Good friends, good books and a sleepy conscience: this is the ideal life.

Mark Twain

 
 
 
 
 
Tác giả: Knut Hamsun
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: Markens Grøde
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1219 / 19
Cập nhật: 2017-04-18 13:32:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương II
ào hôm 3 tháng Chín không ai trông thấy Barbro đâu cả. Không phải cô hoàn toàn mất tích, nhưng cô không có mặt ở nhà.
Axel đang cố hết khả năng trong công việc của một tay thợ mộc; anh khá vất vả khi cố lắp cửa sổ kính và cửa ra vào cho ngôi nhà mới, và việc này chiếm trọn thời gian của anh. Nhưng trời quá trưa đã lâu mà vẫn chưa có lời nào gọi anh vào ăn. Anh bước vào lều. Không có ai ở đó. Anh tự lấy cho mình ít thức ăn và nhìn quanh trong lúc đang ăn. Tất cả quần áo của Barbro đang treo ở đó; hẳn là cô đi đâu đó bên ngoài, chỉ có thế. Anh trở lại với công việc cất nhà và làm một lúc, rồi anh lại nhìn vào lều. Không, không có ai ở đó. Hẳn cô phải nằm nghỉ đâu đó. Anh đi tìm cô.
“Barbro!” Anh gọi. Không có tiếng trả lời. Anh tìm quanh các ngôi nhà, đi thẳng tới một số bụi cây ở rìa mảnh đất, tìm kiếm quanh quẩn hồi lâu, có lẽ khoảng một giờ đồng hồ, cất tiếng gọi to. Không có. Anh bắt gặp cô ở một chặng xa, đang nằm trên mặt đất, bị mấy bụi cây che khuất; dòng suối chảy cạnh chân cô. Barbro đi chân không và để đầu trần, cả người ướt sũng.
“Em nằm ở đây sao?” Anh nói. “Sao em không trả lời?”
“Tôi không thể,” cô đáp, và giọng cô khàn đến nỗi anh hầu như không nghe được.
“Sao, em đã ở dưới nước?”
“Phải, bị trượt xuống, ôi chao.”
“Giờ em có đau không?”
“Không, giờ thì qua rồi.”
“Qua thật sao?”
“Vâng, giúp tôi về nhà.”
“Nó đâu…?”
“Cái gì?”
“Có phải nó không, đứa bé?”
“Không, nó chết rồi.”
“Nó chết rồi sao?”
“Vâng.”
Axel có đầu óc chậm chạp và hành động chậm chạp. Anh đứng lặng ở đó. “Vậy nó đâu rồi?” Anh hỏi.
“Anh không việc gì phải biết,” cô nói. “Giúp tôi quay về nhà. Nó chết rồi. Tôi có thể đi nếu anh đỡ hộ cánh tay tôi một chút.”
Axel cõng cô về nhà và đặt cô vào một chiếc ghế, nước vẫn còn chảy nhỏ giọt khỏi người cô. “Nó chết rồi sao?”
“Tôi đã bảo với anh rồi, là thế đó,” cô đáp.
“Vậy em đã làm gì với nó?”
“Anh muốn chĩa mũi vào chuyện đó hả? Anh có ăn gì trong lúc tôi vắng nhà chưa?
“Nhưng em xuống nước để làm gì?”
“Xuống nước? Tôi tìm vài nhánh bách xù.”
“Vài nhánh bách xù? Để làm gì?”
“Để chà mấy cái xô.”
“Không hề có chuyện gì kiểu đó,” anh nói.
“Anh lo làm công việc của mình đi,” cô nói khàn khàn, và đầy vẻ khó chịu. “Tôi làm gì dưới nước à? Tôi muốn kiếm vài nhánh cây để làm một cái chổi. Anh đã ăn gì chưa, anh có nghe không?”
“Ăn à?” Anh nói. “Giờ em thấy thế nào?”
“Khá ổn.”
“Tôi cho là tốt hơn tôi nên mời bác sĩ lên.”
“Anh cứ thử coi!” Cô nói, đứng lên và tìm quần áo khô để thay. “Như thể anh không còn gì tốt hơn để làm với tiền của anh!”
Axel trở lại với công việc của mình, anh chỉ làm được chút ít, nhưng cố tình gây ồn ào với những tiếng gõ đập, để cô có thể nghe thấy. Cuối cùng anh gắn xong cửa sổ và nhét rêu xung quanh để giữ cái khung lại.
Tối hôm đó dường như Barbro không màng tới chuyện ăn uống, mà đi lại quanh quẩn, lu bu với chuyện này chuyện khác: tới chuồng bò vào giờ vắt sữa, bước qua ngưỡng cửa với một ý nghĩ cẩn trọng hơn. Cô vào nhà kho để ngủ như thường lệ. Axel vào đó hai lần để trông chừng cô, và cô ngủ mê mệt. Cô đã có một đêm ngon giấc.
Sáng hôm sau, cô gần như trở lại bình thường, chỉ khàn giọng đến mức hầu như không thể nói được gì, với một chiếc tất dài quấn quanh cổ. Họ không thể nói chuyện với nhau. Nhiều ngày trôi qua, và vấn đề không còn mới nữa; có nhiều chuyện mùa vụ cần làm, và nó bị gác sang một bên. Đúng ra, ngôi nhà mới cần được bỏ không một thời gian để gỗ gắn vào nhau chặt hơn, nhưng giờ thì không có thời gian cho chuyện đó; họ phải đưa nó vào sử dụng ngay, và cái chuồng mới đã sẵn sàng. Khi nhà đã làm xong, họ dọn sang đó. Họ nhổ khoai và sau đó lại tới mùa thu hoạch lúa. Cuộc sống lại trở về như trước.
Nhưng có đủ những dấu hiệu, lớn hoặc nhỏ, rằng giờ mọi thứ ở Maaneland đã khác đi. Lúc này Barbro cảm thấy cô không khác gì những cô hầu gái; không còn gắn bó gì với chốn này. Axel có thể thấy rằng vòng tay ôm giữ cô của anh đã nới lỏng ra bởi cái chết của đứa bé. Anh đã tự nhủ với mình một cách tự tin: hãy chờ cho tới khi đứa bé ra đời! Nhưng đứa bé đã đến và đã đi. Cuối cùng thậm chí Barbro còn tháo hai chiếc nhẫn khỏi ngón tay, và không đeo lại chiếc nào nữa.
“Điều đó có nghĩa là gì?” Anh hỏi.
“Có nghĩa là gì?” Cô nói, lắc đầu.
Nhưng nó hầu như không thể có ý nghĩa gì khác hơn là sự lật lọng và ruồng bỏ của cô.
Anh đã tìm được cái thi hài bé xíu bên dòng suối. Phải nói là anh không hề tìm kiếm nó; anh biết khá rõ nó có thể ở nơi nào, nhưng anh đã bỏ mặc chuyện này. Thế nhưng ý Trời đã định khiến anh không thể hoàn toàn quên được nó; chim chóc bắt đầu bay lởn vởn bên trên chỗ đó, những con gà gô trắng kêu hét in tai và những con quạ, và rồi, sau đó, một đôi chim ưng ở một độ cao chóng mặt bên trên. Thoạt tiên, chỉ có một con chim duy nhất nhìn thấy có một vật gì được chôn ở đó, và do không giữ được bí mật như loài người, nó đã loan truyền điều đó. Sau đó Axel vùng ra khỏi sự thờ ơ của mình và chờ đợi một thời cơ để lẻn ra chỗ đó. Anh tìm thấy cái xác bên dưới một đống rêu và nhánh cây, được lèn chặt bằng những phiến đá dẹp, quấn trong một mảnh vải, một mẩu giẻ rách. Với cảm giác tò mò và kinh sợ anh kéo mẩu vải ra một tí: đôi mắt nhắm nghiền, tóc đen, một bé trai, và đôi chân gập lại. Đó là tất cả những gì anh thấy. Miếng vải đã từng bị ướt, nhưng giờ đã khô; toàn bộ cái xác trông giống như một nắm quần áo giặt đã vắt nửa phần.
Anh không thể để mặc nó ở đó trong ánh sáng ban ngày, và trong tim anh, có lẽ, anh sợ sẽ có việc không lành cho bản thân anh hoặc cho trang trại. Anh chạy về nhà để lấy một cái thuổng và đào cái huyệt sâu hơn; nhưng, vì quá gần con suối, nước tràn vào đó, và anh phải dời cái huyệt ra xa khỏi bờ suối. Khi đang đào, anh sợ rằng Barbro sẽ tới và phát hiện ra cái xác đã biến mất; rồi anh trở nên thách thức và hoàn toàn cay đắng. Cứ mặc cho cô ta tới, và anh sẽ bắt cô ta quấn lại cái xác gọn gàng hơn, tề chỉnh hơn, dù nó có chết non hay không! Anh thấy rõ những gì anh đã đánh mất do cái chết của đứa bé; bây giờ làm sao anh đối mặt với viễn cảnh lại bị bỏ mặc không người giúp đỡ trên mảnh đất này. Ngoài ra, với số gia súc nhiều gấp ba lần số anh có lúc đầu. Cứ mặc cho cô ta đến, anh không quan tâm! Nhưng có lẽ Barbro cũng đã mơ hồ biết được anh đang làm gì; dù sao, cô không đến, và Axel phải tự mình quấn lại cái thi hài với mọi khả năng tốt nhất rồi chuyển nó sang cái huyệt mới. Anh đặt lại mọi thứ ở phía trên, giống như trước, rồi che đậy tất cả lại. Khi anh xong việc, người ta không nhìn thấy gì khác ngoài một nấm đất xanh nho nhỏ giữa mấy bụi cây.
Anh bắt gặp Barbro ở ngoài ngôi nhà khi quay trở về.
“Anh đã đi đâu?” Cô hỏi.
Nỗi cay đắng hẳn đã rời khỏi anh, vì anh chỉ đáp: “Không đi đâu cả. Còn em đã đi đâu?”
Ồ, nhưng vẻ mặt của anh hẳn đã khiến cô cảnh giác; cô không nói gì nữa mà chỉ bước vào nhà.
Anh đi theo cô.
“Nghe này,” anh nói và hỏi thẳng, “ý của em là gì khi tháo mấy chiếc nhẫn ra?”
Có lẽ Barbro thấy rằng tốt nhất nên nhượng bộ đôi chút; cô cười phá lên và đáp: “Chà, hôm nay anh có vẻ nghiêm trọng quá. Tôi không nhịn cười được! Nhưng nếu anh muốn tôi đeo mấy chiếc nhẫn vào và tháo chúng ra vào những ngày trong tuần thì tôi sẽ làm như thế!” Và cô lấy hai chiếc nhẫn ra, đeo chúng vào tay.
Nhưng khi nhìn thấy anh có vẻ ngốc nghếch và hài lòng với điều đó, cô trở nên táo bạo hơn. “Tôi đã làm những gì khác nữa, tôi muốn biết?”
“Tôi không than phiền,” anh đáp. “Và em vẫn chỉ là em như trước, suốt thời gian trước đó, khi em tới đây lần đầu. Đó là những gì tôi muốn nói.”
Việc luôn gắn bó và luôn đồng ý với nhau thật chẳng dễ chút nào.
Axel nói tiếp: “Khi tôi mua lại mảnh đất của cha em, tôi nghĩ rằng có lẽ em thích ở đó hơn, vì thế chúng ta có thể dời sang đó. Em nghĩ sao?”
Chà, ở đây anh lại nhượng bộ rồi; anh sợ mất cô và bị bỏ lại không có ai giúp đỡ, không có ai chăm sóc trang trại và bầy gia súc. Cô biết! “Phải, lúc trước anh có nói thế,” cô lạnh lùng đáp.
“Phải, tôi đã nói, nhưng tôi chưa nhận được câu trả lời.”
“Trả lời? Ồ, tôi muốn phát ốm khi nghe tới nó.”
Axel có thể cho rằng anh đã tỏ ra khoan dung; anh đã để cho Brede và gia đình ông ta ở lại trại Breidablik, và vì chuyện đó anh đã mua hết những thứ thu hoạch được cùng với cái trại, nhưng chỉ chở về nhà một ít cỏ khô và đã để lại khoai cho họ. Thật là vô lý khi Barbro tỏ ra ngang ngược như lúc này; nhưng cô chẳng quan tâm gì tới chuyện đó, và hỏi một cách phẫn nộ: “Vậy là anh muốn chúng ta dời xuống Breidablik bây giờ, và biến cả một gia đình thành những kẻ vô gia cư?”
Anh có nghe lầm không? Anh ngồi lặng một lúc, nhìn đăm đăm và thở dốc, hắng giọng như thể để trả lời một cách trọn vẹn, nhưng việc đó không xảy ra; anh chỉ hỏi: “Không phải họ sẽ chuyển xuống làng hay sao?”
“Đừng hỏi tôi. Hay có lẽ anh đã mua một chỗ cho họ ở đó?”
Axel vẫn miễn cưỡng tranh cãi với cô, nhưng anh không thể kềm được ý muốn để cho cô thấy anh ngạc nhiên về cô, chỉ một chút thôi. “Em đang ngày càng trở nên gắt gỏng và khó chịu,” anh nói, “dù em không có ý gây tổn hại gì, có lẽ.”
“Tôi có ý định trong từng lời tôi nói,” cô đáp. “Và tại sao anh không thể cho người nhà tôi lên đây ở, hãy trả lời tôi đi! Khi đó tôi sẽ có mẹ đỡ đần chút ít. Nhưng có lẽ anh nghĩ tôi ít việc quá nên chả cần đến ai trợ giúp?”
Trong câu này có chút ý nghĩa, dĩ nhiên, nhưng cũng hoàn toàn vô lý. Nếu Brede tới đây, họ sẽ phải sống trong túp lều, và Axel sẽ không có chỗ dành cho lũ gia súc của mình. Lại tệ hại như trước. Người đàn bà này đang nhắm tới điều gì? Chả lẽ nàng chưa bao giờ có ý thức hay trí khôn trong đầu?
“Nghe này,” anh nói, “tốt hơn em nên có một người hầu gái giúp việc.”
“Lúc này, với mùa đông sắp tới và có ít việc hơn bao giờ hết? Không, lẽ ra anh nên nghĩ tới chuyện đó khi tôi cần tới nó.”
Ở đây, theo cách nào đó cô lại nói đúng; khi cô đang mang thai nặng nề và bị ốm nghén, đó là lúc nói tới chuyện giúp đỡ. Nhưng lúc ấy Barbro đã tự mình làm hết mọi việc như thể chuyện chẳng có gì quan trọng; cô vẫn nhanh nhẹn và thông minh như thường lệ, làm tất cả mọi việc phải làm, và chưa hề nói nào về việc cần người giúp.
“Ờ, dù sao thì tôi đã không nghĩ ra chuyện đó” anh nói một cách vô vọng.
Im lặng.
Barbro hỏi: “Chuyện anh giành công việc đường dây của cha là sao vậy?”
“Sao, ai đã nói về chuyện đó?”
“Ờ, họ bảo sẽ là thế.”
“Sao,” Axel nói, “nó có thể xảy ra; tôi sẽ không từ chối.”
“Thế à!”
“Nhưng vì sao em hỏi?”
“Không có gì,” Barbro nói; “chỉ là vì anh đã tống khứ cha tôi khỏi nhà cửa, và bây giờ anh lại giành lấy miếng bánh từ miệng ông ấy.”
Im lặng.
Ồ, nhưng sự kiên nhẫn của Axel cũng kết thúc tại đó. “Tôi bảo cô điều này,” anh hét lên. “Cô không xứng với tất cả những gì tôi đã làm cho cô và gia đình cô!”
“Vậy ư!”
“Không!” Anh nói, đấm mạnh nắm tay lên bàn. Rồi đứng lên.
“Anh không dọa tôi được đâu, vì vậy đừng có mơ,” Barbro thút thít, và đi tới cạnh bức tường.
“Dọa cô,” anh nói, và khịt mũi một cách khinh miệt. “Tôi sẽ nói ngay một cách nghiêm túc. Chuyện gì xảy ra với đứa bé? Cô đã dìm chết nó?”
“Dìm chết nó ư?”
“Phải. Nó đã ở dưới nước.”
“Vậy anh đã nhìn thấy nó hả? Anh đã…”
“…đánh hơi được nó,” cô định nói thế, nhưng không dám; với dáng vẻ của Axel, lúc này không thể giỡn mặt với anh được. “Anh đã tới đó và tìm ra nó?”
“Tôi thấy nó đã từng ở dưới nước.”
“Phải,” cô nói, “và lẽ ra nó có thể ổn. Nó sinh ra dưới nước; tôi trượt xuống và không đứng lên được.”
“Cô bị trượt ngã sao?”
“Vâng, và đứa bé chui ra trước khi tôi có thể lên bờ.”
“Hừm. Nhưng cô đã mang theo mớ giẻ quấn trước khi rời khỏi nhà, cô bị té trong trường hợp nào?”
“Giẻ quấn?” Cô lặp lại.
“Một miếng giẻ trắng, một trong mấy cái áo của tôi mà cô đã cắt làm đôi.”
“Phải,” Barbro nói, “đó là miếng giẻ tôi mang theo để bó mấy nhánh bách xù.”
“Nhánh bách xù?”
“Vâng. Không phải tôi đã nói với anh tôi sẽ làm gì sao?”
“Phải, cô có nói. Hoặc là tìm mấy nhánh cây để làm một cây chổi.”
“Vâng, sao cũng được…”
Lần này là một cuộc cãi cọ công khai giữa họ. Nhưng một lúc sau, ngay cả nó cũng tắt lịm và mọi chuyện lại ổn thỏa. Nghĩa là, không chính xác là ổn, không, nhưng có thể vượt qua. Barbro tỏ ra cẩn thận và ngoan ngoãn hơn; cô biết mình đang trong tình trạng nguy hiểm. Nhưng theo cách đó, cuộc sống ở Maaneland ngày càng trở nên gượng ép và không chịu đựng nổi. Không còn sự thẳng thắn, không còn niềm vui giữa họ, luôn luôn cảnh giác. Chuyện này không thể kéo dài, nhưng chừng nào nó còn tồn tại, Axel buộc phải tạm hài lòng. Anh đã nhận cô gái này đến trại, đã muốn cưới cô và đã có được cô, đã cột cuộc đời anh vào cô; không dễ thay đổi tất cả những điều đó. Barbro đã biết mọi thứ ở cái trại này: những cái nồi và chậu để ở đâu, khi nào thì mấy con bò và dê mang thai, thức ăn mùa đông sẽ thiếu hay thừa, cần bao nhiêu sữa để làm pho mát và bao nhiêu cho thức ăn. Một người lạ sẽ không biết gì về những chuyện này, và ngay cả khi họ biết, có lẽ khó mà kiếm được một người lạ.
Ồ, nhưng Axel đã nhiều lần nghĩ tới chuyện tống khứ Barbro đi và tìm một cô gái khác tới giúp; đôi khi cô thật là tai quái, và anh gần như sợ cô. Cả những khi may mắn hòa thuận với cô, nhiều lúc anh vẫn lùi trở lại vì sợ hãi sự ác độc kỳ lạ và những cung cách tàn bạo của cô; nhưng trông cô thật xinh đẹp, và nhiều khi cũng khá ngọt ngào, chôn sâu anh trong vòng tay của mình. Chuyện đã diễn ra như thế, nhưng giờ thì nó đã qua rồi. Không, cám ơn. Barbro sẽ không có tất cả mọi thứ công việc khốn khổ đó nữa. Nhưng thay đổi không phải là chuyện dễ… “Vậy chúng ta hãy cưới nhau ngay đi,” Axel thúc giục cô.
“Ngay lập tức ư? Không; tôi phải xuống thị trấn để khám răng trước đã, sắp rụng hết cả rồi.”
Vậy là lại không có gì để làm ngoài việc tiếp tục như trước. Và hiện giờ Barbro không thật sự lãnh tiền công mà còn hơn rất nhiều khoản tiền công đó; mỗi lần cô hỏi tới tiền và anh đã cho cô, cô cám ơn anh như cám ơn một món quà. Nhưng với tất cả những điều đó Axel vẫn không hiểu nổi số tiền đã đi đâu. Cô cần tiền để làm gì giữa chốn hoang vu này? Cô có cất riêng cho mình không? Nhưng dành dụm quanh năm như thế để làm gì chứ?
Có nhiều điều Axel không thể nghĩ ra. Không phải anh đã tặng cô một chiếc nhẫn hay sao? Phải, một chiếc nhẫn bằng vàng thật sự. Và họ cũng đã hòa thuận với nhau sau món quà cuối cùng đó; nhưng nó không thể kéo dài mãi, còn khuya mới thế; và anh không thể cứ tiếp tục mua nhẫn tặng cô hoài. Nói tóm một lời, cô có định rời bỏ anh không? Đàn bà là những tạo vật lạ lùng! Phải chăng đã có một người đàn ông khác với một nông trại tốt và nhiều gia súc đang chờ cô ở một nơi khác? Thỉnh thoảng Axel cũng có thể nện nắm đấm lên bàn vì nổi nóng với những mụ đàn bà và sự khôi hài ngu xuẩn của họ.
Một sinh vật lạ lùng, dường như Barbro thật sự không có gì trong đầu ngoài ý nghĩ về Bergen và cuộc sống thị dân. Tốt đẹp và ổn thỏa. Nhưng nếu thế, tại sao cô lại quay về, quỷ tha ma bắt cô đi! Bản thân một bức điện tín từ cha cô có thể chẳng bao giờ làm cho cô nhích đi nửa bước; hẳn cô phải có một lý do nào khác. Và hiện giờ cô ở đây, không ngừng bất mãn từ sáng cho tới tối, từ năm này sang năm khác. Tất cả những cái thùng gỗ đó, thay vì những cái xô sắt đàng hoàng; những cái nồi thay vì những cái chảo; công việc vắt sữa triền miên thay vì một cuộc tản bộ tới trại làm bơ sữa; những đôi ủng nặng nề, những cục xà bông vàng, một cái gối nhồi cỏ khô; không có những ban nhạc quân đội, không có mọi người. Sống như thế này…
Họ có nhiều tranh chấp nhỏ sau một cuộc cãi cọ lớn. Thế đấy, thỉnh thoảng lại có chuyện! “Nếu anh thông minh thì đừng nói thêm gì về chuyện đó,” Barbro nói. “Và đừng nói tới những gì anh đã làm với cha các thứ.”
“Vậy hả, tôi đã làm gì?”
“Ồ, anh biết rõ cả mà. Nhưng dù sao thì anh cũng sẽ không là Quan thanh tra.”
“Vậy sao!”
“Không, anh sẽ không làm được. Tôi chỉ tin chừng nào tôi nhìn thấy.”
“Nghĩa là tôi chưa tốt lắm, có lẽ thế?”
“Ồ, tốt, tốt lắm… Dù sao thì anh cũng không thể đọc hay viết và cũng chưa hề nhìn qua một tờ báo.”
“Về chuyện đó, tôi có thể đọc và viết mọi thứ tôi cần. Nhưng về phần em, với tất cả những lời lẽ lắp ba lắp bắp đó… tôi phát ốm vì nó.”
“Được, vậy thì bắt đầu là cái nhẫn đó,” cô nói và ném chiếc nhẫn bạc lên bàn.
“Vậy hả!” Anh nói, sau một lúc. “Còn chiếc kia thì sao?”
“Ồ, nếu anh muốn lấy lại hai chiếc nhẫn anh đã cho tôi, anh có thể có chúng,” cô nói, cố rút chiếc nhẫn vàng ra.
“Cô có thể tỏ ra khó ưa thế nào tùy ý. Nếu cô nghĩ tôi thèm để ý…” Và anh bước ra ngoài.
Và khá tự nhiên, chẳng bao lâu sau đó, Barbro đeo lại cả hai chiếc nhẫn.
Cũng có lúc cô chẳng đoái hoài gì tới những điều anh đã nói về cái chết của đứa bé. Cô chỉ khịt mũi và hất đầu. Cô cũng chưa hề thú nhận điều gì mà chỉ nói: “Được, giả sử tôi đã dìm chết nó? Anh sống giữa chốn hoang vu này thì biết gì về những thứ ở chỗ khác?” Có lần họ đang nói về chuyện này, hình như cô đang cố làm cho anh thấy rằng anh đã nghiêm trọng hóa quá đáng mọi chuyện; bản thân cô không nghĩ tới việc rủ bỏ một đứa bé nhiều hơn mức đáng phải quan tâm của vụ việc. Cô biết hai cô gái ở Bergen đã làm chuyện đó; nhưng một trong số họ bị phạt tù hai tháng vì cô ta ngu ngốc và đã không giết chết nó mà chỉ bỏ mặc cho nó bị cóng cho tới chết; và cô gái còn lại được tha bổng. “Không,” Barbro nói, “ngày nay luật pháp không quá tàn ác như trước đây. Ngoài ra, không phải lúc nào việc đó cũng bị phanh phui.” Có một cô gái ở một khách sạn tại Bergen đã giết hai đứa bé; cô ta đến từ Christiania, và đội một cái mũ. Một cái mũ có gắn lông chim. Họ đã phạt cô ta ba tháng tù vì đứa bé thứ hai, nhưng đứa bé đầu tiên không bao giờ bị phát giác, Barbro nói.
Axel lắng nghe tất cả mấy chuyện này và càng thấy sợ hãi cô hơn. Anh đã cố gắng để thấu hiểu và lý giải đôi chút những điều nằm trong bóng tối, nhưng nói cho cùng cô nói đúng; anh đã làm cho mọi chuyện trở nên quá nghiêm trọng theo cách của anh. Với toàn bộ sự đồi bại xấu xa của cô, Barbro không đáng được dành cho một suy nghĩ nghiêm chỉnh nào. Việc giết trẻ sơ sinh không có ý nghĩa gì đối với cô, không có gì đặc biệt trong việc giết một em bé; cô chỉ nghĩ tới nó với sự phóng túng và xấu xa về đạo đức mà người ta có thể mong đợi ở một cô hầu gái. Điều này cũng rất rõ ràng ở những ngày sau đó; cô chưa bao giờ bỏ ra một giờ để nghĩ suy; cô vẫn thoải mái và tự nhiên như mọi lúc, nông cạn và ngu xuẩn một cách không thể hoán cải, một cô hầu gái không thể hoán cải. “Tôi phải đi và khám hàm răng của tôi,” cô nói. “Và tôi muốn một trong mấy cái choàng mới đó.” Có một kiểu áo khoác lửng mới từng là thời trang trong vài năm trước, và Barbro phải có một cái.
Khi cô xem mọi chuyện đều tự nhiên như vậy, Axel còn có thể làm gì hơn ngoài việc nhượng bộ? Và không phải lúc nào anh cũng thật sự nghi ngờ cô; bản thân cô chưa bao giờ thú nhận. Thật ra cô đã chối bỏ hết lần này sang lần khác, nhưng không hề phẫn nộ, không hề khẳng định, xem như một điều vặt vãnh, như một cô hầu gái chối bỏ việc đánh vỡ một cái đĩa, dù cô ta có làm hay không. Nhưng sau một vài tuần, Axel không thể chịu đựng thêm được nữa; một hôm anh đã đứng lặng giữa phòng và chợt phát hiện ra một điều. Lạy trời cao đất dày! Mọi người hẳn đã nhìn thấy cô như thế nào, nặng nề với cái thai và có thể nhìn thấy rõ ràng điều đó. Và giờ đây lại có thân hình như trước. Vậy thì em bé đâu rồi? Giả sử những người khác đến tìm nó? Sớm muộn gì họ cũng sẽ thắc mắc về nó. Và nếu không có gì sai trái, lẽ ra đứa bé phải được chôn cất đàng hoàng trong nghĩa trang chứ không phải trong lùm bụi, trên mảnh đất của anh ở đó…
“Không. Việc đó chỉ khiến mọi chuyện rối lên,” Barbro nói. “Họ sẽ mổ banh nó ra và mở một cuộc điều tra các thứ. Tôi không muốn bị quấy rầy.”
“Chỉ mong sau này mọi chuyện sẽ không trở nên tệ hơn,” anh nói.
Barbro hỏi một cách dễ dàng: “Có gì phải lo chứ? Cứ để nó nằm ở nơi nó đang nằm.” Phải, cô mỉm cười và hỏi: “Anh sợ nó sẽ đuổi theo anh à? Hãy dứt bỏ mấy chuyện vớ vẩn đó đi, và đừng nói thêm gì về nó.”
“Phải, ờ…”
“Tôi có dìm chết đứa bé không à? Tôi đã nói với anh nó tự chết chìm trong nước khi tôi bị trượt xuống. Tôi không bao giờ nghe thấy những thứ mà anh có trong đầu mình. Và, dù sao đi nữa, nó sẽ không bao giờ bị phát hiện.
“Mọi thứ đã bị phát hiện với Inger ở Sellanraa.”
Barbro suy nghĩ một lúc. “Chà, tôi không quan tâm. Luật pháp hiện giờ khác hẳn, và nếu anh đọc báo anh sẽ biết. Có cả đống người đã làm chuyện đó, và chẳng bị hề hấn gì.” Barbro bắt đầu giải thích, dạy bảo anh, có thể nói thế, để anh có một cái nhìn rộng hơn về các thứ. Không phải cô đã đi ra thế giới, trông thấy, nghe thấy và hiểu biết nhiều đến thế mà chẳng để làm gì; giờ đây cô có thể ngồi đó và tỏ ra là người hiểu nhiều biết rộng hơn hẳn anh. Có ba lập luận chính mà cô tiếp tục khai thác: Đầu tiên, cô không làm chuyện đó. Thứ hai, nói cho cùng, đó không phải là điều gì kinh khủng, nếu giả sử cô đã làm như thế. Và thứ ba, người ta sẽ không bao giờ phát hiện được chuyện này.
“Dường như đối với tôi mọi thứ đều sẽ bị phát hiện,” anh phản đối.
“Không, do nơi đây xa xôi,” cô đáp. Và để làm anh kinh ngạc hoặc để động viên anh, hoặc có lẽ chỉ do tính tự phụ đơn thuần muốn khoe khoang một thứ gì đó, đột nhiên cô tung ra một quả bom. Như thế này: “Tôi đã từng làm một chuyện mà không bao giờ bị phát hiện.”
“Em?” anh nói, hoàn toàn không tin. “Em đã làm gì?”
“Tôi đã làm gì à? Đã giết một thứ.”
Có lẽ cô không định đi xa đến thế, nhưng bây giờ phải tiếp tục; anh ngồi đó, trố mắt nhìn cô. Ồ, đó không phải là sự táo tợn lớn lao, không thể khuất phục; nó chỉ đơn giản là lời khoe khoang thô lỗ, làm ra vẻ hiên ngang; cô muốn tỏ ra người lớn và làm cho anh im miệng. “Anh không tin tôi hả?” Cô la lớn. “Anh có nhớ câu chuyện trong báo về cái xác của một đứa bé được tìm thấy ở cảng không? Chính tôi đã làm chuyện đó.”
“Sao?”
“Thi hài của một đứa bé. Anh không bao giờ nhớ bất cứ thứ gì hết. Chúng ta đã đọc về nó trong tờ báo mà anh mang về.”
Sau một lúc anh bật thốt: “Hẳn là em mất trí rồi!”
Sự bối rối của anh dường như càng kích động cô nhiều hơn, cho cô một dạng sức mạnh giả tạo; thậm chí cô có thể nói thêm chi tiết: “Tôi đã bỏ nó vào một cái hộp; lúc đó nó đã chết, dĩ nhiên. Tôi làm việc đó ngay khi nó vừa ra đời. Và khi ra tới bến cảng, tôi quăng nó xuống biển.”
Axel ngồi im lặng ủ ê, nhưng cô tiếp tục. Chuyện đó xảy ra đã khá lâu, nhiều năm trước, khi cô tới Maaneland lần đầu. Thế đó, anh có thể thấy rằng không phải chuyện gì cũng bị người ta phát hiện ra, nhất là khi đã xảy ra từ lâu! Sự đời sẽ ra sao nếu chuyện gì cũng bị người ta phát hiện? Thế còn những người đã có gia đình ở thị trấn và những điều họ đã làm thì sao nào? Họ giết con cái họ trước khi chúng chào đời. Có những tay bác sĩ lo liệu chuyện đó. Họ không muốn có nhiều hơn một đứa hoặc nhiều nhất là hai đứa, thế là họ tới nhà một tay bác sĩ và tống khứ nó trước khi nó ra đời. Ôi dào, Axel không cần nghĩ rằng những chuyện đó là chuyện trọng đại gì cho lắm trong đời!
“Thế ư!” Axel nói. “Vậy tôi cho là cô cũng đã tống khứ đứa cuối cùng theo cách đó?”
“Không.” Cô cẩn thận đáp, “vì tôi đẻ rớt.” Nhưng ngay cả khi đó cô cũng không xem đó là chuyện gì kinh khủng. Rõ ràng cô đã quen nghĩ rằng những chuyện đó là tự nhiên và dễ dàng; hiện giờ nó không tác động gì tới cô. Có lẽ lần đầu tiên thì hẳn có chút ít khó chịu, một cảm giác bất an về việc giết chết đứa bé; nhưng đứa thứ hai? Giờ có thể cô nghĩ tới nó với một kiểu cảm giác mang tính lịch sử: như một điều đã thực hiện xong, và có thể thực hiện.
Axel ra khỏi nhà, tâm hồn nặng trĩu. Anh không quan tâm nhiều tới sự kiện Barbro đã giết chết đứa con đầu lòng, chuyện đó không can hệ gì tới anh. Cả việc cô từng có một đứa con trước khi tới với anh cũng không quan trọng; cô quá vô tư lự, và chưa bao giờ giả vờ điều đó, trái lại. Cô không giấu diếm kiến thức của mình, và đã dạy anh nhiều thứ trong bóng tối. Thật tuyệt vời. Nhưng đứa bé sau này, anh không sẵn lòng đánh mất nó; một đứa con trai bé tí, một sinh vật trắng nhỏ xíu quấn trong một mảnh giẻ. Nếu cô có tội trong cái chết của đứa bé, cô đã làm tổn thương anh, đã phá vỡ một mối ràng buộc mà anh trân trọng, và bát nước đổ rồi không thể hốt lại cho đầy được. Nhưng nói cho cùng, có thể anh đã hiểu sai về cô: cô đã trượt ngã xuống nước do tai nạn. Nhưng thế thì mảnh giẻ quấn, cái mẩu áo mà cô đã đem theo thì sao…
Trong lúc đó, nhiều giờ đã trôi qua; giờ ăn tối tới, và màn đêm buông xuống. Khi Axel đã lên giường, đã nằm nhìn trừng trừng vào bóng tối khá lâu, cuối cùng anh cũng ngủ thiếp đi, cho tới sáng. Và rồi một ngày mới đến, và sau đó là nhiều ngày khác…
Barbro vẫn hệt như ngày nào. Cô biết quá nhiều về thế giới, và có thể xem nhẹ nhiều chuyện vặt vãnh nhỏ bé mà đối với cư dân miền hoang địa là nghiêm trọng và kinh khủng. Điều này cũng tốt; cô có đủ thông minh cho cả hai, đủ thờ ơ đối với cả hai. Và cô cũng không cư xử như một sinh vật đáng sợ. Barbro mà là một con quái vật sao? Không hề. Cô là một thiếu nữ xinh xắn, với đôi mắt xanh lơ, một cái mũi hơi hếch, và làm việc nhanh nhẹn. Cô hoàn toàn chán nản và muốn bệnh với nông trại và những cái chậu gỗ, cần cọ rửa thường xuyên; có lẽ cũng chán nản và muốn bệnh với Axel, với cuộc đời chệch choạc mà cô đang sống nữa. Nhưng cô chưa hề giết một con gia súc nào, và Axel chưa bao giờ nhìn thấy cô đứng cạnh mình với một con dao giơ cao vào lúc nửa đêm.
Chỉ có một lần bỗng dưng họ lại nói chuyện về cái xác trong rừng. Axel khăng khăng cho rằng nên chôn nó trong nghĩa trang, trên mảnh đất được ban phép; nhưng cô vẫn nghĩ cách của cô cũng khá ổn. Thế rồi cô nói đôi điều chứng tỏ rằng cô có cách riêng của mình. Cũng đủ nhạy bén, có thể nhìn xa trông rộng; có thể suy nghĩ, với bộ óc bé nhỏ đáng thương của một người ác độc.
“Nếu nó bị phát hiện tôi sẽ tới nói chuyện với ngài Lensmand; tôi từng giúp việc cho ông ta. Và phu nhân Heyerdahl cũng sẽ nói giúp tôi một tiếng, tôi biết. Không phải ai cũng có thể tìm được người giúp việc như thế, và dù sao thì họ cũng rộng lòng tha thứ. Ngoài ra còn có cha nữa, ông quen tất cả những nhân vật quan trọng, và bản thân từng là trợ lý các thứ.”
Nhưng Axel chỉ lắc đầu.
“Sao, có gì không ổn chứ?”
“Em nghĩ là cha em có thể làm được bất cứ chuyện gì sao?”
“Anh biết nhiều về điều đó mà!” Cô hét lên giận dữ. “Sau khi anh đã hủy hoại ông các thứ, chiếm đoạt nông trại và cướp mất miếng ăn của ông.”
Dường như cô nghĩ rằng thanh danh của cha mình về sau này đã sút giảm, và cô có thể mất mát do điều đó. Và Axel còn có thể nói gì hơn? Không gì cả. Anh là một người thích hòa bình, một người chân bùn tay lấm.
Phúc Lành Của Đất Phúc Lành Của Đất - Knut Hamsun Phúc Lành Của Đất