Love at first sight is often cured by a second look.

Love is sweet when it’s new, but sweeter when it’s true.

 
 
 
 
 
Tác giả: William Colby
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: Lost Victory
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Ngoc Hai
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2424 / 52
Cập nhật: 2017-03-24 12:42:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2: Một Thất Bại Kép
rong thời kỳ ấy, tôi ít có điều kiện tiếp xúc với những gì đang diễn ra tại các cuộc đàm phán. Một hôm tôi dừng lại ở Paris để hỏi phái đoàn Mỹ về những tiến triển trong công cuộc bình định ở Nam Việt Nam, nghĩ rằng có thể góp với họ một số ý kiến và muốn thuyết phục họ là không nên “buông tay”. Nhưng lúc đó tôi đang giữ chức giám đốc điều hành C.I.A., phụ trách các vấn đề quân sự của cơ quan và trực thuộc giám đốc C.I.A. Richard Helms và phó giám đốc là tướng Vernon Walters. Vị trí đó về nguyên tắc đã cắt tôi khỏi các công việc mật của cơ quan, mà tôi chỉ còn có thể liên hệ nhờ vào việc dự trù ngân sách và bảo vệ nó trước những yêu cầu của chính phủ và quốc hội. Tuy nhiên, nhiều năm làm việc ở Việt Nam đã khiến tôi không thể không quan tâm tới nó, và qua những báo cáo của các cơ quan mật, tôi vẫn chăm chú theo dõi những diễn biến tình hình ở đất nước đó và ở Paris.
Những gì tôi đọc được đã không làm thay đổi niềm tin căn bản của tôi, đó là Nam Việt Nam cần phải chiến đấu để tiếp tục tồn tại và sự ủng hộ của Hoa Kỳ là yếu tố quyết định của sử tồn tại ấy. Năm 1972, Nam Việt Nam đã thực sự chứng tỏ nó có thể tự nó vượt ra khỏi tình thế với sự giúp đỡ của chúng tôi về hậu cần và các trận ném bom bằng không quân. Nhưng nếu chúng tôi bỏ cuộc, thì chắc chắn nó sẽ không thể chống trụ được nổi.
Một sự thật hiển nhiên khác, đó là thắng lợi của Nam Việt Nam trên mặt trận chính trị. Cộng sản đã không còn sức hấp dẫn nữa. Chính quyền Thiệu đã có một chương trình cải thiện kinh tế và chính trị, hứa hẹn một cuộc sống tốt đẹp hơn đối với nhân dân Việt Nam. Có một số người Mỹ và người nước ngoài vẫn tiếp tục công kích chế độ độc đoán và nạn tham nhũng của chính quyền Nam Việt Nam, nhưng từ khi người Mỹ rút đi, sự quan tâm của họ đối với những công việc của Nam Việt Nam đã giảm đi rất nhiều.
Cùng với những chiến binh dũng cảm được trả tự do từ Hà Nội trở về, người dân Hoa Kỳ cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng và đối với họ vấn đề Việt Nam chìm vào quên lãng. Ở Nam Việt Nam, phù hợp với quy định của hiệp định, Bắc Việt đặt một phái đoàn liên lạc ở Sài Gòn, nhưng Nam Việt Nam vẫn tìm cách ngăn được họ đi ra vùng nông thôn. Coi thường các điều khoản của hiệp định, Bắc Việt tiếp tục xây dựng một mạng đường sá đi dọc tuyến Trường Sơn, vòng qua khu phi quân sự và đổ về khu vực phía Bắc Sài Gòn, nơi mà trước đây trong cuộc tiến công lớn xuân 1972, họ đã mở mũi tiến công chủ yếu. Một phái đoàn quốc tế gồm đại diện bốn nước được thành lập để giám sát việc thi hành hiệp định, nhưng giống như tình trạng của phái đoàn quốc tế được lập sau hiệp định Genève 1954, phái đoàn này đã nhanh chóng bị làm tê liệt. Các thành viên Cộng sản Ba Lan và Hunggari của nó đã chẳng bao giờ tố cáo các hành động vi phạm của Bắc Việt, đơn giản là do Bắc Việt hoàn toàn không biết là họ bắt buộc phải làm báo cáo.
Cả Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam đều có một cố gắng cuối cùng để mở rộng lãnh thổ của họ trước khi hiệp định có hiệu lực. Vào tháng Một năm 1973, Nam Việt Nam đã thành công khi họ kìm chân được Bắc Việt, không để cho địch thủ phát triển được ra xa khỏi vùng núi và vùng biên giới, giành lại được tỉnh Quảng Trị đã bị Bắc Việt chiếm được trong cuộc chiến 1972.
Điều khoản duy nhất của hiệp định được tôn trọng là Mỹ chấm dứt sự dính líu. Người lính cuối cùng đã rời Việt Nam trong thời gian hạn định là sáu mươi ngày. Mỹ chỉ để lại ở Sài Gòn văn phòng của tuỳ viên quân sự và vài lính thuỷ đánh bộ để canh gác toà đại sứ. Mỹ cũng còn để lại tám nghìn năm trăm nhân viên dân sự, chủ yếu họ là những nhân viên chuyên môn phụ trách duy trì bảo quản các khí tài công nghệ sẽ chuyển giao cho các tổ chức dân sự và quân sự Nam Việt Nam. Mỹ tiếp tục ném bom Campuchia chống lại các cuộc tấn công liên tục của quân Khơme đỏ của Pôn Pốt bởi chúng không nằm trong khuôn khổ của hiệp định và Bắc Việt thì nói họ không thể kiểm soát được chúng. Những ngày trước khi hiệp định có hiệu lực một khối lượng lớn dụng cụ quân sự được Mỹ đưa vào Nam Việt Nam, bảo đảm cho Nam Việt Nam có một lực lượng dự trữ quan trọng để có thể thay thế cho những dụng cụ bị hỏng theo nguyên tắc một đổi một đúng như quy định của hiệp định Paris. Nhưng sự thay thế đó đương nhiên còn tuỳ thuộc vào ý muốn của Mỹ, mà ý muốn này trước hết còn tuỳ thuộc vào ngân sách do Quốc hội chuẩn chi.
Thế nhưng ý muốn đó lại có sự trục trặc. Chính quyền Nixon muốn duy trì một cách trung thực một mức độ viện trợ thích hợp với Nam Việt Nam phù hợp với giới hạn mà hiệp định cho phép, nhưng nó đã vấp phải sự chống đối ngày càng tăng của những người cho rằng làm như thế là lại tiếp tục dính líu vào Việt Nam. Tháng Sáu năm 1973, Thượng viện và Hạ viện thông qua những dự luật ngăn cấm mọi tài trợ cho những hoạt động quân sự của Mỹ ở Đông Dương. Còn việc, hai viện đồng ý gia hạn cho đến ngày cuối cùng là 15 tháng Tám, thì điều đó duy nhất chỉ vì chính phủ đã cố gắng đề nghị cho phép mình được tiếp tục ủng hộ Campuchia, tạo một áp lực có lợi cho việc thương lượng một cuộc đình chỉ chiến sự ở đó. Tháng Mười năm 1973, quốc hội biểu quyết luật quyền hành động chiến tranh (War Powers Act), hạn chế trong vòng sáu mươi ngày việc cho phép tổng thống có quyền đưa quân ra nước ngoài mà không cần có sự đồng ý đặc biệt của quốc hội, do đó đã làm giảm khả năng giữ lời hứa của tổng thống Nixon đối với Thiệu là “đáp lại một cách mạnh mẽ” mọi vi phạm hiệp định của Bắc Việt. Tháng Mười một, quốc hội xoá bỏ quyền phủ quyết của tổng thống Nixon.
Trong khi viện trợ Mỹ giảm đi thì tỷ lệ nghịch với nó là lực lượng Bắc Việt vào Nam Việt Nam và các vùng biên giới của Lào và Campuchia ngày càng gia tăng. Tháng Mười năm 1973, Bắc Việt đã đưa vào Nam Việt Nam khoảng sáu mươi nghìn quân với hàng trăm xe tăng cơ giới, pháo mặt đất, pháo phòng không và xây dựng một tuyến đường chạy tới vùng Sài Gòn, bảo đảm thông xe trong mọi điều kiện thời tiết. Dọc theo tuyến đường ấy, họ còn đặt được một đường ống dẫn dầu cung cấp đủ nhiên liệu cho một lực lượng quân sự được hiện đại hoá mà họ đang xây dựng ở miền Bắc và các vùng xung quanh. Đối với chúng tôi, những người ở tổng hành dinh của C.I.A., khi đọc báo cáo và nghiên cứu các tấm không ảnh, chúng tôi không còn hoài nghi gì nữa đối với các ý đồ của Bắc Việt: họ sẽ tấn công Nam Việt Nam khi nào có thời cơ thuận lợi, nhưng lần này sẽ là một cuộc tiến công quân sự với thế áp đảo.
Tháng Năm năm 1973, tổng thống Nixon báo cáo ông sẽ cử tôi làm giám đốc C.I.A. thay cho James Schlesinger giữ chức bộ trưởng Quốc phòng. Khi Thượng viện làm thủ tục để phê chuẩn chức vụ mới của tôi thì việc làm ấy lại tạo cho phong trào hoà bình một cơ hội để họ khuấy động lên bóng ma của chương trình Phượng hoàng. Lần này, họ trưng khắp Washington một tấm hình không mấy sáng sủa của tôi in trên nền một con bài pích, kèm theo một ghi chú buộc tội tôi là tên sát nhân của hai mươi nghìn sinh mạng Việt Nam trong khuôn khổ chiến dịch Phượng hoàng. Tuy nhiên việc bổ nhiệm tôi vẫn được thượng viện phê chuẩn và ngày 5 tháng Chín năm 1971 tôi đã làm lễ tuyên thệ.
Vai trò mới của tôi đòi hỏi tôi phải điều hành các công việc liên quan đến sự phát triển tình hình Việt Nam, dù rằng chúng tôi cũng còn phải quan tâm đến nhiều điểm nóng khác trên thế giới, ví dụ như cuộc chiến tranh Arập - Israen ở Trung Đông. Nhưng tôi vẫn cảm thấy tôi phải đặc biệt quan tâm đến Việt Nam, vì tôi có cảm giác lý do chủ yếu khiến tổng thống Nixon cử tôi vào chức vụ mới, là do ông và Alexander Haig đã nghe nói nhiều về tôi khi tôi tham gia chương trình bình định. Những thông tin của tôi trước quốc hội như rơi vào tai những người điếc. Quan tâm trước hết của các nghị sĩ bây giờ là Mỹ hãy giảm bớt những cam kết với nước ngoài.
Điều đó đã thể hiện một cách hiển nhiên trong việc giảm dần những khoản viện trợ của chúng tôi cho Nam Việt Nam vào những năm 1973, 1974 và 1975. Quốc hội đã giảm số 2,8 tỷ đô la viện trợ quân sự Nam Việt Nam dự kiến cho năm 1973 xuống còn 700 triệu cho năm 1974. Thể hiện rất rõ cho tâm trạng của nước Mỹ là việc năm 1973, khi mời tổng thống Thiệu sang thăm vào tháng Tư, tổng thống Nixon đã phải tiếp Thiệu ở San Clemento, bởi lúc ấy việc tiếp Thiệu một cách chính thức ở Washington sẽ dấy lên một làn sóng phản đối dữ dội về chính trị. Khi Thiệu tới Washington, ông chỉ được phó tổng thống Agnew tiếp và ông này đã phải vất vả lắm mới tập họp được một số người để lập ra một ban có vẻ như là ban đón tiếp.
Tinh thần của người Nam Việt Nam và những hy vọng về tương lai của họ bị tác động mạnh bởi sự ủng hộ của Mỹ đối với họ ngày càng sa sút. Tâm sự với khách hay bè bạn Mỹ của họ, các tướng lĩnh đã không úp mở khi họ tỏ ra nghi ngờ rằng quân đội của họ sẽ khó có khả năng đương đầu với quân cộng sản khi giờ đây người Mỹ đã bỏ họ ra đi. Tổng thống Thiệu đã bãi bỏ việc bầu ở nông thôn, mà tự ông sẽ chỉ định những trưởng thôn trưởng xã, vì ông cho rằng nông thôn vẫn bị cộng sản đe doạ. Ông áp đặt đảng dân chủ của ông và loại trừ các đảng phái khác, tạo nên một quang cảnh gì đó về đời sống chính trị nhưng lại trống rỗng nội dung. Các viên chức chính quyền nắm giữ những chức vị chủ chốt trong đảng, gạt bỏ những đóng góp của các tầng lớp nông dân trước đây. Nếu sự hoá thân của Phong trào cách mạng quốc gia của anh em họ Ngô ấy có tạo ra một vẻ bề ngoài của việc “toàn dân” tham gia chính trị thì thực ra nó cũng chẳng dựa trên một thực tế nào hết.
Phải đương đầu với việc cắt giảm viện trợ, quân đội bắt đầu quản lý một cách dè xẻn các nguồn cung cấp của họ, giảm việc cấp đạn dược, xăng dầu cho những hoạt động phòng ngự phản công chống lại cộng sản ở miền rừng núi, và giới hạn sự can thiệp về địa phương cũng thấy sức mạnh hoả lực của mình bị giảm sút và tính chủ động trong việc mở rộng an ninh của họ đã phải nhường nguy cơ và rủi ro. Nhiều dấu hiệu khác chứng tỏ thái độ ngày càng thận trọng e dè đó của quân đội Nam Việt Nam, chẳng hạn, việc cắt giảm dần số lượng đạn bắn của pháo binh, hay các phi vụ xuất kích của máy bay trực thăng trong những cuộc chiến đấu. Được huấn luyện trước đấy theo tài sản chiến thuật của Hoa Kỳ, thì nay họ lại phải vận dụng chiến thuật ấy trong điều kiện thiếu thốn đạn dược, máy bay khác hẳn với những gì họ đã học.
Sự chủ động về chính trị, từng là đặc điểm của thời kỳ bình định và Việt Nam hoá được Mỹ khuyến khích và ủng hộ tuyệt đối, giờ đã bị xóa mờ đi bởi việc quay trở lại của cách cai trị do giới quân sự chi phối. Thiệu cho rằng sự gia tăng của lực lượng chính quy cộng sản đã không cho ông một lựa chọn nào khác. Ông cần phải dựa vào hệ thống tôn ti của quân đội để đương đầu với một cuộc tiến công có thể xảy ra. Giờ đây tin chắc mình đã bị các ông thầy Mỹ bỏ rơi, giới quân sự Nam Việt Nam, trước viễn cảnh của một trận chiến đấu cuối cùng đầy tuyệt vọng, đã bắt đầu quan tâm nhiều đến sự sống còn của gia đình mình hơn là quan tâm đến lợi ích chung. Tuy nhiên ở nông thôn, mặc dù các lực lượng an ninh địa phương giảm đi song những hoạt động cộng sản không thấy gia tăng. Có vẻ như cộng sản đã giảm những hoạt động “Chiến tranh nhân dân” của họ để tập trung sức vào chuẩn bị cho một cuộc tổng tiến công ồ ạt khi thời cơ đến.
Một sự kiện nữa đã tác động một cách quyết định đến sự trả đũa đối với những vi phạm hiệp định của Bắc Việt. Với sự vỡ lỡ của vụ Watergate nhơ nhớp, nhiều khía cạnh chưa từng được biết về chiến tranh Việt Nam đã được phơi bày. Như việc Howard Hunt, một cựu quan chức C.I.A. đã dự định làm mất uy tín tổng thống Kennedy bằng cách viết lại vai trò của ông ta trong việc loại bỏ Diệm. Tác động đầu tiên của Watergate đến tấn thảm kịch Việt Nam là tổng thống Nixon rồi sau ông là Gerald Ford đã ít còn cơ may hơn nữa để viện trợ cho Nam Việt Nam. Việc Richard Nixon từ chức tháng Tám năm 1974 đã đánh dấu cho thời kỳ hoàng kim của quốc hội khi quốc hội chi phối mạnh vào quyền hành pháp, và đối với Nixon, đã đưa sự hoài nghi có từ vài năm nay của công luận đối với ông lên tới đỉnh cao.
Tháng Mười hai năm 1974, rõ ràng Bắc Việt đã tập trung một lực lượng áp đảo ở biên giới Nam Việt Nam. Người ta có thể tự hỏi các nhà lãnh đạo cộng sản có ý định sẽ làm gì, và đó là đề tài của những cuộc thảo luận quan trọng ở Hà Nội, trong khi nhà phân tích của các cơ quan mật của chúng tôi cũng chăm chú tìm hiểu vấn đề đó ở Washington. Ở cả hai bên, người ta đều cùng đi đến một kết luận: Hà Nội sẽ tung ra một cuộc tiến công lớn vào Nam Việt Nam vào năm 1976 để lợi dụng được sức ép do các cuộc tranh cử tổng thống Mỹ gây ra. Nhưng ngay từ xuân 1975, cộng sản đã mở những cuộc tiến công sơ bộ để duy trì tình trạng căng thẳng ở Nam Việt Nam và đối với công luận Mỹ. Nhưng đương nhiên, nếu có thời cơ thì Hà Nội sẽ không bỏ qua và sẽ đẩy lợi thế của mình càng xa càng tốt.
Tháng Một năm 1975, để đương đầu với những sức ép ngày càng tăng, chính quyền Ford xin quốc hội cấp cho một ngân sách bổ sung ba trăm triệu đô la để viện trợ quân sự cho Thiệu. Quốc hội gần như không cần che giấu sự phản đối của mình. Về phần tôi, tôi cũng cố sức ủng hộ đề nghị ấy của tổng thống Ford, bằng cách chứng minh Bắc Việt đang ồ ạt tăng quân vào miền Nam nhưng chẳng ai buồn để tâm. Hơn nữa, tôi cũng không thể tập trung toàn bộ sức lực của tôi cho công việc của Việt Nam, bởi cá nhân tôi, từ Noel 1974, tôi cũng đang mắc vào chuyện phải bảo vệ C.I.A. trước một đòn công kích dữ dội của quốc hội. Vụ việc này rắc rối rất nhiều chuyện mà trong đó C.I.A. bị tố cáo là trong hai mươi lăm năm từ ngày nó được thành lập đến nay, nó đã vượt quá những giới hạn cho phép. Sự việc đã bị cường điệu và bi kịch hoá tới mức C.I.A. có nguy cơ không thể được phép tồn tại nữa. Không khí cuộc khủng hoảng này có cái gì đó giống với không khí khi người ta lên án chương trình Phượng hoàng.
Tháng Một năm 1975, Bắc Việt bất ngờ mở một cuộc tiến công dữ dội vào tỉnh Phước Long, nằm cách Sài Gòn khoảng một trăm hai mươi kilômét về phía Bắc. Nói “tỉnh” ở đây thì hơi khí quá, bởi đây chỉ là một vùng đồi bị rừng cây xâm lấn, dân cư thưa thớt, có chăng thì chỉ là một số làng nhà cửa tồi tàn nối liền với nhau bằng những con đường đất. Sở dĩ tổng thống Thiệu đặt thành tỉnh là vì ông muốn buộc chính phủ phải quan tâm đến nó nhiều hơn, và ông đã cho xây dựng ở đây một số khu di dân Bắc Việt để bảo vệ cho một cửa ngõ của vùng Sài Gòn, mà cộng sản nhất định phải khai thác. Nhưng Bắc Việt, trước khi mở cuộc tiến công Xuân 1975, lại chọn đây là hướng để đánh một đòn thăm dò, thử xem Nam Việt Nam và Mỹ sẽ phản ứng ra sao trước sự vi phạm hiệp định của họ. Hơn nữa, đây cũng là nơi ở gần các kho tàng, khu vực nghỉ ngơi tập kết, nằm cạnh các đầu mút giao thông và đường ống dẫn dầu của họ từ miền Bắc vào.
Đòn “nắn gân” này đã thành công. Tổng thống Thiệu quyết định không mạo hiểm đưa các trực thăng của mình vào cuộc phản kích, trong khi lẽ ra muốn phản kích được hữu hiệu thì phải sử dụng đến nó. Và phía Mỹ, có vẻ như họ cũng không phản ứng gì hết. Đề nghị viện trợ bổ sung tháng Một của tổng thống Ford cũng như báo cáo của ông nói về sự có mặt của hai trăm tám mươi chín nghìn quân cùng hàng trăm xe tăng, pháo binh nặng, pháo phòng không của Bắc Việt ở miền Nam cũng chẳng tác động gì hơn nhau đối với sự chú ý của quốc hội. Biết rằng Mỹ sẽ không can thiệp và Thiệu thì chỉ có thể chống đỡ với một sức mạnh hoả lực hạn chế, Bắc Việt từ nay có thể yên tâm chuyển sang giai đoạn tiếp theo của cuộc tiến công.
Vậy là Bắc Việt có thể chuẩn bị cho một tiến công quy mô lớn dựa trên những căn cứ mới đó: tức là, không có sự yểm trợ của ông bạn đồng minh hùng mạnh Hoa Kỳ và với một sức mạnh hoả lực kém hơn đối phương, Nam Việt Nam sẽ lại gặp thêm nữa những khó khăn nghiêm trọng về tinh thần trong quân đội của nó.
Bắc Việt mở cuộc tiến công cuối cùng vào những hướng cũng gần giống như trước đây họ đã mở trong năm 1972. Những sai lầm về chiến lược và chiến thuật đã kéo theo sự thất bại của quân đội Nam Việt Nam ở nhiều nơi. Tư lệnh vùng cao nguyên, theo đúng chỉ thị của tổng thống Thiệu, đã ra lệnh cho binh lính triệt thoát khỏi nơi đây và bỏ mặc cho bộ tham mưu và các chỉ huy cấp dưới của ông ta tiến hành cuộc rút lui. Bị bỏ rơi, binh sĩ và gia đình họ tháo chạy theo những con đường khó đi, đã bị đối phương tiêu diệt và tan vỡ. Trên phía Bắc, tổng thống Thiệu tung ra cho các đơn vị dù thiện chiến của ông những mệnh lệnh hoàn toàn trái ngược: mới đầu là chống đõ với tiến công của đối phương, rồi sau đó lại rút lui về phòng thủ ở mặt Nam và cuối cùng là tử thủ ở cố đô Huế.
Kết quả là sự sụp đổ hoàn toàn của sức kháng cự của quân đội Nam ở Bắc phần và Trung phần Nam Việt Nam. Trên đường tiến quân áp dụng chiến lược cơ bản của mình, Bắc Việt đã khai thác tất cả các điểm yếu của Nam Việt Nam. Các lực lượng này, trước khi họ bị tiến công, họ đã biến thành một mớ hỗn loạn những con người, chỉ biết tìm cách tự cứu lấy thân và gia đình họ. Ở Hội đồng an ninh quốc gia tại Washington, hoàn toàn bất lực, chúng tôi chỉ còn biết ghi nhận tình hình trong khi tôi trình trước Hội đồng các báo cáo của các cơ quan tình báo mô tả cuộc tiến quân không thể ngăn cản nổi của quân đội Bắc Việt dọc theo đất nước về phía Nam và báo trước sự tan rã của các tuyến phòng thủ của Nam Việt Nam.
Điều đó khiến tôi nhớ lại rất rõ sự sụp đổ của nước Pháp năm 1940 trước cuộc tiến công chớp nhoáng của các sư đoàn thiết giáp Đức, khi các lực lượng phòng thủ Pháp, được chuẩn bị rất tồi, đã không chỉ bị đánh bại mà còn tan rã thành những khối người hỗn loạn chạy trốn trước xích sắt xe tăng và ách chiếm đóng của Đức quốc xã. Tuy nhiên, người ta cũng phải thừa nhận trong quân đội Nam Việt Nam, vẫn có một số chỉ huy quân sự và thậm chí toàn bộ cả một đơn vị, ví dụ như sư đoàn 18 ở Xuân Lộc, phía Bắc Sài Gòn đã chống cự đến cùng trước một lực lượng áp đảo của quân địch.
Sự so sánh với tình hình nước Pháp năm 1940 còn tỏ ra đúng ở một điểm nữa: đó là sự “trung lập” của Hoa Kỳ khi họ chứng kiến diễn biến của cuộc chiến và kết cục cuối cùng của sự dính líu kéo dài của họ ở Nam Việt Nam. Tổng thống Ford và chính quyền của ông đã không thể làm gì hơn để cứu vãn tình thế, bởi cả Quốc hội và nước Mỹ đều chống lại việc đó.
Trong những ngày cuối cùng ấy đã có những nỗ lực tuyệt vọng hòng vớt vát một cái gì đó trước sự sụp đổ không thể tránh khỏi của Nam Việt Nam. Lúc bấy giờ chỉ huy C.I.A. ở Sài Gòn là Thomas Polgar, một người gốc Hung, được cử vào chức vụ này do các cống hiến đặc biệt của ông ở một số nơi. Ông đã tạo được một mối liên hệ với trưởng đoàn Hung của Ủy ban quốc tế có nhiệm vụ giám sát việc thi hành các điều khoản của hiệp định Paris. Từ đó giữa Sài Gòn với Washington, người ta liên tục điện đi điện lại để thử xem người Hung có thể can thiệp với Bắc Việt và thuyết phục Bắc Việt chấp nhận một cuộc ngừng bắn hay mọi giải pháp không bạo lực khác để giải quyết chiến tranh. Theo ý tôi, như tôi đã trình bày trong những cuộc họp kéo dài ở Washington, thì việc làm trên sẽ chẳng có mấy hy vọng đem lại kết quả, thậm chí chẳng hy vọng nào, giống như trước đây chúng tôi cũng đã từng định, qua sự can thiệp của Liên Xô, đạt tới sự thoả thuận với Bắc Việt. Và điều này lại càng hiển nhiên hơn khi mà giờ đây, cán cân lực lượng trên chiến trường đã chỉ rõ một cách không thể chối cãi được rằng, họ sẽ chẳng mấy chốc mà giành được thắng lợi cuối cùng, thắng lợi mà họ đã ao ước từ bấy lâu nay và vì nó, họ đã phải hy sinh biết bao sinh mạng.
Nhưng tôi kiên quyết phản đối ý kiến của một người Việt Nam ở Sài Gòn, cho rằng người ta sẽ có thể dàn xếp với Bắc Việt nếu như Hoa Kỳ ủng hộ cuộc đảo chính lật đổ Thiệu và thay Thiệu bằng một nhân vật dễ chấp nhận hơn đối với cộng sản. Tôi trả lời ngay lập tức chúng tôi không muốn dính dáng gì đến cái trò kiểu ấy. Nếu Nam Việt Nam sụp đổ, thì nó sẽ phải sụp đổ, nhưng chắc chắn sẽ không phải với nỗi nhục nhã cuối cùng khi nó bị đẩy ngã bởi bàn tay của người bạn đồng minh Hoa Kỳ. Chúng tôi không thể lại là kẻ tòng phạm của một âm mưu lật đổ một tổng thống thứ hai của Nam Việt Nam.
Có một vấn đề được tranh cãi kịch liệt, đó là việc di tản những người Việt Nam trước đây đã hợp tác với Mỹ. Người ta buộc tội chúng tôi đã bỏ rơi nhiều người Việt Nam mà lẽ ra chúng tôi phải giúp họ ra đi, và đã để lại đằng sau chúng tôi nhiều chứng cớ cụ thể tố cáo họ là đã làm việc với C.I.A. hay một số cơ quan khác. Đúng là trong số những người lẽ ra phải ra đi đã có nhiều người ở lại, song cũng có nhiều người đã ra đi. Trong số những người ra đi ấy có một số người đã sớm được đi nhờ sự giúp đỡ của người Mỹ, hoặc bằng những chuyến bay đặc biệt hoặc bằng cách thu xếp thế nào đó để lách qua được những thủ tục chính thức. Qua tiếp xúc của cá nhân tôi với Tom Polgar, tôi đã nhờ được ông tổ chức giúp cho di tản được một số nhân vật quan trọng, trong đó có hai cô gái trẻ người Việt Nam trước đây đã làm phiên dịch cho C.I.A. Tuy nhiên một trong những biện pháp ấy đã kết thúc bằng một thảm hoạ, khi một trong những chiếc máy bay của không lực Hoa Kỳ có trách nhiệm di tản một số trẻ mồ côi, bị văng mất một cánh cửa trong khi bay và rơi xuống ngoại ô Sài Gòn...
Dù sao người ta cũng không thể cứu được hết những người Việt muốn trốn tránh chế độ cộng sản để ra đi. Điều đáng kể là sau đó có rất nhiều người tìm được cách để di tản, hoặc bằng tự lực bản thân, hoặc bằng sự trợ giúp của bè bạn. Con số đó thật ấn tượng: Khoảng ba trăm ba mươi người Việt và toàn bộ số người Mỹ còn lại.
Còn về các tài liệu thì nhân viên sứ quán và cơ quan: C.I.A. đã dồn tất cả nỗ lực cuối cùng của họ vào để đốt hết, không để cho nó rơi vào tay kẻ địch. Nhiều người Việt Nam sau đó đã phải đưa vào các trại cải tạo, hoặc vì họ trước đây đã chiến đấu hay làm việc trong hàng ngũ “quốc gia”, hoặc bị lộ do những tài liệu tìm thấy được trong các cơ quan của Nam Việt Nam, chứ chắc chắn không phải trong các cơ quan của Mỹ. Bổ sung thêm cho việc di tản là những hoạt động do chủ động của một số sĩ quan hay cựu sĩ quan mà trong đó nhiều người, ví dụ như Gage Mc Afee, đã từng làm việc cho C.O.R.D.S. Họ tự mình trở lại Việt Nam để tìm kiếm những bạn đồng nghiệp Việt Nam cũ và thu xếp sao đó để những người này khỏi bị lãng quên. Tucker Gougleman, một cựu sĩ quan của C.I.A. đã kém may mắn hơn: xâm nhập Nam Việt Nam bằng đường biển, anh đã bị bắt và một thời gian sau đã chết trong nhà giam.
Đánh dấu chấm hết cho mọi hy vọng hão huyền, 3 giờ 45 phút rạng sáng 30 tháng Tư năm 1975, tổng thống Ford hạ lệnh di tản toàn bộ đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Chỉ huy C.I.A. ở đấy, Tom Polgar, điện cho tôi ông sẽ chấm dứt mọi liên lạc và huỷ hết mật mã và điện đài, kết thúc bức điện, Polgar viết:
Đó là một cuộc chiến lâu dài, ác liệt và chúng ta đã thua cuộc. Trải nghiệp này, duy nhất trong lịch sử nước Mỹ, không nhất thiết có nghĩa là vai trò cường quốc của Hoa Kỳ đã chấm dứt. Tuy nhiên, tính nghiêm trọng của thất bại và những hoàn cảnh trong đó nó xảy ra có vẻ như đòi hỏi chúng ta phải đánh giá lại những chính sách hạn hẹp nửa vời, những chính sách từng là đặc điểm của cái chủ yếu nhất trong sự tham gia của chúng ta ở đây, mặc dù chúng ta đã đưa vào đây một số lượng rất lớn người và của. Kẻ nào không biết học bài học của lịch sử, kẻ đó sau này sẽ phải lặp lại. Hy vọng chúng ta sẽ gặp lại một Việt Nam nào khác nữa và chúng ta đã thực hiện được bài học. Sài Gòn từ biệt ông.
Ở Washington, biết rằng liên lạc sắp chấm dứt, tôi nghĩ tôi nên biểu thị lòng biết ơn của chúng tôi đối với những nỗ lực mà C.I.A. đã bỏ ra trong biết bao năm ở đấy. Tôi liền gửi đi một bức điện:
Vào lúc liên lạc với Sài Gòn sắp chấm dứt, tôi muốn biểu thị niềm tự hào và sự hài lòng của cục đối với công việc mà những người đại diện của nó ở đấy đã thực hiện, và chưa bao giờ trong hơn hai chục năm của nó, cục lại có gì xứng đáng hơn so với những gì các anh đã làm được trong mấy tuần cuối vừa qua. Lòng dũng cảm, sự tận tâm và khả năng đặc biệt tinh thông nghề nghiệp mà cục đã thể hiện trong nhiều tình huống của mấy chục năm qua đã chỉ ngang bằng hoặc thậm chí đã bị các thành tích của các anh trong giai đoạn khó khăn cuối cùng vừa rồi vượt qua. Hàng nghìn người Việt Nam đã nhờ có các anh mà được cứu mạng và có được hy vọng về tương lai, chính phủ Mỹ đã được hưởng lợi rất nhiều từ độ chính xác và tầm rộng lớn của các báo cáo của các anh và đất nước sẽ một ngày nào đó, với lòng khâm phục, phát hiện ra cách mà các anh đã thể hiện những thiện chí và những lý tưởng tốt đẹp của nó. Chúc may mắn và nghìn lần cảm ơn.
Ít giờ sau đó, Bắc Việt tiến vào Sài Gòn. Một nhóm truyền hình của hãng N.B.C. đã quay được một trong những hình ảnh có ý nghĩa nhất của sự kiện. Đó là một chiếc xe tăng đồ sộ của Bắc Việt, với nòng pháo khủng khiếp của nó, đã húc đổ cánh cổng lớn của dinh tổng thống. Đây không còn là công việc của một đội du kích đi chân đất nữa, mà là công trình của một lực lượng chính quy đúng như cái nghĩa chính quy nó phải có. Đại tá Harry G.Summers kể rằng, trong những ngày cuối cùng khi Nam Việt Nam sắp sụp đổ, lời bình luận cay đắng nhất ông nghe được lại là câu thốt ra từ cửa miệng một phi công của hải quân. Sau một chuyến bay để bảo vệ cuộc di tản bằng trực thăng, viên phi công này đã sôi nổi kêu lên khi anh ta đáp xuống tàu Coral Sea: “Bắc Việt đang làm cuộc chiến tranh của chúng ta!”. Điều trớ trêu của lịch sử muốn rằng cuộc chiến tranh nhân dân mà cộng sản tung ra từ năm 1959 thì thất bại, trong khi với cuộc chiến tranh chính quy mà người Mỹ chúng tôi dốc sức vào trong những năm 60 với những lực lượng khổng lồ thì cuối cùng cộng sản lại giành phần thắng.
Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ - William Colby Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ