thuyền trưởng.
"Dậy! Tất cả dậy hay để tao lấy gậy dựng tui bay lên?"
Hắn gõ vang rên vào tủ của Harding.
"Sáu chai lên boong thì đủ. Phải thế. Tuyệt! Dậy!"
Thấy tôi đứng ở của, hắn chạy lại vỗ vào lưng tôi như vỗ trống.
"Nàỵ nhìn đây tụi bay! Nhìn Thủ lĩnh này. Đây mới là thủy thủ và dân chài chính hiệu chớ: từ sáng đã đậy đào mồi giun rồi. Còn tụi bay - lũ lười biếng, hãy lấy đó làm gương! Dậy! Hôm nay đi biển, đừng có ườn xác trên giường mãi nữa."
Các con bệnh Cấp tính càu nhàu với hắn và cái khăn tắm, còn tụi Kinh niên tỉnh dậy và nhìn quanh, quay quay những tròng mắt tím ngắt vì thiếu máu do ga quấn ngang ngốc chặt quá tới khi tẩt cả đổ dồn mắt vào tôi, vừa tò mò, vừa buồn bã nhìn tôi qua cặp mắt kèm nhèm. Họ vừa nằm vừa xem tôi mặc đồ ấm, còn tôi hơi ngượng và cảm thẩy mình có lỗi. Họ hiểu rằng chỉ mình tôi trong đám các con bệnh Kinh niên được đi câu. Họ những ông lão suốt đời bị giam hãm trong nhà thương trong chiếc xe lăn, với những ống dẫn chạy dọc chân như những dây nho vít chặt họ vào đó cho đến hết đời, dõi theo tôi và tức khắc hiểu rằng tôi sẽ đi biển. Và họ vẫn còn biết ghen tị chút ít vì không đến lượt mình. Họ hiểu được vì chất người trong họ đã lu mờ khiến cho cai bản năng động vật lại trỗi dậy (các lão già ấy tỉnh giấc vào ban đêm, đầu ngửa ra, tru lên, khi còn chưa ai biết trong chúng tôi có người vừa chế́t), và họ còn có thể ghen được vì chất người chưa chết hẳn.
McMurphy bước ra nhìn danh sách, sau đó quay lại kêu gọi thêm một con bệnh Cấp tính nữa tham gia đi câu cá, đi lại trong phòng, đạp vào các giường còn người nằm kéo chăn trùm kín đầu, say sưa mô tả cảnh tuyệt diệu của chuyến đi câu, lướt trên đầu các con sóng, trên mặt biển đen thẫm và, ô-hô, với một chai rum, mẹ kiếp, thế mới đáng sống! "Nào, lũ lười biếng, tao cần một thủy thủ nữa vào đội. Một chiến sĩ tố nguyện nữa thôi, quỷ tha ma bắt tụi bay đi..."
Nhưng không ai hưởng ứng hắn. Tất thẩy đều sợ run lên sau khi nghe mụ Y tá Trưởng dọa dẫm, nào biển dữ, nào thuyền đắm, nào người chết, và hình như sẽ chẳng còn hy vọng nào kiếm được tay thủy thủ cuổi cùng ấy nữa cho đến khi, nửa tiếng sau, George Sorensen tới bên McMurphy trong lúc xếp hàng chờ phòng ăn mở cửa cho cả lũ ùa vào.
Lão già Thụy Điển cao lớn, đã rụng hết răng, sạch sẽ đến mức mắt trí - tụi hộ lý gọi lão là George Rửa Tay - đi dọc hành lang, kéo giày lệt xệt mặt ngửa ra phía sau để tránh xa người tiếp chuyện, thành ra chân đi trước đầu. Đứng lại trước McMurphy, George lẩm bẩm vào bàn tay cái gì đó. Lão rất hay xấu hổ. Chẳng ai nhìn thấy mắt lão vì chúng thụt rất sâu vào trong hốc, còn phần còn lại trên mặt, lão lấy tay che hết. Người lão trông như cột buồm, còn cái đầu phía trên tựa tổ quạ, liên tục lắc la lắc lư. Lão cứ lẩm bẩm trong hai bàn tay cho đến khi McMurphy phải gạt chúng ra để nghe cho rõ.
"Ông nói cái gì vậỵ George?"
"Giun," lão nói. "Giun với dế chẳng nước non gì đâu. Các anh đi câu cá hồi Chinook hử?"
"Ừ!" McMurphy đáp. "Còn giun thì sao? Có thể tôi đồng ý với ông nếu ông nói rõ hơn."
"Tôi nghe anh nói ông Bromden đậy sớm đi đào giun làm mồi."
"Vâng, đúng đấy, ông lão ạ."
"Thế thì tôi mới nói: dùng mồi giun thì các anh chẳng câu được gì đâu. Tháng này đúng lúc cá đang đẻ trứng. Các anh phải dùng cá trích, thế đấy. Với mồi cá trích, sẽ câu được cá hồi."
Lão kết thúc mỗi câu vút lên như một câu hỏi. Cái cằm dài mới sáng sớm đã bị cọ kỹ đến mức tuột cả da gật lên gật xuống với McMurphy một hai lần, rồi xoay lão ra đằng sau và dẫn lão đi xuống cuối hàng. McMurphy gọi theo.
"Khoan nào, George, bộ lão có nhiều kinh nghiệm nghề câu lắm sao?"
George quay lại và lệt xệt trở lại chỗ McMurphy, người vươn ra sau xa đến nỗi trông như chân lão đã tố xoay ngay dưới mình lão.
"Dĩ nhiên. Đã hai mươi lăm năm tôi theo các thuyền câu cá hồi, suốt từ vịnh Half Moon đến tận vũng Puget. Hai mươi lăm năm câu cá - cho đến lúc tôi thành ra bẩn thỉu thể này." Lão xòe tay ra cho chúng tôi xem. Tất cả đều ngó xuống. Nhưng tôi chẳng hề thấy cái bẩn thỉu, chỉ thấy trên đôi bàn tay trắng, đã kéo cả nghìn ki lô mét dây câu, nham nhở các vế́t sẹo. Lão cho chúng tôi xem đến một phút, sau co tay lại thành nắm đấm và thu về giấu trong túi áo vest như sợ ánh mắt chúng tôi làm bẩn thêm, rồi mỉm cười với McMurphy, phô ra cái lợi nhợt nhạt như miếng dồi ngâm nước muối.
"Tôi có chiếc thuyền rất tốt, chỉ dài mười ba mét thôi, nhưng độ mớn nước bốn mét, làm toàn từ gỗ sồi và tế́ch." Lão lắc lư người khiến chúng tôi không còn tin được sàn nhà dưới chân vẫn đứng yên. "Ôi cái thuyền thật tốt, lạy Chúa."
Lão muốn đi nhưng bị McMurphy giữ lại:
"Mẹ khỉ, thế mà lão im lặng mãi. Từ đầu đến giờ tôi làm ra vẻ là một con sói biển, nhưng nói bí mật giữa chúng ta với nhau và thề có bức tường này tôi chưa hề lên một chiếc thuyền nào ngoài cái tàu chiến Missouri, còn về cá chỉ biết mỗi điều là ăn thích hơn đánh vẩy."
"Làm cá nếu biết cách thì có gì khó."
"Lão sẽ là thuyên trưởng của tụi tôi, được không?"
George ngửa người, lắc đầu quầy quậy, "Thuyền bẩn lắm... tởm lợm."
"Khỏi lo, George. Thuyền đã được vô trùng đặc biệt từ mũi đến đuôi, trắng bóng như răng chó. Lão sẽ không bị dây bẩn đâu, George. Lão sẽ là thuyền trưởng, không cần phải đụng vào mồi dây câu nữa, cứ ra lệnh cho tụi tôi cái lũ thuyền viên dốt nát này - chịu không?"
Thấy George vò vò tay trong áo, tôi hiểu lão thích mê đi rồi, nhưng vẫn bảo: không, ở đấy nguy hiểm lắm, bẩn cả người! McMurphy dỗ dành mãi mà lão vẫn lắc đầu hoài, vừa lúc mụ Y tá Trưởng xủng xoảng mở cửa nhà ăn bước ra, với giỏ quà trên tay, mỉm nụ cười muôn thuở chào từng đứa một, chúc buổi sáng tốt lành. McMurphy nhận thấy George nghiêng người tránh mụ ta và cau mặt lại. Khi mụ đã đi khỏi, McMurphy ngoảnh đầu sang một bên, nhìn George ranh mãnh.
"George, bà y tá nói gì về động biển đằng kia đấy? Ra khơi mùa này nguy hiểm lắm sao?"
"Đại dương có thể đùng đùng bão tố và nhấn chìm hế́t thảy."
McMurphy nhìn theo mụ y tá đang bước vào phòng kính rồi lại nhìn sang George. Tay lão càng cựa quậy tợn dưới làn áo, lão nhìn khắp lượt mọi người đang im lặng quan sát lão.
"Lạy Chúa!" Lão bỗng nói. "Anh nghĩ rằng tôi sợ mụ dọa lắm đấy hả? Nghĩ thế chứ gì?"
"Không, tôi đâu dám nghĩ thế. Nhưng George, tôi nghĩ nếu không có lão đi cùng thì nhỡ gặp bão chúng tôi sẽ chế́t chìm hết lượt, hiểu không? Tôi đã bảo là tôi chẳng hiểu gì về biển cả và còn muốn nói thêm rằng: có hai cô gái sẽ đi cùng chúng tôi, lão nghe thấy chứ? Tôi xạo ông bác sĩ rằng họ là cô của tôi, vợ góa dân chài. Nhưng thật ra họ chỉ biết câu người trên đường nhốa. Hiểu biết của họ nào hơn gì tôi. Chúng tôi cần lão, George ạ!" Hắn rít một hơi thuốc và hỏi. "Mà này, lão có mười đô không đã?"
George lắc đầu.
"Không hở? Biết ngay mà. Thôi được, tôi từ lâu đã không hy vọng giàu lên. Đây," hắn lôi từ trong túi ra cái bút chì, lau vào vạt áo và chìa cho George. "Lão làm thuyền trưởng đi, tính lão năm đô đi tàu thôi."
George lại nhìn chúng tôi, nhăn trán suy nghĩ đề nghị này rồi cười phô cặp lợi trắng nhợt và cằm lấy cây bút chì. "Lạy Chúa!" Lão nói và đi tới điền tên mình vào danh sách. Sau bữa sáng, khi đi dọc hành lang, McMurphy dừng lại cạnh tấm băng thông báo và viết chữ in vào sau tên họ George: TH. TRƯỞNG.
Hai cô điếm tới trễ. Khi cả bọn đã mất hết hy vọng thì thình lình McMurphy đứng cạnh của sổ hét lên và chúng tôi chạy tới. Hắn bảo họ đấy nhưng chúng tôi nhìn thấy không phải hai xe như dự tính mà chỉ một và cũng chỉ một cô gái thôi. McMurphy gọi qua lưới rào khi xe đánh vào bãi gửi và cô gái bước qua thảm cỏ, tiến thẳng đến bệnh viện.
Té ra cô ta trẻ và đẹp hơn chúng tôi nghĩ. Ai cũng đã được tin rằng đó đâu phải là bà cô của McMurphy mà chỉ là cô gái điếm nên đã chờ đợi mọi chuyện. Chỉ những đứa ngoan đạo là chẳng lấy gì làm vui vẻ. Nhưng khi nhận thấy cô ta bước nhẹ nhàng trên cỏ với cặp mắt xanh, leo lên đến tận ô cửa sổ của bệnh viện chúng tôi, mái tóc dài tết thành bím sau gáy đung đưa theo mỗi bước chân nom như búp lò so bằng đồng lấp loáng dưới nắng thì cả bọn chỉ còn một ý nghĩ đây là một cô gái, một người phụ nữ và không mặc áo choàng trắng từ đầu đến chân như thể bị nhúng trong băng giá, còn việc cô ta lăn lộn kiếm ăn thế nào thì đâu có quan trọng gì.
Cô gái chạy thẳng đến bên cửa sổ nơi McMurphy đứng, móc những ngón tay vào tấm lưới và áp sát người vào đó. Cô thở gấp vì chạy, bộ ngốc phập phồng như muốn xé toạc cả lưới rào. Cô rơm rớm nước mắt.
"McMurphy ôi, khỉ quá, McMurphy..."
"Khoan đã. Thế Sandra đâu?"
"Nó bị kẹt rồi, không thể bứt ra được. Còn anh, khỉ gió, anh thế nào?"
"Bị kẹt à?"
"Nói thật ra thì," cô ta lau mũi và cười khì khì. "Sandy của chúng ta lấy chồng rồi. Anh còn nhớ Artie Gilfillian ở Beaverton không? Lúc nào cũng làm bộ giữa các buổi tiệc: lúc thì mang rắn trong túi, lúc thì chuột bạch, lúc thì con khỉ gió gì đó. Thần kinh chính hiệu..."
"Trình diễn thế đấy!" McMurphy bắt đầu rên rỉ. "Ôi, Candy, bé yêu, làm sao anh nhét nổi mười người vào chiếc Ford ghẻ lở này được. Sandra và con rắn ở Beaverton nghĩ gì không biết?"
Sắc mặt cô thay đổi như đang tìm câu trả lời thì chiếc loa kêu lẹt rẹt trên trần và giọng của mụ Y tá Trưởng vang lên rằng nếu McMurphy muốn tiếp chuyện tiểu thư kia thì hãy để cô ta đăng ký cửa chính như quy định chứ không phải làm rối loạn cả viện. Cô gái rời cửa sổ vội vàng đi tới cửa chính, còn McMurphy cũng lui khỏi hàng rào, ngồi phịch vào ghế bành đầu gục xuống. "Khỉ thật!" Hắn nói.
Tên hộ lý nhỏ người mở cửa cho cô gái vào và quên đóng lại, (về sau hắn tha hồ bị chửi, tôi thề), và cô bước vào nhún nhảy dọc theo hành lang, qua buồng trốc, nơi tất cả các nữ y tá đều muốn làm cho những bước chân uyển chuyển của cô hóa đá bằng những cái nhìn lạnh băng của họ, vào đế́n phòng chung, chỉ đi trước gã bác sĩ mấy bước. Gã đang đến buồng trốc với một mớ giấy tờ trong tay, ngước nhìn cô, sau đó quay sang nhìn đám giấy tờ, rồi lại nhìn cô - và hai tay bắt đầu lục túi tìm kính.
Cô đừng lại giữa phòng và thấy từ mọi phía, bốn mươi thằng đàn ông mặc đồ xanh quay lại quanh cô, và căn phòng trở nên yên lặng đến mức có thể nghe thấy cả tiếng bụng sôi òng ọc và tiếng ống dẫn của tụi Kinh niên nổ bôm bốp.
Cô ta mất hàng phút đưa mắt tìm McMurphy và trong thời gian đó, tất cả đã kịp ngắm nghía cô ta kỹ càng. Trên đầu cô, một đám khói xanh bay vật vờ; tôi nghĩ cố gắng hiệu chỉnh để thích nghi với việc cô chạy ào vào phòng đã làm các thiết bị trong toàn khoa cháy trụi - chúng đo đạc và tính toán rằng chúng không đủ sức xử lý một vật như thế trong khoa và cứ thế cháy trụi, như là các máy cùng tố sát.
Cô gái mặc một chiếc áo phông trắng như của McMurphy nhưng bé hơn nhiều, đi giày tennis màu trắng, quần bò cắt ngắn trên đầu gối để khỏi ứ máu chân, tóm lại là quá ngắn để che kín những gì cần phải che. Có lẽ đã từng có nhiều đàn ông nhìn cô ta hơn và cô cũng đã từng ăn mặc hở hang hơn nhiều, nhưng trong hoàn cảnh này cô ta bắt đầu ngượng ngùng bối rối như một nữ sinh bị gọi lên bục giảng. Tất cả nhìn cô và tất cả im lặng. Thốc ra, Martini cũng thầm thì rằng có thể thấy cả năm đúc những đồng tiền trong túi quần của cô vì túi chật căng, nhưng đó là đo hắn đứng gần nên thấy rõ hơn tất cả.
Billy Bibbit phá vỡ số im lặng đầu tiên, không phải bằng lời nói mà bằng cái huýt sáo nhẹ gần như đau đớn cho thấy hắn nghĩ ngoại hình của cô đẹp hơn bất ai trên đời. Cô nhoẻn miệng cười, nói với hắn rất cám ơn và Billy đỏ mặt ngượng ngùng làm cô ta cũng đỏ mặt theo và cười. Tất cả sôi động hẳn lên. Tụi Cấp tính bước gần lại với cô và đồng thanh hỏi chuyện. Gã bác sĩ thì giật giật áo Harding hỏi cô ta là ai. McMurphy nhổm dậy, rẽ đám đông bước lại và khi trông thấy hắn, cô ta nhảy bổ tới ôm cổ hắn và nói "Ôi, McMurphy, quỷ con!" rồi lại đỏ mặt lên. Những lúc đỏ mặt, trông cô như một thiếu nữ mười sáu, mười bẩy tuổi, và tôi thề cô cũng chỉ bằng ấy tuổi.
McMurphy giới thiệu cô với mọi người và với ai, cô cũng đưa tay ra bắt. Khi đến lượt Billy cô còn cảm ơn hắn một lần nữa. Mụ y tá ra khỏi phòng trốc và vừa cười vừa hỏi McMurphy làm sao hắn có thể xế́p một lúc cả mười người vào một chiếc xe, và hắn hỏi lại có thể mượn xe của bệnh viện và tố hắn sẽ chở nửa đội được không, nhưng mụ, đúng như chúng tôi dự đoán, lại viện ra điều cấm kỵ gì đó. Mụ nói rằng nế́u không có người tài xế́ thứ hai ký giấy đàm bảo cho chúng tôi thì nửa đội đành phải ở lại. McMurphy nói điều đó làm hắn thiệt năm mươi đô vì phải trả lại tiền cho những đứa không đi.
"Vậy có lẽ là chúng ta nên hủy chuyến đi và trả lại tiền cho tất cả," mụ nói.
"Nhưng tôi đã nhờ thuê tàu rồi. Bảy mươi đô của tôi đã chui vào túi họ."
"Bẩy mươi đô la thôi ư, ông McMurphy? Hình như ông đã nói là cần góp đủ một trăm đô la cho chuyến đi, đó là chưa kể mười đô la của ông."
"Thế còn tiền xăng đến đấy và quay lại?"
"Cũng không thể hết ba mươi đô la, đúng không?"
Mụ ta mỉm cười thân thiện và đợi câu trả lời. McMurphy vung tay lên trời và ngước nhìn trần nhà.
"Ối giời, bà đã không bỏ qua cơ hội, bà thám tử ạ. Đúng thế, tôi đã biển thủ số tiền còn lại. Tôi nghĩ cũng phải thưởng công cho mình nữa chớ... "
"Nhưng kế hoạch của ông đã không thành." Mụ nói giọng thông cảm, vẫn mỉm cười. "Đâu phải mọi vụ đầu cơ tiền bạc của ông đều thành công, ông Randle, và nói chung, bây giờ nghĩ lại, tôi cho rằng ông gặp may thế là quá nhiều." Mụ dừng lại suy nghĩ, và tôi hiểu là sẽ còn được nghe tiếp về chuyện đó sau này "Vâng, mỗi bệnh nhân Cấp tính trong khoa ta không lúc này thì lúc khác đều đã cho ông tập giấy nợ sau mỗi phi vụ làm ăn của ông, Chả nhẽ ông cho rằng thất bại nho nhỏ này sẽ làm ông khánh kiệt ư?"
Và đế́n đây mụ im lặng vì thấy McMurphy không còn nghe nữa. Hắn đang mải nhìn gã bác sĩ. Còn gã thì đang quên hế́t mọi thứ trên đời, dán mắt vào cái áo phông của cô gái. Thấy gã trong tư thế trời trồng đó, McMurphy nở một nụ cười rộng ngoác đến mang tai, và hất chiếc mũ sau gáy hắn tiến đến, đặt tay lên vai gã bác sĩ. Gã giật nảy người.
"Bác sĩ Spivey, đã bao giờ ông nhìn thấy cá hôi Chinook mắc câu chưa? Trên cả bốn đại dương không có gì dữ dội hơn đâu. Candy, bé yêu, em hãy kể cho bác sĩ của bọn anh nghe về nghề câu cá và các chuyện khác đi..."
Chỉ mất có hai phút cùng phối hợp, McMurphy và cô gái đã làm cho gã bác sĩ xiêu lòng, lập tức đi đóng cửa phòng làm việc và trở lại với chúng tôi, vừa đi vừa nhét giấy tờ vào cặp.
"Tôi có thể làm các công việc hành chính trên thuyền." Gã giải thích cho mụ y tá rồi bỏ đi nhanh đến mức mụ không kịp đáp, còn cả đội theo sau gã nhưng chậm chap hơn, ai cũng nhếch mép cười với mụ khi đi qua phòng trốc. Những đứa nằm nhà tụ tập ở cửa phòng chung, dặn chúng tôi chưa đánh vẩy thì đừng có đưa cá về, còn Ellis cũng cố bứt bàn tay đóng đinh ra khỏi tường, bắt tay tạm biệt Billy Bibbit và hạ lệnh cho hắn phải trở thành kẻ lưới người.
Nhưng Billy Bibbit, đang mải đáp lại những cái nháy mắt của từng chiếc đinh đóng trên quần cô gái khi cô bước ra, chỉ nói ngắn gọn với Ellis là mặc mẹ cái lưới người của hẳn. Billy đuổi kịp cả bọn nơi cửa, thằng hộ lý nhỏ con đóng cửa và khóa lại sau lưng chúng tôi và chúng tôi đã ở bên ngoài.
Mặt trời chiếu xuyên qua mây và soi sáng hàng gạch viền phía trước luống hoa hồng. Làn gió nhẹ tỉa nốt những chiếc lá còn sót lại trên cây sồi và vun chúng lại thành từng đống ở chân lưới thép hàng rào. Thỉnh thoảng có mấy chú chim nâu đậu xuống lưới và chúng bay tóe lên khi cơn gió đột ngột ném một nắm lá lên đó, thoạt nhìn cứ ngỡ những chiếc lá đập vào bờ rào đã biến thành chim và bay đi.
Đó là một ngày thu hửng nắng tuyệt vời, có tiếng hò reo của trẻ con đập bóng đâu đây và tiếng động cơ của chiếc máy bay loại nhỏ, và dường như chỉ cần được đứng ở đây thôi, ở bên ngoài, cũng đã là hạnh phúc. Nhưng chúng tôi vẫn đứng túm tụm, đút tay vào túi và im lặng trong lúc gã bác sĩ đi lấy xe. Đứng túm tụm và im lặng, dõi theo những người dân thành phố phóng ô tô qua trên đường đi làm giảm tốc độ lại để nhìn những kẻ điên trong bộ quần áo xanh. McMurphy nhận thấy chúng tôi có vẻ khang khác bèn cố làm cả bọn vui lên bằng cách đùa cợt trêu chọc cô gái, nhưng chẳng hiểu sao điều đó lại làm cả bọn buồn thêm. Đứa nào cũng nghĩ: đơn giản hơn hết là quay về với bệnh viện và tuyên bố rằng bà y tá dẫu sao cũng đúng - gió mạnh lắm và sóng chắc hẳn cũng ớn lắm.
Bác sĩ lái xe đến, chúng tôi chất vào xe và lên đường: tôi, George, Harding và Billy Bibbit cùng xe với McMurphy và cô bé Candy còn Fredrickson, Sefelt, Scanlon, Martini, Tadem và Gregory ngồi xe của gã bác sĩ. Tất cả đều im thin thít. Đi được một dặm chúng tôi dừng lại ghé vào một trạm xăng, xe gã bác sĩ cũng vậy. Gã bước ra đầu tiên, và tên bán xăng chạy ra đón, mỉm cười xun xoe và chùi tay vào cái giẻ. Rồi hắn thôi cười và đi lướt qua gã bác sĩ, ngó xem trong xe rốt cuộc là có cái gì. Hắn bật trở lại, tiếp tục lau tay vào giẻ, mày cau lại. Bác sĩ bồn chồn tóm lấy tay áo hắn, rút ra tờ mười đô la và dúi vào lòng bàn tay hắn, như ươm một cây cà chua.
"Ông làm ơn tiếp cho hai xe này loại xăng thường." Gã bác sĩ đề nghị. Rõ ràng, cứ gì tụi tôi, ở ngoài bệnh viện gã ta cũng lúng túng như gà mắc tóc. "Ông làm ơn."
"Bọn mặc đồng phục kia," tên bán xăng nói, "đang điều trị ở bệnh viện ở đầu đường hả?" Hắn nhìn quanh tìm xem có cái cờ lê hay vật gì đó không. Cuối cùng hắn đi lại thùng đầy những vỏ chai nước ngọt có ga. "Mấy người ở cái nhà thương điên."
Bác sĩ lục túi tìm kính và cũng nhìn chúng tôi như đến giờ mới nhận ra những bộ quần áo xanh."Vâng, tức là không. Chúng tôi, ờ, họ ở đấy nhưng đây là đội công nhân chứ không phải bệnh nhân, tất nhiên, không phải. Đội công nhân."
Tên bán xăng nheo mắt nhìn bác sĩ, nhìn chúng tôi rồi quay đi thầm thì với tay thợ bạn đứng ở cột xăng. Chúng trao đổi với nhau, sau đó đứa thứ hai hú lớn gọi bác sĩ và hỏi về chúng tôi, và bác sĩ nhắc lại câu trả lời rằng chúng tôi là đội công nhân và cả hai tên phá lên cười. Theo tiếng cười, tôi hiểu là chúng đã quyết định bán xăng cho chúng tôi - chắc hẳn là xăng xấu, lẫn nước, vói giá cắt cổ - nhưng không vì thế mà vui vẻ gì hơn. Tôi có thể thấy tất thẩy đều buồn bã. Chúng tôi càng rầu rĩ hơn vì số dối trá của gã bác sĩ thì ít mà vì số thật thì nhiều.
Tên thứ hai nhếch mép, sán lại gã bác sĩ. "Thưa ngài, ngài cần loại xăng Đặc biệt phải không? Có ngay chúng tôi có thể kiểm tra bộ lọc dầu và cần gạt nước được chứ ạ?" Gã to hơn bạn mình. Cúi xuống sát mặt bác sĩ, gã thì thầm như tiết lộ một bí mật. "Ông có tin hay không thì tùy nhưng theo thống kê, tám mươi tám phần trăm xe trên đường cần thay bộ lọc dầu và cần gạt nước."
Do nhiều năm phải vặn bugi bằng răng, nụ cười của hắn nhem nhuốc những than. Hắn cứ thế cúi sát xuống bác sĩ, nhe nụ cười khiến gã ta co giật và đợi xem khi nào gã mới chịu công nhận là bị dồn vào góc. "Nhân thể, đội công nhân của ông cũng cần kính đen chứ hẳn? Chúng tôi có thứ kính râm chống nắng rất tốt." Gã bác sĩ hiểu rằng hắn đã tóm được mình. Nhưng khi gã định đầu hàng và sắp mở miệng nói Vâng, chúng tôi xin chịu tất, thì vang lên tiếng kêu vo vo và mui xe chúng tôi bắt đầu gập lại. McMurphy đang vật lộn và chửi rủa với cái mui xếp, cố gập nó lại nhanh hơn mức máy móc cho phép. Cứ nhìn điệu bộ của McMurphy vừa gạt vừa đấm cái mui chầm chậm gập cũng đủ biết hắn đang nổi khùng đến mức nào; đến khi đã cuộn và đập và đẩy cái mui vào một chỗ hắn trèo qua cô gái và qua thành ra khỏi xe, bước tới đứng chắn giữa gã bác sĩ và tên tiếp xăng, nhìn cái mõm đen xì của y bằng nửa con mắt.
"Chú mày nghe đây tụi tao chỉ lấy xăng thường như ông bác sĩ đã nói. Xăng thường. Hai bình. Thế thôi. Vứt mẹ những thứ nhảm nhí khác đi. Và tụi tao được giảm ba phần trăm vì đoàn này là đoàn được chính phủ phê chuẩn. Rõ chưa?"
Tên bản Xăng khinh khỉnh "Sao? Tôi nghe giáo sư nói các anh không phải là bệnh nhân?"
"Chúng mày không ấm đầu đấy chớ? Ông ấy tốt bụng không muốn làm tụi mày sợ đó thôi. Nếu tụi tao chỉ là những bệnh nhân bình thường thì ông ấy chẳng tiếc gì mà không nói thật; nhưng tụi tao không chỉ điên mà tất cả từng đứa một đều thẳng từ trại tâm thần tội phạm ra và đang đi đến San Quentin để được cho vào một chỗ an toàn hơn. Chú mày nhìn thấy thằng nhỏ có tàn hương kia chứ? Trông như người mẫu trên bìa tờ Thư tín chiều thứ Bảy đúng không, nhưng nó là một tay ném dao phát rồ đã giết ba người rồi đấy. Còn cái thằng ngồi cạnh được gọi là Toán Trưởng Tâm Thần đấy nó điên cuồng như lợn lòi ấy và gã to lớn kia là người da đỏ đấy. Bằng cán cuốc, hắn đã đập chết một lúc sáu người da trắng vì đã tính gian khi mua lông thú của mình. Đứng dậy cho chúng nhìn coi, Thủ lĩnh."
Harding chọc ngón tay vào sườn tôi và tôi đứng lên. Tên bán xăng che tay ngang trán, nhìn tôi không nói một lời.
"Một toán nguy hiểm, khỏi bàn cãi," McMurphy nói. "Nhưng đây là một chuyến đi hợp pháp, có tổ chức và có kế hoạch vạch sẵn, do chính phủ phê chuẩn, và theo quy định tụi tao được giá như nhân viên FBI vậy; chú mày hiểu không?"
Tên bán xăng lại nhìn McMurphy, còn hắn thì nhét hai ngón tay cái vào túi quần, ngửa người trên hai gót chân nhìn trả lại qua cái sẹo trên mũi. Tên bán xăng quay đầu xem bạn mình còn đứng ở bên cạnh thùng vỏ chai không rồi nhếch mép cười với McMurphy.
"Ông anh nói họ nguy hiểm? Vậy là chúng tôi nên sắp hàng mà răm rắp làm theo lời ông anh, ông anh muốn vậy phải không? Thế còn ông anh, ông Tóc đỏ, thữ nói xem ông làm sao mà phải vào đó? Kẻ ám sát tổng thống hử?"
"Anh bạn, điều đó còn phải đợi chứng minh. Qua đã bị đổ thừa một chuyện vớ vẩn. Đấm chết một tên trên võ đài, hiểu không? Và cứ thế qua quen tay."
"Thì ra ông anh là kẻ giết người đeo găng mà báo chỉ vẫn đưa đó hả?"
"Chẳng nhẽ ta nói vậy? Không, ta không quen đeo những cái gối mềm kiểu các chú. Những việc ta làm cũng không được truyền đi trên tivi từ Cow Palace. Không, ta chỉ quen đấm ở sân sau."
Tên bán xăng bắt chước McMurphy cũng đút hai ngón tay cái vào túi quần. "Ông anh quen bốc phét ở sân sau thì có, hiểu không."
"Chẳng nhẽ qua nói bốc phét không phải là một trong những tài nghệ của qua? Nhưng chú mày xem đây." Hắn dần dần đưa tay, chậm chạp quay lúc thì lòng bàn tay, lúc thì mu bàn tay sát tới mặt tên bán xăng. "Chú mày thấy thằng cướp khốn khổ nào bị thương tích đến thế này chỉ vì bốc phét chưa? Nhìn kỹ đi, chủ em!"
McMurphy giữ tay trước mặt tên bán xăng rất lâu, chờ đợi. Tên kia nhìn tay McMurphy, nhìn tôi rồi lại nhìn tay McMurphy. Thấy hắn rốt cuộc không còn gì để nói, McMurphy bỏ hắn đi lại chỗ đứa bạn của hắn đang tựa người vào chiếc tủ lạnh đống nước ga. Bằng hai ngón tay, McMurphy rút tờ mười đô la mà gã bác sĩ dúi cho hắn và đi về phía của hàng thốc phẩm bên cạnh.
"Tui bay cứ tính tiền xăng rồi gửi biên lai tới bệnh viện." Hắn quay đầu qua vai, hét to. "Còn với số tiền này tao sẽ mua chút gì tươi mát cho mọi người. Xem như thay vào cái cần gạt nước và tám mươi tám phần trăm bộ lọc dầu."
Khi hắn quay lại thì cả bọn đã hăng máu như gà chọi, đang hét vang, ra lệnh cho hai gã tiếp xăng kiểm tra áp suất ở bánh dự phòng và lau cửa kính và cạo hộ cứt chim ở nắp xe đi, cứ như chúng tôi là ông chủ ở đây. Gã to lớn không làm vừa lòng Billy Bibbit khi lau kính chắn gió và lập tức bị triệu tới.
"Mày còn chưa lau ch... chô... chỗ này, nơi... ru....tuồi đập vào đấy."
"Đây không phải là ruồi," tên kia cau có trả lời, cợ cọ móng tay trên kính. "Đó là chim."
Martini từ xe bên hét lên rằng đó không thể là chim được. "Nếu là chim thì phải có lông vũ và xương chứ?"
Một người đi xe đạp dừng lại và hỏi sao tất cả đêu mặc đồ xanh - một câu lạc bộ hay sao? Lập tức Harding ngó đầu ra.
"Không, anh bạn. Chúng tớ là những kẻ điên đang điều trị trong bệnh viện, những cái sọ dừa sứt mẻ của nhân loại. Anh bạn có muốn tớ giải nghĩa một vế́t mốc Rorschach cho không? Không? Đang vội hả? Ôi, thế là đi mất, tiế́c quá." Hắn quay lại McMurphy. "Chưa bao giờ tao nghĩ bệnh tâm thần mang lại cho con người một sức mạnh nào đó, một sức mạnh thốc số! Nghĩ mà xem, chẳng phải con người càng điên thì càng mạnh mẽ? Hitler chẳng hạn. Còn vẻ đẹp thì làm chúng ta mất trí. Đáng để suy ngẫm đấy chứ."
Billy mở một hộp bia cho cô gái, và xúc động vì nụ cười tươi tắn và lời nói "Cám ơn Billy!" của cô, hắn mở bia lần lượt khao cả hội.
Còn hai gã bồ câu kia thì đang lồng lộn, đi đi lại lại trên hè phố, tay chắp sau lưng.
Tôi ngồi trong xe, cảm thấy trong người khỏe mạnh và sảng khoái; tu từng ngụm nhỏ, tôi nghe thấy cả tiếng bia chảy róc rách trong ruột. Từ lâu tôi đã quên mất rằng trên thế giới vẫn còn tồn tại những âm thanh êm tai và những vị ngọt dịu dàng như vậy. Tôi lại tu một ngụm lớn và nhìn quanh - liệu còn quên điều gì sau hai mươi năm?
"Ôi giời!" McMurphy nói, đẩy cô gái ra khỏi tay lái và ép sát cô vào vào Billy. "Xem Thủ lĩnh cao lớn của chúng ta đang dùng nước lửa kìa!" Và hắn rồ máy lao theo dòng ô tô hối hả trên đường, khiến gã bác sĩ cũng rít lên và phóng theo.
McMurphy đã cho chúng tôi thấy có thể đạt được những gì, với chỉ một chút dũng cảm và một chút bốc đồng. Va tôi nghĩ đã dạy chúng tôi cả làm thế nào để có được nó. Suốt dọc đường đến bờ biển, chúng tôi giả vờ tỏ ra dũng cảm và rất vui vẻ. Khi xe dừng lại trước cột đèn hiệu và mọi người bắt đầu nhìn chúng tôi và những bộ đồ xanh thì chúng tôi cũng hành động y hệt hắn: ngồi ngay ngắn, hiên ngang, nghiêm nghị với nụ cười rộng mở, chúng tôi nhìn thẳng vào mắt họ, làm cho động cơ trên ô tô của họ tắt ngấm đi và mặt kính ô tô sáng lòe lên trong nắng, tới khi đèn xanh đã bật mà họ vẫn không sao nổ máy được, Cứ đứng nguyên trong trạng thái hoang mang cốc độ với một bầy khỉ nhăn nhở ngay bên cạnh và chẳng có ai xung quanh mà kêu cứu.
Và cứ thế McMurphy cầm đầu mười hai đứa phóng xe về phía đại dương.
Có lẽ hơn tất cả chúng tôi, McMurphy hiểu số bốc đồng của chúng tôi là giả tạo, bởi đến tận giờ hắn vẫn chưa gây cười nổi cho một ai. Có thể hắn chưa hiểu tại sao chúng tôi không muốn cười nhưng đã ý thức được rằng người ta chưa phải là chúa tể thốc số chừng nào chưa thể nhìn mọi việc dưới cái mặt hài hước của nó. Hơn nữa, hắn lúc nào cũng cố gắng chỉ ra cái mặt hài hước ấy đến mức khiến tôi nghi ngờ: liệu hắn có nhìn thấy cái mặt kia không? Liệu hắn có nhận ra cái gì đã thiêu rụi tiếng cười ngay từ trong dạ chúng tôi không? Có thể những đứa còn lại cũng không nhận ra nổi điều đó, mà chỉ cảm thấy được áp lốc của các tia, các tần số khác nhau đập vào mình từ các phía, uốn cong và xô đẩy họ lúc vào chỗ này lúc tới chỗ kia, cảm thấy Liên hợp đang tác động lên mình - nhưng tôi thì tôi nhận ra.
Cũng như người ta chỉ có thể nhận ra số thay đổi trong mỗi con người sau một thời gian dài xa cách, trong khi những người gặp họ ngày lại ngày không hề để ý, bởi nó diễn ra rất từ từ. Trên toàn vùng ven biển, tôi nhận ra những dấu hiệu của số đổi thay mà bàn tay Liên hợp đã tạo nên trong thời gian tôi vắng mặt, chẳng hạn: một chuyến tàu dừng lại trên sân ga rặn ra một đám đàn ông mặc những bộ quần áo và đội những chiếc mũ đóng dấu y hệt nhau, nom đều đặn như một lứa tằm, những sinh vật nửa sống nửa chết ì ầm ùa ra từ toa cuối, rồi động cơ điện lại rú lên và con tàu tiếp tục lao sâu vào những vùng đất hoang dại, đổ tiếp ở đâu đó một lứa sâu bọ nữa của mình.
Hay ví dụ năm nghìn ngôi nhà giống hệt nhau do máy móc đập khuôn rồi rải ra trên những quả đồi ở ngoại ô thành phố, chở thẳng từ nhà máy đến, còn mới tinh và móc vào nhau như một chuỗi xúc xích, một tấm biển thông báo ghi: TỔ ẨM MIỀN TÂY - NHŨNG NGƯỜI CÓ THÂM NIÊN KHÔNG PHẲI NỘP TIỀN ĐỢT ĐẦU, Còn phía dưới các ngôi nhà, sau hàng rào lưới mắt cáo là sân vận động và một tấm bảng khác: "THÁNH LUKE - TRƯỜNG HỌC DÀNH CHO NAM SINH", ở đấy có năm nghìn trẻ em mặc quần nhung xanh, áo sơ mi trắng, áo len xanh đang chơi rồng rắn trên một mảnh đất rải sỏi. Một đoàn trẻ em chạy quanh co, ngoằn ngoèo như con rắn, và mỗi lần quất đuôi lại bắn ra một cậu học sinh bé đứng cuối hàng, khiến cậu lăn lông lốc vào hàng rào như một búi cỏ lăn. Lần nào cũng vậy và cũng chỉ là cậu bé ấy văng ra.
Đó là năm nghìn chú bé sống trong năm nghìn ngôi nhà mà chủ nhân là những người đàn ông đã ùa ra khỏi tàu trên sân ga. Các ngôi nhà giống hệt nhau làm cho các chú bé luôn bị nhầm lẫn khi trở về với ngôi nhà và với gia đình của mình. Chẳng ai nhận ra điều gì. Ăn tối xong, các cậu lặn ra ngủ. Chỉ mỗi cậu bé cuối hàng là lúc nào cũng bị người ta nhận ra. Vì luôn bị sây sát mặt mày, trầy đa tróc vẩy nên người ta nhận ra chủ dễ như nhận ra một người lạ. Chú cũng không biết cách thoải mái và cười đùa như những đứa khác. Thật khó mà cười lên khi áp lốc của bức xạ từ mỗi một cỗ xe mới trên phỐ, từ mỗi một ngôi nhà mới trên đường đi cứ đè nặng lên người.
"Chúng ta thậm chí có thể gây sức ép lên cả quốc hội." Harding nói. "Chúng ta sẽ thành lập một tổ chức. Hiệp hội những người tâm thần toàn quốc. Bầu những nhóm vận động. Treo những biển quảng cáo lớn trên đường, vẽ một gã thần kinh nói năng lảm nhảm đứng cầm máy phá tường với dòng chữ xanh đỏ to tướng: HÃY THUÊ NHỮNG NGƯỜI ĐIÊN. Tương lai chúng ta thật xán lạn, thưa các ngài."
Chúng tôi đi qua cầu trên sông Siuslaw. Trong không trung lơ lửng những đám bụi nước, đến nỗi thè lưỡi ra tôi đã có thể cẩm nhận được vị của biển trước khi nhìn thấy nó. Tất cả đều biết biển không còn xa nữa nên ngồi lặng im cho đến tận bến tàu.
Ông thuyền trưởng, người sẽ đưa chúng tôi ra khơi có cái đầu hói, xám như kim loại gỉ, nhô lên trên chiếc áo len cổ lọ màu đen trông giống tháp hỏa lốc trên tàu ngầm; đầu điểu xì gà đã tắt trên miệng lướt một vòng qua chúng tôi. Đứng cạnh McMurphy trên cầu tàu bằng gỗ, ông vừa nói vừa nhìn ra biển. Phía sau ông, trên những bậc lên xuống có sáu, bẩy người mặc quần áo bạt đang ngồi trên ghế dài đặt trước cửa hiệu bán mồi câu. Thuyền trường nói to, nửa với những kẻ vô công rồi nghề và nửa với McMurphy, giọng nói bọc thép bắn ra đâu đó ở khoảng giữa.
"Tôi không cần biết. Tôi đã báo trước cho anh trong thư rồi. Nếu không có giấy tờ miễn trách cho tôi do cơ quan có thẩm quyền cấp thì tôi không thể ra biển được." Cái tháp hỏa lốc quay quay trên cổ áo len, chĩa điếu xì gà vào chúng tôi. "Nhìn đấy. Cái đám này đi ra biển lại chẳng lao đầu qua thành tàu như chuột. Họ hàng các anh sẽ đưa tôi ra tòa, lột đến tận xương tủy ấy chứ. Tôi chẳng làm cái trò mạo hiểm đó đâu."
McMurphy giải thích rằng một cô gái khác ở Portland đáng lý ra phải làm các thủ tục đó. Một tên trong đám vô công rồi nghề tựa người vào của hiệu hét lớn: "Cô gái khác nào? Thế cô tóc vàng không trị được tất cả hay sao?" McMurphy không thèm để ý, tiếp tục tranh cãi với ông thuyền trưởng, nhưng có thể thấy cô gái bất bình đến mức nào. Bọn vô công rồi nghề đang chằm chằm nhìn cô và chụm đầu lại thầm thì với nhau. Cả đội thấy cảnh đó, kể cả gã bác sĩ, ai cũng xấu hổ vì mình không làm gì cả. Chúng tôi không còn là một lũ thích gây số như ở trạm tiếp xăng.
Khi McMurphy hiểu rằng không thể thuyêt phục nổi ông thuyền trường thì không tranh cãi nữa, và quay đầu nhìn quanh, vuốt vuốt tóc.
"Chúng tôi thuê thuyền nào?"
"Cái kia kìa. Cái Sơn Ca ấy. Không một ai trong các anh được bước lên boong khi tôi chưa nhận được giấy miễn trách. Không một ai trọi."
"Tôi thuê thuyền đâu phải để cả lũ ngồi đây suốt ngày ngắm nó dập dềnh ở bế́n." McMurphy nói. "Trong cái phòng mồi của ông có điện thoại không? Nào, thử khua lên xem công việc chạy được đến đâu."
Hai người nện bước lên các bậc thang, đi vào cửa hàng, còn chúng tôi thì cụm thành một đám trước cái lũ lười biếng đang vừa dò xét nhìn chúng tôi, vừa ném ra những câu nhận xét và cười đểu, cấu véo trêu chọc lẫn nhau. Gió làm lay động những con thuyền thả neo ở mép bờ, khiến mũi chúng cọ vào những bánh xe cao su ướt trên bến làm phát ra những âm thanh như nhạo báng chúng tôi. Sóng cười xôn xao dưới những tấm ván thuyền, và cái bảng con treo trước cửa hiệu:
Dịch vụ biển - chủ hiệu Block, th.trưởng
nghiến ken két khi gió đu lên nó trên những chiếc đinh han gỉ. Vỏ sò vỏ hến bám đầy cột chống cách mặt nước khoảng một mét, ngang mức thủy triều lên, cũng thổi sáo trong ánh nắng.
Gió trở nên mạnh và buốt hơn, và Billy Bibbit cởi áo khoác xanh đưa cho cô gái, cô choàng nó lên chiếc áo phông mỏng manh của mình. Một tên vô lại cứ luôn miệng gọi cô ta: "Này cô bé Tóc Vàng xinh đẹp ơi, em khoái bọn nhãi con thỏ đế ấy à?" Môi hắn thâm màu chì, mí mắt dưới màu củ cải đỏ, gió thổi như dán những mạch máu lên trên mặt hắn. "Này cô bé Tóc Vàng xinh đep ơi," hắn gọi đi gọi lại bằng một giọng kim mệt mỏi. "Bé Tóc Vàng ơi..., bé Tóc Vàng xinh đep ơi..."
Chúng tôi đứng sát vào nhau hơn để tránh gió.
"Bé Tóc Vàng ơi, chúng nhốt em vì lý do gì đấy?"
"Không phải đâu, Perce, cô ta là bộ phận điều trị đấy."
"Có đúng thế không, bé Tóc Vàng ơi? Người ta thuê em đến điều trị à? Ôi, bé Tóc vàng!"
Cô gái ngẩng đầu lên và nhìn chúng tôi như muốn hỏi: đâu rồi đám người ngang tàng mà cô vừa thấy lúc nãy? Tại sao không ai bảo vệ cô? Chúng tôi ngó lơ đi, tránh ánh mắt cô. Sức mạnh ngang tàng của chúng tôi vừa mới khoác vai ông thuyên trường hói đầu đi lên những bậc thang kia mất rồi.
Cô dựng cổ áo khoác lên, hai tay ôm lấy khuỷu tay trước ngốc và tách khỏi chúng tôi, đi xa ra ngoài bến tàu. Chẳng đứa nào nhúc nhích. Billy Bibbit rùng mình vì lạnh và lại cắn môi. Bọn vô lại vẫn tiếp tục thầm thì với nhau và cười phá lên.
"Hỏi cô ta đi, Perce!"
"Này, bé Tóc Vàng ơi, em đã bắt chúng ký giấy miễn trách của cơ quan có thẩm quyền chưa? Anh nghe nói nếu ai rơi xuống nước và chết thì họ hàng người đó sẽ kiện ra tòa đấy. Em nghĩ đến việc đó chưa? Hay em ở lại với bọn anh?"
"Đúng đấy, Tóc Vàng đáng yêu ạ! Họ hàng của anh không kiện ra tòa đâu, anh xin hứa. Hãy ở lại với bọn anh đi, bé Tóc Vàng ơi!"
Tôi hình dung mình đang cảm thấy hai chân ướt sũng, bởi cầu tàu đang chìm xuống vịnh vì xấu hổ. Chúng tôi không phù hợp với việc sống giữa mọi người. Tôi mong McMurphy chóng trở lại, cho tụi kia một bài học và lái xe đưa chúng tôi trở về đúng chỗ của mình.
Đứa có đôi môi xám xịt màu chì gập dao lại, đứng đậy và giũ giũ phoi bào trên đầu gối. Sau đó hắn bước tới bậc thang. "Nào, cô em Tóc Vàng, em đi với bọn gáo dừa này làm gì?"
Sát mép bến tàu, cô gái quay người lại nhìn hắn rồi nhìn chúng tôi, và có thể thấy rõ ràng là cô đang cân nhắc lời đề nghị của hắn khi ngay lúc đó cánh cửa hiệu dịch vụ mở toang và McMurphy bước ra, suýt nữa thì va phải cả lũ đang ngồi ở ghế dài và bước xuống.
"Cả đội lên tàu! Mọi việc đã xong xuôi! Nhiên liệu đã nạp đủ, mồi câu và bia ở trên boong."
Hắn vỗ đít Billy, đi một điệu nhảy lính thủy ngắn và bắt tay vào tháo dây chão.
"Thuyền trường Block đang nghe điện thoại, ông ta ra là chúng ta đi luôn. George, hãy thử động cơ xem sao! Scanlon và Harding tháo cái dây kia ra! Candy! Em làm gì ở đằng ấy đây? Lại đây nào, bé yêu, chúng ta sắp nhổ neo."
Chúng tôi bước xuống thuyền, vui mừng được làm bất cứ việc gì giúp mình tránh xa được bọn vô lại. Billy cầm tay cô gái và giúp cô bước sang tàu. George đang lầm rầm trước bảng thiết bị trên cầu chỉ huy, chỉ cho McMurphy bấm nút nào và quay cần nào.
"Ô, những chiếc thuyền tởm lợm này, chúng tôi vẫn gọi là đồ thổ tả," lão nói với McMurphy "Điều khiển chúng đơn giản như lái ô tô."
Gã bác sĩ có hơi do dự trước lúc bước lên boong và lại nhìn về phía cửa hiệu, nơi tụi vô lại đang tụ tập trước bậc lên xuống.
"Randle, có lẽ chúng ta nên đợi cho đến khi... ông thuyền trưởng... "
McMurphy túm lấy ve áo gã và nhấc bổng gã từ bến tàu đặt vào thuyền như nhấc một đứa trẻ. "Ôi bác sĩ," hắn nói. "Chúng ta đợi cái gì?" Hắn nói bằng giọng cáu kỉnh lẫn hồi hộp rồi phá lên cười như thằng say. "Đợi đến khi ông ta bước ra và nói tôi đã đưa cho ông ta số điện thoại của nhà trọ rẻ tiền ở Portland hả? Phải quá. Sao vậỵ George, quỷ tha ma bắt ông đi, hãy nhấc chân, động tay đưa chúng tôi ra khỏi đây ngay! Sefelt, tháo dây lẹ lên và đi lại đây George, nào, khởi hành!"
Động cơ rú lên rồi im bặt, rồi lại rú lên như đang hắng giọng, sau đó bắt đầu phành phạch nổ.
"Ô hô! Cô bé đã tỉnh dậy rồi. Nhồi thêm than vào, George. Toàn đội vào chỗ để đẩy bật những kẻ xâm nhập tàu!"
Một luồng bạc trắng lẫn khói và nước phụt ra phía sau đuôi tàu, và cánh của hiệu dịch vụ bật tung để cái đầu ông thuyền trưởng bắn ra từ đó và lao xuống cầu thang, kéo theo không chỉ cơ thể nặng nề của ông mà cả tấm thân của lũ vô công rồi nghề nữa. Chúng ào ào chạy xuống rồi dừng lại ngay nơi đám bọt đang chồm lên liếm chân bọn chúng khi George cho con tàu lớn lượn một vòng và biển cả đã là của chúng tôi.
Thuyền cua bất ngờ làm Candy khuỵu gối, Billy đỡ cô đứng dậy và cùng lúc tìm cách xin lỗi về cách xử số của gã lúc ở trên bờ. McMurphy từ cầu chỉ huy tụt xuống, hỏi chúng có muốn ngồi riêng hai đứa để nhớ lại chuyện cũ không, và Candy nhìn Billy còn Billy chỉ có thể lắc đầu, lắp ba lắp bắp. McMurphy bảo vậy thì hắn sẽ cùng với Candy xuống hầm tàu xem nước có vào không, còn chúng tôi tố thu xế́p lấy ở đây. Hắn đứng ở cửa ca bin, cúi đầu và nháy mắt và phong chức thuyền trưởng cho George, chức thuyền phó thứ nhất cho Harding rồi nói: "Các bạn cứ tiếp tục" - và cùng cô gái biến mất sau cánh cửa ca bin.
Gió đã dịu, mặt trời lên cao mạ trắng đường chân trời phía Đông, những con sóng dài xanh thẫm lăn tăn xa xa. George cho thuyền chạy thẳng ra khơi hết tốc độ, bỏ lại bến tàu và hiệu dịch vụ trôi xa dần về phía sau. Khi thuyền đi qua đập chắn sóng và tảng đá đen cuối cùng, tôi cảm thấy một số yên tĩnh lạ trong tâm hồn, và càng xa bờ thì số yên tĩnh ấy càng sâu lắng.
Cả bọn đã hớn hở bàn tán đến mấy phút về việc đánh cắp thuyền, nhưng đến lức này tất cả đã im lặng. Cửa ca bin chỉ một lần hé mở và một cánh tay đẩy thùng bia ra, Billy mở cho mỗi đứa một chai bằng cái mở hộp hắn tìm thấy trong hộp đồ nghề. Chúng tôi vừa uống vừa ngắm đất liền đang chìm dần xuống biển sau đuôi tàu.
Đi được khoảng một hải lý, George trả tàu về "tốc độ câu cá" như lời lão nói và cử bốn đứa tới bốn cần câu nơi đuôi tàu, còn chúng tôi, những đứa còn lại, cởi áo và nằm sóng soài dưới nắng - đứa trên nóc ca bin, đứa ở mũi tàu, quan sát bốn thằng kia đánh vật với cần câu. Harding công bố luật là đứa nào giữ cần sau khi câu được con cá đầu tiên phải trao cần cho đứa khác chưa được câu thử. George đứng sau bánh lái, nheo mắt vì ánh mặt trời hắt qua kính chắn gió bám đầy muối và thét ra những lời chỉ dẫn, nào là phải sử dụng vòng dây và dây câu thế nào, nào là phải mắc mồi cá trích ra sao, ném câu xa bao nhiêu, thả mồi câu tới độ sâu nào:
"Cầm lấy cần câu số bốn và móc hòn chì mười hai aoxơ vào, trên cái thẻo câu ấy... Đợi tí, lão bày cho... và ta với chú mày sẽ kéo lên một con thật to từ tít tận đáy biển!"
Martini chạy lại bên thành tàu, gập người qua mạn tàu ngó xuống nước xem dây câu của hắn trôi đi đâu. "Ôi, trời đất, lạy Chúa!" hắn nói nhưng chúng tôi không rõ hắn nhìn thấy cái gì dưới đáy sâu.
Còn có những chiếc thuyền câu khác đang thả mồi ngang dọc ven bờ, nhưng George không hề có định lại gần họ, lão cứ thế lái thuyền lướt qua họ và phóng thẳng ra khơi. "Phải rồi," ông lão nói, "chúng ta sẽ đi đến chỗ những tàu đánh cá chuyên nghiệp, ở đó cá mới ra cá chứ."
Các con sóng trườn qua cạnh chúng tôi, một bên là màu ngọc bích, một bên ánh lên màu kền. Trong số yên tĩnh của biển khơi, chỉ có tiếng động cơ lúc rú lên, lúc lại thở phì phì khi sóng thỉnh thoảng nhấn chìm ống xả xuống nước, và tiếng những con chim màu đen, lông xơ xác lượn quanh kêu lên những tiếng hoang mang và lạ lẫm hỏi đường nhau. Mọi vật còn lại đều lặng yên. Lũ chúng tôi đứa ngủ đứa nhìn xuống nước. Con thuyền bơi chầm chậm độ một tiếng đồng hồ thì bỗng nhiên cần câu của Sefelt bị bẻ cong, mũi cần chúi xuống nước.
"George! Chúa ôi, George, giúp chúng tôi với!"
George chẳng thèm chạm tay đến cần câu; ông lão chỉ cười khẩy và bảo Sefelt hãm cái thắng hoa mai lại, giữ cho chóp cần thẳng đứng - Thẳng đứng vào! - Và kéo, kéo mạnh!
"Thế nếu tôi lên cơn thì sao?" Sefelt hú lên.
"Lức đó tụi tao sẽ móc chú mày vào lưỡi câu và thả xuống làm mồi," Harding nói. "Nào, kéo đi, hãy tuân lệnh thuyền trưởng và đừng có nghĩ đến chuyện lên cơn nữa."
Cách thuyền khoảng ba mươi mét, một chứ cá toàn thân như dát bạc nhảy lên đớp mặt trời làm tung cao một đám bụi nước, và khi nhìn thấy nó Sefelt hồi hộp đên mức tròn xoe đôi mắt và lỏng tay khiến đầu cần chùng xuống, và đây câu bật lại lòng thuyền như một sợi chun.
"Lào đã bảo phải giữ cần câu thẳng đứng cơ mà. Vậy mà chú mày lại để nó kéo nằm ngang. Vứt, hiểu không? Phải giữ cho đầu cần câu thẳng đứng... thẳng đứng! Đáng ra chú mày đã câu được con cá khỏi chê, lạy Chúa!"
Khi cuối cũng cũng chịu đưa cần câu cho Fredrickson, Sefelt đã run lẩy bẩy mặt trắng bệch ra như sáp. "Thôi được, cầm lấy.. nhưng nế́u mày câu được con cá có lưỡi câu trong miệng thì nhớ đấy là con trời đánh của tao."
Tôi cũng hồi hộp không kém gì chúng. Tôi định không cầm cần, nhưng khi nhìn thấy sức manh thép của con cả hồi ở đầu lưỡi câu thì cũng tụt khỏi nóc ca bin, mặc áo vào và đợi đến lượt mình.
Scanlon bày trò cá cược: mỗi đứa chi năm mươi xu cho đứa câu được con cá to nhất và đứa câu được con cá đầu tiên, nhưng hắn chưa kịp nhét nắm tiền vào túi thì Billy đã kéo lên một con vật kỳ quái giống một con cóc năm kí vói hàng gai nhím trên lưng.
"Đây đâu phải là cá," Scanlon cãi. "Không thể coi là mày thắng cuộc được."
"Thê đây là ch... chi... chim sao?"
"Đấy là cá mú biể́n," George nói vói chúng tôi. "Một loại cá ăn rất ngon khi lột hết mụn cóc trên da."
"Hiểu chưa? Đây là cá! X... xì tiền ra."
Billy trao cần câu cho tôi và lấy tiên, buồn bã nhìn vào cánh cửa ca bin đóng im ỉm đang giam McMurphy và cô gái ở trong rồi ngồi xuống cạnh đấy "T... ti... tiế́c quá, không đủ cần câu cho cả bọn," hắn nói và tựa lưng vào ca bin.
Tôi ngồi cầm cần câu, nhìn đây cước rải ra sau đuôi tàu. Ngữi mùi không khí và tôi cảm thấy bốn hộp bia vừa uống đã làm chập các dây dẫn kiểm soát bên trong: khắp quanh tôi, những con sóng bạch kim lấp lánh dưới ánh mặt trời.
George gọi to kêu chúng tôi nhìn về phía trước, ở đó có thứ mà cả đội đang săn lùng. Tôi quay sang nhưng chỉ thấy một khúc gỗ trôi vật vờ và một bầy hải âu đang lượn tròn và ngụp lặn xung quanh như một đám lá đen bị xoáy bụi cuốn vào. George hướng mũi thuyên đến đấy và tăng tốc độ, khiến dây câu của tôi căng ra tới khi tôi thấy giờ thì không thể đoán nổi lúc nào cá cắn câu.
"Những chú chim cốc này luôn bám theo đàn cá nến," George nói vói chúng tôi trong lúc vẫn cho thuyền đi, "Chúng chỉ nhỏ bằng ngón tay và trắng. Nếu đem sấy lên thì cháy như nến ấy. Có thể chén được, nhưng thường dùng làm mồi câu cá. Ở đâu có cá nến thì ở đó chắc chắn có cá hồi."
Lão cho thuyền bơi vào giữa đám chim, lướt qua khúc gỗ, và xung quanh tôi những con sóng bạch kim bỗng sôi động hẳn lên bởi những con chim đang ngụp lặn và đàn cá quẫy, giữa cái đám hỗn độn ấy nổi lên những tấm lưng cá hồi xanh hạc, thanh mảnh. Tôi nhìn thấy một cái lưng nghĩ lại, uốn mình quay lại và lao tới một điểm cách mũi câu của tôi khoảng ba mươi mét, nơi chắc hẳn là lưỡi câu có mắc mồi cá trích của tôi. Tim tôi rộn lên, tôi chuẫn bị, rồi bỗng hai cánh tay tôi bị giật manh một cái như có ai đó dùng gậy đánh bóng chày đập vào câu, và sợi cước đỏ như một dòng máu trôi nhanh khỏi ống đây dưới ngón tay "Kéo cái thắng hoa mai ấy!" George hét lên với tôi, nhưng tôi chỉ đè ngón tay cái lên sợi đây mạnh hơn vì không biết thắng hoa mai là cái gì, tới khi dây câu chuyển lại thành màu vàng, trôi chậm rồi dừng hẳn lại. Tôi ngoái nhìn, ba cần câu xung quanh cũng đang quăng quật tứ tung, những đứa đang ngồi trên ca bin cũng hội hộp nhảy ào xuống và làm đủ mọi trò để vướng đường vướng lối.
"Thẳng đứng! Thẳng đứng! Giữ đầu cần thẳng đứng!" George la.
"McMurphy! Ra mà xem."
"Trời đất, Fred, mày tóm đúng con cá của tao!"
"McMurphy, giúp bọn tao với!"
Tôi nghe thấy tiếng McMurphy cười và qua đuôi mắt, còn nhìn thấy cả hắn, đang đứng ở cửa ca bin vẻ mãn nguyện và chẳng hề động đậy một li, còn tôi thì quá mãi mê vói con cá của tôi nên không nhờ hắn. Tất cả đều gọi hắn, yêu cầu hắn làm cái gì đó, nhưng hắn chẳng thèm cựa quậy Thậm chí gã bác sĩ, phụ trách cần số bốn ở tầng nước sâu cũng gọi hắn ra phụ giúp. Vậy mà hắn chỉ đứng cười. Cuối cùng cũng hiểu là chẳng trông cậy gì được ở McMurphy, Harding bèn tố cầm lấy câu liêm và bằng một động tác chính xác, thành thạo như đã từng làm việc đó suốt đời, hất con cá của tôi lên thuyền. Con cá to bằng cả cái cột rào, chắc nịch như bắp đùi của tôi, tôi thầm nghĩ. Ở thác nước của bộ lạc, chưa có ai bắt nổi một chú cá hồi to như vậy. Nó giãy đành đạch ở đáy thuyền, như một chiếc cầu vồng hóa dại! Máu phun ra và vẩy bắn tung tóe như những đồng xu bạc, tôi chỉ sợ nó nhảy qua mạn thuyền và thoát mất. McMurphy không có định lại giúp. Scanlon tóm lấy con cá đè xuống sàn, không để nó quẫy qua mạn thuyền. Cô gái từ phía sau chay vội tới, kêu lên rằng bây giờ đến lượt cô, mẹ khỉ, và giằng ngay lấy cần câu của tôi; trong khi tôi cố gắng móc con cả trích vào lưỡi câu cho cô thì cô đã ba lần kịp móc lưỡi câu vào tôi.
"Thủ lĩnh! Em chết mất nế́u gặp phải ai chậm chạp như anh! Ôi, tay anh máu lòa. Con quỷ ấy cắn anh đấy hả? Ê ai đấy băng hộ tay cho Thủ lĩnh với - nhanh lên!"
"Chúng ta vào bãi cá lần nữa nghe!" George kêu lên, còn tôi thả đây câu xuống và thấy con mồi cá trích lấp lánh biến mất khi cái bóng xanh thẫm của một con cả hồi lao qua, dây câu rin rít nhả xuống nước. Cô gái nghiến răng và vòng cả hai tay ôm lấy cần câu. "Ổ, không, không được, quỷ bắt mày đi!... Ô, đừng cả gan!"
Cô ta đi chân trần, đuôi cần câu đập vào giữa hai đùi cô và cả hai tay ôm lấy phía dưới ống dây đang xoay tít, tay quay đập cả vào ngốc cô. "Ô, đừng láo xược!" Trên người cô vẫn cái áo khoác xanh của Billy Bibbit, nhưng tay quay của ống dây đã làm khuy áo tung hết ra. Và tất cả mọi người trên thuyền đều thấy cái áo phông ở trong không còn nữa - cả những đứa đang trố mắt nhìn, lẫn những đứa đang vật lộn với con cá của hắn, hoặc nhảy tránh con cá của tôi đang quật đuôi dưới sàn tàu, và cần gạt tay quay đập vào ngốc cô nhanh tới nỗi đầu vú chỉ còn là một vệt đỏ loang loáng.
Billy nhảy tới giúp. Hắn không nghĩ ra được cách gì tốt hơn là ôm lấy cô gái từ phía sau và ép mạnh hơn nữa cán câu vào giữa hai ngốc cô cho tới khi cuối cùng ống dây cũng ngừng quay vì sức ép của thân thể cô gái. Lúc đó cả da thịt cô gái lẫn đôi vú đều căng lên và đóng cứng lại, tưởng chừng nêu cả hai đều buông tay thì cần câu cũng chẳng thể rơi xuống.
Cảnh hỗn loạn đó diễn ra chỉ trong phút chốc, một tích tắc giữa biển khơi - mọi người la hét, vật lộn và chửi rủa, vừa loay hoay với cần câu cá, vừa muốn chiêm ngưỡng cô gái; trận chiến quyế́t liệt của Scanlon với con cá của tôi trong khoang thuyền, ngay dưới chân họ; dây câu rối cả vào nhau, chạy đi khắp ngả, cặp kính có dây đeo của gã bác sĩ mắc vào mớ bùng nhùng ấy và treo lơ lửng sau đuôi tàu ba mét, lũ cá đâm bổ vào mắt kính sáng lóa; cô gái chửi độc địa hết câu này đến câu khác khi nhìn xuống bộ ngốc lõa lồ của mình một bên trắng xanh, một bên đỏ lựng màu tôm luộc - cả George cũng quên mắt rằng mình đang cầm lài trong phút chốc và con tàu húc vào khúc gỗ khiến động cơ hộc lên rồi tắt ngấm.
Còn McMurphy chỉ cười hô hố. Lắc la lắc lư càng lúc càng xa thêm trên nóc ca bin, hắn cười vang mặt biển - cười cô gái, cười cả bọn, cười George, cười tôi mút ngón tay chảy máu, cười ông thuyền trường ở bến tàu và anh chàng đi xe đạp, cười hai gã tiếp xăng, cười năm nghìn ngôi nhà, cười mụ y tá và tất tật những gì còn lại. Bởi hắn biết để giữ được thắng bằng và để thể giới không làm mình phát điên thì phải biết cười vào mũi tất cả những gì đang làm khổ mình. Hắn biế́t rõ cái mặt đắng cay, biết rằng tay tôi đau, rằng bộ ngốc bạn gái hắn vừa bị bầm dập, rằng gã bác sĩ bị mất kính, nhưng hắn không để nỗi đau lấn át tiế́ng cười cũng như không cho phép tiếng cười thay thế nỗi đau.
Tôi nhận thấy Harding đã ngồi sụp xuống cạnh McMurphy, cũng cười ngặt nghẽo. Và cả Scanlon dưới sàn tàu cũng thế. Chúng tố cười mình và cười tất cả. Và cô gái với bộ ngốc bên trắng bên đỏ và đôi mắt vẫn còn rát bỏng, cũng phá lên cười. Và cả Sefelt, cả gã bác sĩ, tất cả đều cười.
Điều đó bắt đầu một cách chậm chạp rồi tố bơm căng mình lên, thổi cho từng người mỗi lúc một to dần. Tôi đứng giữa họ, dõi theo họ và cùng cười với họ nhưng lại như không cùng với họ. Tôi đã thoát khỏi thuyền và đang bay trên mặt nước, hòa trong gió cùng với những con chim đen, bốc cao lên trên chính mình, nhìn xuống dưới tôi trông thấy mình và những người khác, thấy con thuyền tròng tranh giữa đàn chim đang ngụp lặn, thấy McMurphy và mười hai đứa xung quanh đang nhìn hắn, và nhìn tiếng cười của chúng tôi vang vang trên sóng, lan tỏa ra xung quanh mỗi lúc một xa hơn, cho tới khi nó đổ ập xuống khắp các dải cát ven bờ, khắp các đài cát ven tất cả các bờ, hết đợt này đến đợt khác.
Lưỡi câu của gã bác sĩ móc phải một con gì đó ở tít tận đáy sâu, và khi mỗi chúng tôi trừ George đều đã câu được một con cá thì gã kéo được nó lên tới gần bờ đến mức chúng tôi gần như thấy được - chỉ là một vệt sáng lấp lánh hiện ra, nhưng lại lặn sâu xuống bất chấp gã tìm mọi cách giữ lại. Cứ mỗi lần gã hì hục kéo lên gần mặt nước, vừa lôi vừa cuộn với những tiếng phì phò bướng bỉnh và không nhờ vả bất cứ một ai, thì con cá vừa nhìn thấy ánh sáng đã lập tức lộn trở lại đáy biển.
George cũng chưa vội khởi động máy mà xuống chỗ chúng tôi, chỉ dẫn cách làm cả để vẩy bay ra khỏi boong tàu và cách bóc mang cá thế nào để khỏi mất ngon. McMurphy buộc hai mẩu cá vào hai đầu một sợi dây đài độ một mét và tung lên trời, khiến hai con chim the thé chộp lấy rồi bay mất hút: "Tới khi cái chết chia lìa chúng".
Toàn bộ đuôi tàu và hầu như tất cả mọi người đều vấy màu đỏ và bạc. Vài đứa cới áo và giũ ra ngoài boong tìm cách gột sạch. Cứ như thế cho đến tận chiều chúng tôi trôi nổi, thỉnh thoảng câu cá, uống hết hòm bia thứ hai và thỉnh thoảng ném cho chim ăn, trong khi con tàu lười biếng ngả nghiêng trên sóng còn gã bác sĩ vẫn kiên trì với con cá quỷ quyệt ở tít tận đáy sâu. Gió thổi mạnh hơn, băm biển ra thành những mảnh vụn trắng và xanh giống một cánh đồng phủ kính và kền, và tàu cũng bắt đầu lắc lư dữ dội. George nói với gã bác sĩ hoặc là lôi cá lên hoặc là cắt dây câu đi - thời tiết xấu lắm. Bác sĩ không trả lời. Gã chỉ kéo mạnh hơn nữa, đổ người về trước và quấn dây rồi lại kéo.
Billy và cô gái đã trèo về đằng mũi, vừa nói chuyện vừa nhìn xuống nước. Phát hiện ra một vật gì đó, Billy liên kêu lên và tất cả chúng tôi chạy bổ lại, và một vệt trắng và rộng bắt đầu hiện hình ở độ sâu ba hay năm mét. Thật lạ lùng khi quan sát nó nổi lên: thoạt tiên nước như đổi màu, Sau đó là một hình hài màu sáng, trông như một đám sương mù dưới nước, cuối cùng cũng hiện ra, quẫy động...
"Bố khỉ," Scanlon hét lên. "Đây là con cá của bác sĩ!"
Gã đang đứng phía bên kia boong, nhưng theo hướng dây câu chúng tôi hiểu nó đang bị kéo căng về con vật màu trắng dưới làn nước.
"Chúng ta không kéo nổi nó lên thuyền đâu," Sefelt nói. "Mà gió thì đang mạnh lên."
"Đấy là cá thờn bơn," George bảo. "Thỉnh thoảng có con nặng một trăm, trăm rưỡi kí. Phải dùng tời mới kéo lên được"
"Đành phải cắt dây thôi, bác sĩ," Sefelt nói và ôm lây hai vai gã. Bác sĩ không trả lời; lưng áo vest ướt đẫm mồ hôi, đôi mắt do nhìn lâu không kính đỏ vằn lên. Gã vẫn tiêp tục kéo cho đến khi con cá xuất hiện ở phía gã. Khi nó đã nổi lên gần mặt nước, chúng tôi còn ngắm nghía một vài phút rồi mới chạy đi chuẩn bị dây thừng và câu liêm.
Dùng câu liêm vất vả một giờ chúng tôi mới kéo được con cá lên đuôi thuyền. Cả ba cần câu còn lại đều phải dùng đến, và McMurphy cúi gập người xuống, tóm lấy hai mang và sau một tiếng hú con cá trườn qua mạn thuyền, trắng bạch và to như tấm phản, ngã đánh bạch xuống sàn cùng gã bác sĩ.
"Rất đặc biệt," dưới sàn, bác sĩ thở hồng hộc, không còn một tí sức lốc nào để đẩy con cả ra khỏi mình nữa. "Đây là một điều thật... đặc biệt."
Trên đường về lại bờ, tàu lắc mạnh, kêu lên kèn kẹt, McMurphy còn thết đãi chúng tôi những câu chuyện rùng rợn về những vụ đắm tàu và cá mập đớp người. Càng vào gần bờ, sóng càng dữ; từ đỉnh các ngọn sóng, những đám bọt nước trắng bay ra cuốn theo gió cùng với những con hải âu. Nơi đập chắn, sóng dựng lên cao hơn cả thuyền và George ra lệnh cho chúng tôi mặc áo phao. Tôi nhìn thấy tất cả thuyền câu chơi đều đã được neo lại ở bến.
Áo phao thiếu ba cái, thế là nổ ra tranh cãi xem ai sẽ bơi người không qua cồn cát ngầm. Cuối cùng rơi vào Billy Bibbit, Harding và George, ông lão đằng nào cũng không chịu mặc áo vì sợ bẩn. Billy đã làm cả bọn ngac nhiên khi vừa biết là thiếu áo, hắn đã cởi ra và khoác lên người cô gái, nhưng chúng tôi càng ngạc nhiên hơn vì McMurphy chẳng giành làm một trong số người hùng; trong lúc cả bọn mải tranh cãi, hắn chỉ đứng dựa lưng vào ca bin, gồng người để khỏi bị lắc, nhìn cả lũ và im lặng. Chỉ nhìn và cười mỉm.
Khi tới cồn cát, Chúng tôi bị sa vào hẻm nước, mũi tàu chồm lên đỉnh sóng sủi bọt đang lăn phía trước, Còn đuôi tàu nhấn xuống rãnh sóng với con sóng đằng sau chỉ chốc vồ lấy chiếc tàu, và những đứa ngồi sau bám chặt lấy tay vịn, lúc thì nhìn lên con sóng cao như núi đang đuổi theo, lúc thì nhìn những tảng đá đen của đập chắn cách sườn trái khoảng mười mét, lúc lại nhìn George vặn bánh lái. Lão đứng sừng sững như cột buồm. Lão hế́t ngoảnh đầu ra sau lại quay đầu về trước, tăng ga, nhả, rồi lại tăng, luôn luôn giữ cho tàu ổn định ghế́ch mũi lên sườn phía sau con sóng. Ông lão đã nói trước khi ra khơi rằng nếu leo lên đỉnh con sóng trước thì tàu sẽ bị cuốn đi như chiếc lá vì bánh lái và chân vịt sẽ trượt ra khỏi nước, ngược lại nế́u chậm chạp thì con sóng phía sau sẽ ào đến và đổ ập hàng chục tấn nước lên tàu. Không ai dám trêu chọc và đùa cợt về cái đầu ông lão đang quay quay trên cổ như trên chiếc bản lê.
Sau đập chắn chỉ còn lại những con sóng nhỏ và gấp gáp, và trên bế́n tàu, cạnh cửa hiệu, chúng tôi thấy ông thuyền trường và hai cảnh sát đang đứng sát mép nước. Còn bọn vô công rồi nghề ban sáng tụ tập đằng sau. George lao thẳng thuyền hết tốc độ vào chúng, tới khi ông thuyền trưởng hét lên tay huơ loạn bậy còn hai cảnh sát và lũ vô lại nhảy vội lên các bậc thang. Khi mũi tàu dường như sắp hất tung cầu tàu thì George quay bánh lái, lùi hế́t về sau và với tiếng hú inh tai, ép con thuyền vào đệm cao su, nhẹ nhàng như ủ đứa trẻ vào nôi. Khi những con sóng bạc đầu chồm tới thì chúng tôi đã lên bờ an toàn và đang buộc tàu vào cọc; con sóng nâng những chiếc thuyền bên cạnh lên cao, vỗ vào cầu tàu rồi chạy tế trở lại, phủ lên cầu tàu bao nhiêu bọt, tưởng như chúng tôi mang theo cả biển về đây.
Ông thuyền trưởng, hai viên cảnh sát và lũ lười biếng vội vã chạy tới. Bác sĩ tấn công trước: gã nói với hai viên cảnh sát rằng chúng tôi không thuộc quyền pháp luật của họ, bởi vì chúng tôi là một đoàn hợp pháp, được chính phủ phê chuẩn, và nếu có ai muốn xem xét việc này thì đó chỉ có thể là cơ quan Liên bang. Ngoài ra, nếu ông thuyền trưởng muốn làm to chuyện thì có thể điều tra thêm về chuyện tại sao trên tàu không đủ áo cứu sinh? Bởi vì theo luật thì mỗi người phải có một chiếc, không phải thế sao? Khi thấy ông thuyên trường đã cứng họng, hai cảnh sat cũng chỉ ghi vội mấy tên họ rồi lầu bầu bỏ đi; họ vừa rời bến thì McMurphy và ông thuyền trường bắt đầu cãi cọ và xô đẩy lẫn nhau. McMurphy say đến mức hắn vẫn còn đung đưa để nhịp với con tàu và hai lần hắn trượt té trên sàn gỗ ướt và rơi xuống biển, trước khi đứng vững được và đấm vào cái đầu hói của ông thuyền trưởng; đến đây cuộc cãi vã kết thúc. Tất cả đều hài lòng là chuyện rốt cục đã xong, và ông thuyền trưởng cùng McMurphy vào cửa hiệu lấy thêm bia còn chúng tôi khiêng cá ra khỏi thuyền. Lũ vô lại đứng đằng xa, vừa nhìn chúng tôi vừa nhồi thuốc vào mấy cái tẩu tố gọt. Chúng tôi đợi bọn chúng lại nói những câu xúc phạm đến cô gái, mong nữa là khác, thốc tình, nhưng khi đứa đầu tiên mở mồm thì những lời hắn phát ra chẳng hề đụng cham gì tới cô mà là theo hắn nhớ, trên toàn vùng biển Oregon chưa có ai câu được con cá thờn bơn to như thế này. Bọn còn lại gật đầu - đúng thế! Và chúng bước đến gần ngó nghiêng, nhìn con cá. Chúng hỏi George học được ở đâu cách cập thuyền như vậy và chúng tôi mới biết té ra rằng George không chỉ là dân câu loại sành mà đã từng là thuyền trường một tàu tuần tiễu ở Thái Bình Dương và đã được thưởng huân chương chữ thập. "Lão có thể lãnh một trọng trách quốc gia đấy nhỉ," một đứa nói.
"Mấy chỗ đó bẩn lắm," George trả lời.
Chúng đã nhìn thấy điều mà chúng tôi mới chỉ hơi hơi cảm thấy: đây không còn là một lũ sợ sệt và yếu đuối từ nhà thương điên để chúng tha hồ làm nhục như ban sáng. Chúng không trục tiếp xin lỗi cô gái vì những lời nói sỗ sàng sáng nay nhưng nhã nhặn đến khó tả khi xin phép được xem con cá của cô. Khi McMurphy cùng ông thuyền trường từ của hiệu trở ra, chúng tôi còn uống với bọn chúng một chầu bia chia tay.
Đoàn trở về bệnh viện khá muộn.
Cô gái ngủ trên ngốc Billy và khi cô tỉnh dậy tay hắn đã tê cứng vì giữ cô suốt dọc đường trong một tư thế rất bất tiện, và cô xoa bóp tay cho hắn. Hắn nói với cô rằng, nếu hắn được ra khỏi bệnh viện vào một ngày nghỉ nào đấy, hắn muốn gặp lại cô, còn cô gái nói hai tuần nữa cô có thể tới thăm hắn, chỉ cần hắn ấn định thời gian, đến đây Billy nhìn McMurphy cầu viện. McMurphy ôm vai cả hai và nói: "Vậy thì vào hai giờ đúng nhé!"
"Trưa thứ Bảy hả?" cô hỏi lại.
Hắn nháy mắt với Billy và kẹp khuỷu tay ôm đầu cô gái. "Không. Hai giờ đêm thứ Bẩy: Em lẻn đến và gõ vào đúng cái của sổ như ban sáng. Anh sẽ thuyết phục tên hộ lý để hắn cho em vào."
Cô gái cười khúc khích và gật đầu, "Anh láu như quỷ McMurphy ạ!".
Vài đứa Cấp tính còn chưa đi ngủ, đợi cạnh buồng vệ sinh xem chúng tôi đã chết đuối hay chưa. Cái chúng thấy là một đoàn những anh hùng thắng trận trở về, cả bọn ổn ĩ bước vào hành lang, tay xách cá hồi, người vấy máu, cháy nắng, bốc mùi bia và cá. Bác sĩ hỏi chúng có muốn xem con cá thờn bơn của gã ngoài thùng xe không, và tất cả quay ra, trừ McMurphy. Hắn nói với hắn thế đủ rồi và tốt hơn hế́t là chui vào giường ngủ. Khi McMurphy đi khỏi, một đứa trong đắm ở nhà hỏi tại sao McMurphy phờ phạc và mệt mỏi trong lúc những đứa khác thì hớn hở và vui vẻ đến vậy. Harding giải thích đó là đo McMurphy say nắng.
"Bọn mày nhớ chứ, McMurphy tràn trề sức lốc đến đây sau khi đã được tôi luyện trong một cuộc sống khắc nghiệt ở nơi thoáng đãng và tố do, tức ở trại cải tạo, mặt đỏ tía và cơ thể bừng bừng sức sống. Chẳng qua là chúng ta đã được chứng kiến số phai nhạt của nước da sạm nắng trên cơ thể một người thái nhân cách tuyệt vời mà thôi. Dĩ nhiên hôm nay anh cũng đã phải làm việc kiệt sức hàng giờ liền - mà chẳng may lại là trong hầm tối, trong khi bọn tao phơi mình ra giữa thiên nhiên hấp thụ Vitamin D. Tất nhiên, cái công việc trong hầm kín ấy có thể đã làm anh ta kiệt sức phần nào, bọn mày tố tưởng tượng lấy Còn tao, tao sẵn sàng đổi một phần Vitamin D để lãnh cái việc hao tâm tổn lốc đó. Đặc biệt khi cô bé Candy làm chỉ huy trưởng. Tao có nhầm không nhỉ?"
Tôi không nói, nhưng nghĩ rằng có thể Harding nhầm. Tôi đã nhận ra số mệt mỏi của McMurphy từ trước đó, trên đường về, khi hắn đòi mọi người tạt ngang qua thị trân hắn đã ở thời thơ ấu. Chúng tôi vừa mới uống xong ngụm bia cuối cùng, Vứt lon rỗng qua cửa sổ ngay trước bảng hiệu Stop, và ngả người trên ghế tận hưởng mấy phút cuối cùng trong ngày, nhấm nháp cảm giác gà gật ngọt lịm chỉ có được sau khi người ta đã trải qua một ngày kiệt lốc trong hoạt động mà mình ưa thích - người bỏng vì nắng và mềm ra vì rượu, chỉ cố tỉnh giấc vì còn muốn kéo dài khoái cảm. Một ý nghĩ mơ hồ chợt lóe lên trong tôi rằng có thể tôi đã có được khả năng thấy những điều gì đó tốt đẹp trong cuộc đời. McMurphy đã dạy được cho tôi một cái gì đó. Không nhớ đã có lúc nào tôi cảm thấy sung sướng thế này chưa - họa chăng chỉ là thời niên thiếu, khi tất cả đều tốt đẹp và mảnh đất còn bình yên như lời ru của mẹ.
Chúng tôi không đi dọc bờ biển mà tạt sâu vào trong để được qua cái thị trấn mà McMurphy đã từng sống lâu hơn cả trong cuộc đời lang thang của hắn. Men theo sườn dốc của dẫy đồi Cascade, nghĩ rằng cả toán đã bị lạc cho đến khi... tới một thị trấn chỉ rộng gấp đôi khu bệnh viện của chúng tôi. Trên phố, bụi cát che mờ cả mặt trời khi McMurphy dừng xe lại giữa một đám cỏ dại và chỉ sang phía bên kia đường.
"Đằng kia kìa, thấy không? Tuổi trẻ dại khờ của tao đã trôi qua trong căn nhà rách nát dựng giũa đám cỏ ấy."
Phố xá ảm đạm giữa buổi chiều tà, cây cối trơ trọi giáng xuống vỉa hè như những tia chớp gỗ, khiến bê tông nứt toác ra dưới chân: cây nào cũng bao trong một bờ rào kín mít. Một hàng rào sắt dựng lên tua tủa trước mảnh sân đầy cỏ dại và sau lưng là ngôi nhà gỗ to có mái hiên, chìa đầu hồi già cỗi về hướng gió như để khỏi bị thổi lăn lóc trên phố như một cái hộp các tông rỗng. Gió mang những giọt nước đến, khóa dây trước cửa rung lên xủng xẻng và tôi nhìn thấy cặp mắt của ngôi nhà nheo tít lại.
Và trước hiên nhà treo lủng lẳng thứ đồ chơi kiểu Nhật Bản làm từ những mảnh thủy tinh treo đầu những sợi đây - bất kỳ một làn gió nhẹ nào cũng làm chúng rung lên leng keng - chỉ còn lại vẻn vẹn bốn mảnh. Chúng lay động, va đập vào nhau, vỡ ra những vụn li ti trên sàn gỗ.
McMurphy sang số.
"Có một lần ở đây.. quỷ biết là khi nào - khi tụi tao từ vụ lộn xộn ở Triều Tiên trở về. Tao ghé thăm nhà. Ông bô bà bô vẫn còn sống. Một gia đình tốt đẹp."
Hắn nhả côn cho xe chạy rồi lại phanh lại.
"Ôi, lạy Chúa," hắn nói, "tụi bay nhìn kìa, có thấy cái váy không?" Hắn chỉ ra sau. "Kìa, nhìn xem trên cành cây đó? Cái giẻ vàng có sọc đen đó."
Tôi ngoảnh nhìn: trên mái nhà kho, giữa các cành cây phất phơ một cái gì đó như một lá cờ.
"Đấy là chiếc váy của cô bé đầu tiên đã kéo tao vào giường. Tao mới lên mười, cô ta có lẽ còn ít hơn - lúc đó dường như có trời mà biết được, đó là một việc rất hệ trọng và tao đã hỏi cô ta nghĩ thế nào, thấy thế nào, chúng ta có cần công bố không? Tỉ dụ như bảo với bố mẹ: 'Con với Judy đã đính hôn rồi mẹ ạ? và tao nói điều đó thật nghiêm chỉnh, ngu thế không biế́t. Tao nghĩ rằng một khi chuyện đó đã xảy ra thì giờ đây ta là vợ chồng hợp pháp, ngay lập tức - dù muôn hay không, và rằng chưa từng có ai phá luật đó. Thế nhưng cô đượi nhỏ đó, chỉ mới tám, chín tuổi, cúi xuống lượm cái váy từ sàn nhà lên và nói đó là của tao. "Cậu có thể treo vào đâu đó, tớ sẽ mặc quần lót về nhà, chỉ cần công bố như thế, người ta sẽ hiểu". Ôi lạy Chúa, cô bé mới chín tuổi," hắn nói và véo mũi Candy, "thế mà đã biết nhiều hơn các nữ chuyên gia khác"
Candy phá lên cười và cắn vào tay hắn, hắn ngắm nghía các vết răng.
"Tóm lại cô bé mặc quần lót về nhà, còn tao thì đợi trời tối để vứt cái váy quỷ quái đó đi... nhưng tụi bay thấy gió không? - Cuốn ngay cái váy đi như cái diều và lôi tuột ra sau nhà chẳng rõ đi đâu cho đến sáng hôm sau, lạy Chúa, tao thấy nó treo trên cái cây ấy và tao nghĩ: giờ thì cả thị trân sẽ dừng lại mà nhìn."
Hắn mút tay vói vẻ bất hạnh làm Candy bật cười và hôn lên đó.
"Vậy là lá cờ của tao đã giương lên, và từ bấy đến nay tao luôn cố gắng xứng đáng với cái tên của mình - Randy, người tình chuyên nghiệp, và mọi tội lỗi là do cô bé chín tuổi đó, có Chúa chứng giám!"
Ngôi nhà đã trôi qua. McMurphy ngấp dài và nháy mắt. "Đã dạy cho tôi biết yêu, cám ơn em bé bỏng!"
Và giữa lúc McMurphy vẫn tiếp tục nói, đèn hậu của chiếc xe vừa vượt qua rọi lên mặt hắn và trong gương chắn gió tôi nhìn thấy một vẻ mặt mà hắn không cho phép thể hiện bao giờ nếu như không tin đã được bóng tối che khuất để không ai nhìn thấy - một khuôn mặt mệt mỏi tột độ căng thẳng và rồ dại, dường như hắn còn phải làm gì đó nữa nhưng thời gian đã hết...
Còn cái giọng lười biếng và chân thành vẫn tiêp tục kể về cuộc đời cho chúng tôi cùng chung sống với hắn, về những trò tinh nghịch và tiêu khiển thời trẻ trai, về các bạn rượu và những phụ nữ hắn đã yêu, về những vụ ẩu đả đẫm máu chỉ vì một chút danh dự nhỏ bé - để chúng tôi cùng mơ thành cuộc sống của mình.
Bay Trên Tổ Chim Cúc Cu Bay Trên Tổ Chim Cúc Cu - Ken Kesey Bay Trên Tổ Chim Cúc Cu