Số lần đọc/download: 202 / 19
Cập nhật: 2020-01-25 21:22:13 +0700
Chương 23 - Đảo Mặt Nạ
C
on thuyền gondola lướt đi trên phá, dần bỏ lại Venice sau lưng. Dưới ánh hoàng hôn, mặt nước rực màu và bốc lên những luồng hơi nước.
Bầy cò tập trung ở những đụn cát nông, còn bọn lươn lập lờ trườn dưới mặt nước xám.
“Đèn dầu.” Người Chèo Thuyền Đen ra lệnh khi trời tối dần và nước trở nên sẫm màu hơn.
Không còn mặt trời sưởi ấm, một màn sương hơi nước mỏng manh bắt đầu dâng lên trên con phá. Người Chèo Thuyền Đen đầy tự tin đưa con thuyền lướt đi.
Làn sương nhanh chóng bốc lên quanh họ như một bức tường mỏng. Bị vây quanh bởi một màu xám, họ tiếp tục di chuyển trên dòng nước và đặt trọn niềm tin vào khả năng định hướng của người chèo thuyền.
Cuối cùng, sau một khoảng thời gian tưởng như vô tận với bọn trẻ, mũi thuyền cũng chạm vào bờ cát và dừng lại.
“San Giorgio dell’Alga.” Lúc ấy Người Chèo Thuyền Đen nói, chiếc khuyên tai vàng của ông ta lóe lên dưới ánh đèn dầu. “Đảo Mặt Nạ.”
Bọn trẻ bước xuống trước rồi giúp kéo con thuyền lên cạn. Họ đang ở trên một bãi biển phủ đầy tảo rồi dần nhường chỗ cho một cánh rừng. Cách đó không xa có một con đường mòn nhỏ ngoằn ngoèo dẫn vào sâu trong lòng hòn đảo.
“Hòn đảo chỉ có lác đác vài ngôi nhà và nằm cả ở bờ đông...” Người Chèo Thuyền Đen giải thích. “Ở phía ngược lại có một tu viện, Pietro l’Inglese sống cùng các vị linh mục trong ngôi nhà gỗ ngay sát tường bao. Các vị sẽ không mất quá mười phút để tới đó.”
Rick gật đầu.
“Chúng ta đi chứ?”
Ông Alberto và bà Rossella nhìn nhau.
“Nếu các cháu không phiền, chúng ta sẽ ở đây để chờ các cháu.” Bà Caller khẽ nói và nhìn quanh quất đầy ngờ vực.
“Không sao ạ.” Rick nói, thực ra cậu bé cũng hơi sợ vẻ mù mịt của hòn đảo. “Bọn cháu chỉ làm một loáng là xong.”
Bà Rossella nắm chặt tay Julia như để dặn cô bé hãy cẩn thận. Cô bé bế Diogo theo mình và mất hút vào con đường mòn cùng hai cậu bạn.
Một lúc sau có tiếng cành cây gãy.
“Anh Alberto? Cái gì vậy?” Bà Rossella hỏi và đưa ánh nhìn dò xét vào màn sương xung quanh.
Khu rừng đầy vẻ ma quái quanh con đường mòn. Thân cây và cành cây màu đen đan vào nhau thành những hình thù méo mó trên nền sương xám. Lũ chim vỗ cánh bay đi, gửi vào màn đêm những tiếng kêu nghèn nghẹt. Khi tới chỗ con đường chia nhánh, bọn trẻ rẽ sang hướng tới tu viện.
“Chỗ này khiếp thật...” Rick nói.
Một con cú rúc lên từ một cành cây ngay gần Julia khiến cô bé nhảy dựng lên vì sợ. Julia hoảng hốt nắm lấy tay Rick. Chẳng nói lời nào, hai đứa nắm tay cho tới khi chúng tới bức tường bao.
Phía bên kia bức tường, ba đứa trẻ thấy tòa nhà thấp và vuông vức của tu viện. Chúng men theo mạn trái tu viện, nơi bức tường dốc dần lên phía trên.
Từ trên cao chúng có thể quan sát rõ hơn toàn bộ tu viện, đó là một công trình lớn nổi lên trong sương mờ như thể chiếc mai của một chú rùa khổng lồ. Theo hướng chúng đang đi có một nhà thờ nhỏ với tháp chuông thấp lè tè. Từ những ô cửa sổ nhà ăn hắt ra ánh nến và văng vẳng một khúc ca du dương từ dàn đồng ca những giọng trầm đang hát tiếng La-tinh.
Chăm chú quan sát qua màn sương, Jason, Julia và Rick đã trông thấy nơi ắt hẳn là chỗ ở của ông Peter. Đó là một ngôi nhà gỗ được dựng giữa tường bao và mặt sau của nhà thờ. Những ô cửa sổ đang sáng đèn, nghĩa là bên trong nhà có người.
Tiến lại gần hơn nữa, bọn trẻ chẳng khó khăn gì để nhận ra giọng nói the thé của Obliva Newton.
“Mình nói rồi mà...” Julia khẽ nói. “Cô ta đã đến trước.”
“Hãy leo qua chỗ này và cố nghe xem họ nói gì nào.” Jason đề nghị.
Được màn sương che chắn, Bá Tước Tro quan sát xung quanh một cách thận trọng. Rồi rốt cuộc ông ta cũng tháo chiếc mặt nạ ra. Ông ta hít thở thật sâu bầu không khí trong lành, đặt đèn dầu xuống đất và vươn vai. Sau đó ông ta bắt đầu huýt sáo và tự hỏi mình còn phải chờ bao lâu nữa.
Dẫu vậy điều ấy không làm ông ta lo lắng: trong hai ngày mà ông ta đã kiếm được nhiều tiền hơn cả một năm. Và chỉ phải tìm một người thợ đồng hồ. Khi họ tới chỗ những ngôi nhà trên đảo San Giorgio, ông ta chẳng mất nhiều thời gian để tìm đường đến tu viện.
Bá Tước Tro đã cân nhắc rất nghiêm túc ý định để người phụ nữ dễ kích động kia lại trên đảo và một mình trở về Venice, bởi rốt cuộc nhiệm vụ của ông ta là tìm ra Pietro l’Inglese chứ không phải làm hướng dẫn viên du lịch cho cô ta.
Tuy nhiên, vì hy vọng có thể dễ dàng kiếm thêm một vài đồng nữa nên ông ta đã quyết định ở lại chờ.
Để giết thời gian, ông ta dạo một vòng quanh đảo bằng cách đi bộ thư thả dọc theo con đường mòn duy nhất chia hòn đảo thành hai phần tách biệt. Tuy nhiên, trong lúc đi dạo, Bá Tước Tro nghe thấy những giọng nói đang tiến lại gần. Rất nhanh, ông ta đeo lại mặt nạ và lẩn vào trong rừng.
Một lát sau, ông ta thấy ba đứa trẻ đi ngang qua, một trong số chúng mặc bộ đồ màu đen lạ lùng phủ đầy lông chim.
Tò mò, ông ta xuống xem bọn trẻ đi ra từ đâu. Trên bãi, ông ta thấy ánh sáng từ một chiếc đèn dầu trên thuyền gondola và tiến lại gần để xem liệu có ai ở đó không.
Qua làn sương, ông ta nhận ra bóng ba người. Trong lúc tiến lại gần hơn nữa, ông ta đã giẫm phải một cành cây mà không để ý.
“Anh Alberto? Cái gì thế?” Khi bà Caller cất tiếng hỏi, Bá Tước Tro nhận ra ngay lập tức.
“Không có gì đâu, em yêu. Chỉ là con vật nào đó thôi...”
Bá Tước Tro dỏng tai lắng nghe.
“Hy vọng bọn trẻ đi nhanh rồi về.” Một lát sau bà Rossella nói.
“Ngôi nhà của người thợ đồng hồ không xa lắm.” Người chèo thuyền đưa họ tới đó lên tiếng trấn an.
Người thợ đồng hồ ư? Cả họ cũng tìm ông ta sao? Người thợ thủ công kỳ quái đó có gì mà quan trọng đến thế nhỉ?
Bá Tước Tro cười khẩy: có lẽ đã tới lúc để mắt tới ông Pietro l’Inglese bí ẩn kia. Và có khi đến cuối ngày ông ta sẽ tìm được lý do hoàn hảo để tống cặp vợ chồng Caller vào tù.
(...)
Khi điện thoại ở Biệt thự Argo đổ chuông, ông Nestor đang tìm cách sắp xếp lại những món đồ mà Don Diego và Dieguita đã cố lấy cắp. Ông phát hiện ra hai chiếc đèn đã vỡ tan tành và một bức tượng nhỏ bị mất đầu.
“Có lẽ cần chút keo...” Ông nghĩ.
Điện thoại tiếp tục đổ chuông.
“Vâng?” Người làm vườn thở hổn hển bước qua những miếng giẻ lau và chộp lấy ống nghe. Ông mất vài giây để hiểu ra mình đang nói chuyện với ai.
“Bà Biggles, làm ơn, hãy hít thở đi đã! Tôi chẳng hiểu gì cả!”
Ông đặt những thứ cầm trên tay còn lại xuống đất và ngồi xuống.
“Vâng, tôi đây. Tôi là Nestor. Quán Gió thì có liên quan gì...? Dĩ nhiên tôi biết nó là khách sạn! Sao? Ông chủ cũ đang ởQuán Gió ư? Ông Ulysses Moore ư? Nhưng... nhưng... không thể nào. Ai đã trông thấy ông ấy? Một bức ảnh sao? Là cha Phoenix đã thấy ông ấy sao? Bà chắc chứ?”
Bà Biggles cao giọng và cuối cùng ông Nestor đầu hàng:
“Được rồi, tôi sẽ tới xem sao. Chắc chắn. Tôi tới ngay đây. Được, cứ làm như các vị muốn... Hẹn gặp mọi người ở Quán Gió... Được, tất nhiên. Hẹn sớm gặp lại, bà Cleopatra.”
Khi gác máy, đầu ông quay cuồng hàng nghìn suy nghĩ và ý nghĩ sắp xếp lại Biệt thự Argo đột nhiên trở nên kém quan trọng nhất trong tất cả. Ông Ulysses Moore đang ở trong thành phố ư? Nhưng... sao có thể như vậy?
Ông đặt bừa những món đồ xuống và lượm những miếng giẻ ở sàn lên. Sau đó ông đi một vòng thật nhanh quanh ngôi nhà để đóng cửa ra vào và cửa sổ rồi ra ngoài.
Phương án xuống làng bằng xe đạp bị loại, trời đã tối, hơn nữa hôm nay ông đã làm quá nhiều việc vất vả rồi.
“Cố lên, người đẹp! Chúng ta đi xem chuyện gì đang xảy ra nào.” Ông bắt gặp ánh mắt chăm chú của cô ngựa Ariadne.