Nguyên tác: The Light Between Oceans
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Phần Ii.15
B
an đầu Tom cứ nghĩ là mình đang tưởng tượng ra hình bóng con thuyền Hồn Gió đang tới gần, nghiêng ngả trong mưa gió còn dư lại sau trận lốc xoáy vừa lướt qua bờ biển phía Tây Australia. Anh gọi Isabel, xem cô có nhìn thấy vậy không. Cả hai chỉ vừa trở lại Janus có một tuần. Đến giữa tháng Ba mới có thuyền, theo lịch lúc đó họ sẽ theo thuyền về đất liền trước khi chuyển đến trạm Mũi Moore. Hay thuyền bị hư máy khi đang trên đường tới đảo khác? Hay Ralph và Bluey bị thương trong bão?
Sóng nước hôm đó dữ dội, cả đoàn cố gắng lắm mới neo được thuyền mà không va vào cầu tàu. “Méo mó có hơn không bác Ralph?” Tom hét lên cố át tiếng gió khi con thuyền tới gần, nhưng lão Ralph không đáp lời.
Thay vào đó, lúc Bluey bước ra từ phía sau thuyền Tom nhận ra gương mặt gầy gò khắc khổ không thay đổi của Neville Whitinish. Anh thấy càng bối rối. Bốn viên cảnh sát đi theo sau.
“Trời đất bác Ralph! Chuyện gì thế này?”
Một lần nữa lão Ralph không đáp lời. Tom thấy lạnh xương sống. Anh quay nhìn lên dốc nhà, thấy Isabel đang đứng nép người, khuất dạng từ cầu tàu. Một viên cảnh sát lảo đảo xuống cầu tàu, chân nam đá chân chiêu như người say, mãi một lúc sau mới đứng vững được. Mấy người khác đi theo.
“Thomas Edward Sherbourne?”
“Đúng vậy.”
“Hạ sĩ Spragg, cảnh sát Albany. Đây là trợ lý của tôi, cảnh sát Strugnell. Hạ sĩ Knuckey và cảnh sát Garstone ở đồn Mũi Partageuse, chắc anh cũng biết.”
“Tôi không nhớ.”
“Anh Sherbourne, tụi tôi tới đây vì chuyện Frank Roennfeldt và con gái Grace.”
Tom thấy choáng váng như vừa bị đấm một quả vào mặt, trong giây lát anh ngộp thở. Cần cổ anh cứng lại, mặt tái xanh. Cuộc chờ đợi đã kết thúc. Như thể vừa nhận được lệnh tiến công sau nhiều ngày cố thủ trong chiến hào.
Viên cảnh sát rút ra từ trong túi một vật gì đó – một mẩu giấy bìa bay phần phật trong cơn gió dữ dội. Anh ta giữ miếng giấy bằng cả hai tay.
“Anh có nhận ra vật này không?”
Tom nhìn thấy tấm hình chụp cái lục lạc. Anh ngước lên vách đá trước khi trả lời: Isabel đã không còn đứng đó. Thời gian như dừng lại, chênh vênh – rồi sẽ không thể trở lại như xưa nữa.
Anh thở dài, như thể vừa đỡ một vật nặng, rồi cúi đầu, nhắm mắt. Anh thấy có ai đặt tay lên vai mình. Là tay của Ralph. “Tom, Tom, con trai ơi… chuyện quái quỷ gì thế này?”
***
Khi viên cảnh sát thẩm vấn Tom một mình, Isabel đi ra chỗ mấy cây thánh giá gần vách núi. Đám hương thảo xô dạt trong gió, như những suy nghĩ trong đầu cô. Isabel run rẩy nhớ lại: người cảnh sát thấp nhất, trẻ nhất, rất nghiêm nghị khi đưa tấm hình cho cô xem, hẳn anh ta đã thấy mắt cô trợn lên và cô đã nín thở ra sao lúc đó.
“Có người gởi cái lục lạc cho cô Roennfeldt tuần rồi.”
“Tuần rồi?”
“Có vẻ như cùng một người hai năm trước từng gửi thư cho cô ấy.”
Mẩu thông tin tiếp theo khiến Isabel choáng váng.
“Tụi tôi sẽ hỏi chị vài câu sau khi đã nói chuyện với chồng chị. Nhưng lúc này đây có lẽ chị nên…” Viên cảnh sát nhún vai bối rối. “Chị đừng đi quá xa.”
Isabel nhìn xuống vách núi: khí trời lồng lộng mà cô vẫn thấy ngạt thở khi nghĩ đến Lucy vẫn còn ngủ trưa ở phòng bên cạnh trong lúc cảnh sát tra hỏi cha nó. Họ sẽ mang nó đi. Đầu cô ong lên: cô có thể giấu nó chỗ nào đó trên đảo này. Cô có thể… có thể ôm nó nhảy xuống thuyền bỏ trốn. Cô tính toán thật nhanh – chiếc thuyền cứu hộ đã sẵn đó. Nếu cố giả vờ là đang mang Lucy đi đâu đó… mà đi đâu bây giờ? Đi đâu cũng được, có quan trọng gì. Cô có thể bồng con ra thuyền rồi hai má con có thể đi khỏi đảo trước khi họ nhận ra. Nếu nương vào đúng dòng hải lưu thì có thể đi về phía bắc… Cô hình dung hai má con an toàn cập bờ ở Perth. Nhưng lý trí xen vào, nhắc cô đến những dòng hải lưu phía nam và cái chết đang chực chờ ở Nam Đại dương. Ngay lập tức cô nghĩ đến một lối khác. Cô có thể thề độc rằng đứa bé là con cô, rằng trong chiếc xuồng hôm đó có hai người chết, rằng cô và Tom chỉ giữ lại chiếc lục lạc thôi. Cô níu kéo bằng mọi khả năng, bất chấp có kỳ quặc đến đâu.
Thứ phản xạ thông thường cứ quay lại: “Phải hỏi ý Tom nên làm gì.” Rồi cô thấy buồn nôn, khi nhớ ra rằng tất cả là tại Tom. Cô thấy đau lòng như một ngày xưa, tỉnh dậy giữa đêm khuya sau khi đã biết tin Hugh qua đời mà đột nhiên nghĩ rằng, “Mình phải báo tin xấu cho Hugh biết.”
Dần dần cô thấy không còn lối thoát, rồi thấy giận dữ. Tại sao? Tại sao anh ta không để mọi thứ được yên? Đáng ra Tom phải bảo vệ vợ con, chứ không chia lìa má con cô như vậy. Nằm sâu dưới tri giác, thứ cảm xúc tăm tối đó bị đánh thức, lồng lộn tìm chốn nương náu. Suy nghĩ của của Isabel quay cuồng, không còn sáng suốt – anh ta đã lên kế hoạch hai năm nay. Anh ta là ai, là ai mà dám nói dối với cô, dám mang con cô đi? Cô nhớ lại cách Hannah Roennfeldt chạm vào cánh tay Tom, rồi tự hỏi không biết thực ra giữa hai người có gì. Cô nôn thốc tháo ra bãi cỏ.
***
Đại dương cuồng nộ đập vào vách núi, nước biển văng lên tới chỗ Isabel đang đứng, cách mặt nước đến hàng trăm feet, ngay bờ vực. Nước thấm vào mấy cây thánh giá, đẫm ướt váy áo cô.
“Izzy! Isabel!” Giọng Tom lạc đi trong gió.
Con chim hải âu lượn trên đầu, bay vòng vòng rồi lao mạnh như tia chớp xuống con sóng gập ghềnh, ngoặm lấy một con cá trích. Nhưng có vẻ như con cá được trận bão phù trợ, nó lắc mình thoát khỏi mỏ chim, rơi ngược xuống nước.
Tom chạy ào mấy trăm thước đến chỗ Isabel. Con hải âu tiếp tục lượn trong bão, dường như biết rằng sóng nước hỗn độn sẽ khiến nó dễ tìm ra mấy con cá không kịp nấp trong những dải san hô sâu nhất.
“Ta không còn thời gian,” Tom nói, kéo Isabel lại gần. “Lucy sẽ thức dậy.” Cảnh sát đã tra hỏi anh nguyên một tiếng đồng hồ. Hai viên cảnh sát giờ đây đang đi xuống chỗ mấy ngôi mộ cũ ở phía bên kia đảo, mang theo xẻng đào.
Isabel nhìn Tom như người xa lạ. “Cảnh sát nói rằng có người gởi cái lục lạc cho Hannah Roennfeldt…”
Anh nhìn lại cô, nhưng không nói gì.
“… rồi hai năm trước đã có người viết thư cho cô ta, báo rằng đứa nhỏ còn sống.” Cô chật vật với điều muốn nói một lúc lâu. “Tom!” cô chỉ thốt lên được có vậy, đôi mắt cô đầy sợ hãi. “Ôi, Tom!” Isabel lại thốt lên, đứng lùi lại.
“Tôi phải làm gì đó, Izzy à. Chúa mới biết, tôi đã cố giải thích. Tôi chỉ muốn cô ấy biết rằng con bé được an toàn.”
Isabel nhìn anh, cứ như thể cố nghe cho ra những lời nói từ xa vọng lại, mặc dù anh đứng sát bên cô, tóc cô bay vào mặt anh. “Tôi đã tin anh, Tom à.” Cô nắm tay vò tóc, nhìn trừng trừng vào Tom, chật vật mở lời. “Anh nghĩ anh đang làm cái quái gì vậy? Anh làm gì với Lucy vậy?”
Cô thấy sự đầu hàng trên đôi vai anh, nhưng đôi mắt anh như vừa trút được gánh nặng. Cô thả tay xuống, tóc bay ngang mặt như tấm mạng tang tóc, thổn thức. “Hai năm! Anh nói dối tôi đến hai năm rồi sao?”
“Mình cũng thấy cô ấy tội nghiệp ra sao rồi! Mình thấy ta đã làm việc quấy như thế nào rồi.”
“Cô ấy với anh còn quan trọng hơn cả gia đình chúng ta hay sao?”
“Không phải là gia đình của chúng ta, Izz à.”
“Ta chỉ có mỗi gia đình đó thôi! Rồi Lucy sẽ ra sao đây?”
Anh nắm chặt cánh tay cô. “Mình nghe tôi đây, cứ làm theo lời tôi, mình sẽ không sao cả. Tôi đã nói với họ là do tôi hết, mình hiểu chưa? Tôi nói là tôi muốn giữ Lucy lại, mình không muốn nhưng tôi ép mình. Mình cứ làm theo vậy, sẽ không ai dám làm gì mình cả… Họ sẽ đưa chúng ta trở lại Partageuse. Izz, tôi hứa sẽ bảo vệ mình.” Anh kéo cô lại gần, đặt môi lên đầu cô. “Tôi có sao cũng không quan trọng. Tôi biết họ sẽ bỏ tù tôi, nhưng khi thụ án rồi, chúng ta vẫn có thể…”
Đột nhiên Isabel nhảy xổ vào anh, hai nắm tay cô đấm thình thịch lên ngực anh. “Đừng nói chuyện ‘chúng ta’ gì nữa Tom à! Nhất là sau những chuyện anh đã làm!” Anh không cản gì cô cả. “Anh đã lựa chọn rồi đó! Anh không nghĩ đến Lucy, hay đến tôi cả. Vậy nên anh đừng…” cô tìm kiếm lời lẽ, “đừng trông tôi thiết gì đến anh nữa.”
“Izz… thôi nào, mình không biết mình đang nói gì đâu!”
“Không sao?” Cô rít lên. “Tôi biết là họ sẽ mang con nhỏ đi. Anh làm gì mà hiểu được hả? Những việc anh làm… thực không thể tha thứ!”
“Lạy Chúa, Izz...”
“Thà anh giết tôi cho rồi, Tom à! Giết tôi còn hơn là giết đứa nhỏ. Anh là đồ quái vật! Đồ lạnh lùng ích kỷ!”
Tom đứng đó, nuốt lấy từng lời còn đau đớn hơn những cú đòn. Anh nhìn gương mặt cô, tìm kiếm thứ tình yêu mà cô từng thề thốt bao lần với anh, nhưng chỉ có sự giận dữ băng giá, như đại dương đang ở quanh anh.
Con hải âu lại lao xuống, lần này đắc thắng vút lên với con cá ngoặm trong mỏ, thật chặt đến nỗi chỉ có mỗi miệng cá nhấp yếu ớt cho thấy nó còn ngoi ngóp.
***
“Trời động quá chưa có quay về được,” Ralph nói với hạ sĩ Knuckey. Hạ sĩ Spragg, viên cảnh sát cấp cao từ Albany nãy giờ cứ ưa làm lớn chuyện. “Nếu thích thì để ông ấy tự mà bơi về,” người hoa tiêu chỉ nói vậy.
“Tên Sherbourne phải ở cách ly ngoài thuyền, có người canh giữ. Không thể để hắn âm mưu bịa thêm chuyện gì với vợ hắn được, tuyệt đối không.” Spragg khăng khăng.
Hạ sĩ Knuckey nhìn Ralph, nhướng mày, khuôn miệng cho thấy anh ta không hề đồng ý với đồng nghiệp.
Khi trời vừa hửng sáng, Neville Whittnish bước vội xuống thuyền.
“Ông muốn gì?” Cảnh sát Strugnell hỏi, ra vẻ đang làm nhiệm vụ canh giữ rất nghiêm túc.
“Tôi cần phải bàn giao công việc với anh Sherbourne. Anh ấy phải đi theo tôi lên châm đèn.” Whittnish ít nói, khi nói lại kiệm lời nhưng lời nói không bao giờ mâu thuẫn.
Strugnell rõ là bị hớ, nhưng vẫn cố ra vẻ tiếp, “Được rồi, vậy để tôi đi theo.”
“Không phận sự không được vào tháp đèn, quy định của Ngành. Tôi sẽ trả anh ấy lại sau khi bàn giao xong.”
Tom và người gác đèn im lặng đi ra tháp. Khi đến cửa, Tom lặng lẽ hỏi, “Có chuyện gì vậy? Bác đâu cần cháu thắp đèn.”
Ông lão lên tiếng, chất phác, “Tôi chưa bao giờ thấy đèn nào được giữ kỹ như vậy. Anh làm gì không phải là chuyện của tôi. Nhưng hẳn anh muốn tạm biệt ngọn đèn. Tôi sẽ đợi dưới này,” rồi ông ta quay lưng, nhìn ra phía cửa sổ tròn như ước lượng cơn bão.
Vậy là, lần cuối cùng, Tom leo lên hàng trăm bậc thang. Lần cuối cùng, anh thực hiện cái phép màu tạo ra ánh sáng từ lưu huỳnh và dầu. Lần cuối cùng, anh gởi thông điệp cho tàu thuyền hàng dặm quanh đó: cẩn trọng.
***
Đến sáng hôm sau cơn bão đã tan bớt, bầu trời lại xanh hiền hòa. Các bãi biển đầy những lớp bọt vàng rong rêu mà sóng đã đánh vào. Khi con thuyền rời Janus Rock, một đàn cá heo đùa trước mũi thuyền một lúc, những chiếc bóng xám trơn nhô lên hạ xuống như cột nước, lúc xa lúc gần. Isabel ngồi một bên trong khoang, hai mắt sưng húp và đỏ ngầu. Tom ngồi phía bên kia. Đám cảnh sát nói chuyện phân công trực, rồi chuyện làm sao để đánh giày cho thật bóng. Ở sau thuyền, tấm bạt đã mục thỉnh thoảng lại thả ra mùi kinh khủng của thứ gói ghém trong đó.
Lucy ngồi trong lòng Isabel, lại hỏi lần nữa, “Mình đi đâu vậy má?”
“Đi về Partageuse, cưng à.”
“Tại sao?”
Isabel nhìn Tom. “Má không biết cưng à. Nhưng phải đi.” Cô ôm con bé thật chặt.
Sau đó Lucy trườn xuống khỏi đầu gối Isabel rồi quay sang Tom. Anh ôm nó mà không nói gì, cố níu lại mọi thứ nhớ đến con bé: mùi tóc nó, làn da mềm mại của nó, mấy ngón tay bé xíu, hơi thở của nó khi nó áp sát mặt vào anh.
Hòn đảo đã trôi về xa, nhạt nhòa, nhỏ dần đi, cho tới khi chỉ còn là một vệt sáng trong ký ức, thứ ký ức với mỗi hành khách trên tàu lại mỗi khác. Tom nhìn Isabel, chờ cô nhìn lại anh, chờ cô mỉm cười như xưa, nụ cười vẫn làm anh nghĩ đến Hải đăng Janus – một điểm tựa cố định, đáng tin cậy mà anh không thể nào lạc mất. Nhưng ngọn lửa đã bị dập tắt. Gương mặt cô bỗng hóa hoang vu lạnh lùng.
Anh đếm thời gian trôi đi cho đến khi vào bờ qua những lần đèn quay.