Số lần đọc/download: 4312 / 69
Cập nhật: 2017-06-11 10:57:53 +0700
Cu Lặc
T
hành tên là cu Lặc, chính bởi cái bụng của hắn.
Thực ở trên đời này, có thể nói rằng không còn cái gì vĩ đại hơn cái bụng phì nhiêu của thằng cu Lặc vậy. Nó trương phình ra, nó nhẵn thín, nó tròn múp míp, nó choán mất cả ngực thằng Lặc và khum khum vồng từ cổ xuống tận háng. Trên đường cong ấy, xế một chút về phía dưới, nổi lên một cục thịt. Nom như cái nút ở lưng vò rượu. Đó cũng gọi là nút, nhưng là cái nút rốn, nó mọc thây lẩy ra, đứng trơ trẽn và lơ láo giữa sa mạc bụng. Nếu mới nhác thấy, người khéo tưởng tượng, có thể ví như một gã ma lanh nào tinh nghịch, lại đi thò đầu ngón tay... từ trong bụng thằng bé ra.
Cu Lặc đeo cái bụng tày đình, phưỡn phệ đi lặc lè... lặc lè...
Bao nhiêu người ngắm nghía nó đi, và đều cười mủm mỉm, phê bình nhỏ với nhau. Những lời phê bình của quần chúng tạp nham đó đúc lại, tạo nên một câu chắc chắn như thế này:
- Chà! Ta gọi nó là thằng cu Lặc Lè!
Rồi người ta gọi bớt đi một chữ đằng sau. Thế là thành tên. Hắn không có quê quán gì. Một người đàn bà ở phương mô tê nào chẳng ai biết, đến Nghĩa Đô làm nghề quay tơ mướn, rồi chẳng may ốm chết, bỏ lại cho thiên hạ một đứa con. Thằng bé được người ta nuôi làm phúc, nó vào ở gia đình nhà tôi từ ngày xưa lắm, tôi cũng không được rõ gốc duyên do làm sao. Ngày còn bé cỏn con, thoạt mới biết nhìn và biết nhận thì tôi đã nhìn và nhận thấy cái bụng cùng cái rốn gớm ghê của cu Lặc. Và hắn đã lớn hơn tôi nhiều.
o O o
Người trong cả làng tả cu Lặc bằng mấy nét thực đơn sơ:
Bụng nó to hơn cái bụng ông phỗng. Rốn nó vừa bằng cái bát mộc. Nó ăn như đánh trống.
Quả thật là cu Lặc ăn khỏe vừa ngoại ngạch mà vừa vô địch. Hình như chẳng bao giờ hắn no miệng. Ăn lắm vào, cái bụng tích trữ bị phình ra quá đỗi, thì phải thôi đấy, chứ cu Lặc chẳng hề biết thế nào là no đâu. Lúc ngồi ăn, hai chân hắn xoạc ra, để cho cái bụng được tự do thở và chứa. Rồi thì hắn múa đũa lên để và, để húp soàn soạt. Cơm quyện với nước canh cứ trôi xuống cuống họng òng ọc như nước chảy xuống lỗ cống. Hắn ăn lấy ăn để, ăn ăn, thở thở, như ăn cướp.
Nhưng thực tình hắn lại mụ mị, hiền lành. Mà dường như lại đá lẩm cẩm. Bởi vì, có một ngày Tết, đương ngồi đông đủ cả nhà, u tôi sẻ vào bát cho một ít canh miến gọi là ai cũng có chút thơm ngày Tết. Hắn húp sụp một cái, rồi há hốc mồm ra tru lên:
- Úi chà! Tơn tơn quá. Chưa luốt đã tụt vào củ tỉ!
Từ đấy, ngày Tết mà ai sẻ món canh miến cho cu Lặc, cu Lặc cũng lắc đầu. Hắn sợ những sợi miến trơn và lạnh, chưa kịp nuốt, đã trôi tuột xuống tận cuống họng.
Trẻ con trong nhà thân với cu Lặc lắm. Bởi vì cu Lặc vừa là con bò, cu Lặc lại là con voi. Hắn cúi lom khom, đứa nào cũng có thể tự do trèo lên lưng và bíu lấy hai tai hắn. Cu Lặc lại vui tính, và có nhiều trò chơi kỳ lạ.
Tôi hãy kể đại khái một trò: Hắn nằm thẳng xuống đất thì cái bụng của hắn vồng cao hơn mặt. Hắn bảo một kẻ cưỡi lên. Hắn liền trợn mắt mắm môi, thót túm bụng xuống, rồi thở phè ra một hơi dài. Thằng bé ở trên bụng cứ theo nhịp thở mà nhảy lên nhấp nhổm, nhấp nhô.
Ăn cơm no rồi, cu Lặc phanh áo để lòi bụng. Hai tay hắn vỗ vào bụng, mồm hắn làm điệu trống cơm bung bung bập bùng, bung bung bập bùng. Ấy là cái hiệu cho lũ trẻ gọi nhau:
- Anh em ơi! Lại xem cu Lặc hát.
Cu Lặc sắp hát thực. Mặt hắn méo nhăn như cái bị nát. Nhưng lại là một câu rất hữu tình. Trăm lần cũng như một, hắn chỉ hát độc có mỗi một câu ấy, đến nỗi lũ trẻ chúng tôi sắp thuộc và bắt chước được điệu gần bằng. Hắn hát rằng:
Đào niễu, em ơi! Buông mành
Con oanh, học lói trên cành mai mỉa mai
Em nghĩ mình em cái cúc bạc nưu tai
Cái bạc tình chung thì có, cái trâm cài vốn không
Một duyên, hai lợ, ba tình
Ấy cái tang tình, ngày hai tình mười một
Cái tình mong xong hỡi tình!
À nên một, nên hai, nên ba, nên bốn
Nàm con mẹ cha nên chín, nên mười
Soi gương tình chung nà đánh phấn
Tang tích tịch! Tang tình tang!
Cho ló đẹp, em sắp nấy chồng
Ô í e... ò e í ò...
Trẻ con thích nhất đoạn này. Chúng reo lên để tán thưởng. Và cu Lặc cũng góp một hồi cười hề hề.
o O o
Cu Lặc là người như trẻ con. Bởi vì, ngoài những thì giờ để làm, hắn chỉ đùa với trẻ con. Nhưng giá hai đứa trẻ trong nhà có côông kêênh nhau lên, chắc cũng chỉ mới mó đến mũi cu Lặc. Trẻ con yêu nhất cái bụng trống của hắn. Rồi yêu đến câu hát ò í e kia.
Nhưng bỗng một hôm, không nhớ có việc gì, một đứa trẻ gọi:
- Cu Lặc! Cu Lặc!
Hắn trừng mắt:
- Lày tôi bảo. Từ giờ cấm không được gọi tôi là cu Nặc.
Hắn nói câu ấy với một giọng khá nghiêm nghị. Mặt hắn sầm lại, làm ra lối đứng đắn. Hắn tiếp:
- Phải gọi tôi nà... anh Nặc nghe không?
Lũ trẻ chẳng nói gì. Và chúng cũng không dám cười. Song thốt nhiên thấy hắn trở nên đứng đắn thế, chúng nhìn cu Lặc bằng những đôi mắt kỳ lạ, ngẩn ngơ.
Một ngày kia, lại có một sự lạ hơn thế nữa. Ấy là một buổi chiều, tôi nghe u tôi nói chuyện với thầy tôi rằng:
- Thằng cu Lặc lấy vợ rồi đấy.
Thầy tôi sửng sốt:
- Thế hử?
- Nó lại xin ra ở riêng...
Từ hôm sau ấy, mỗi chiều chiều, lũ trẻ thấy Lặc xách guốc xuống ao, rửa chân xong lạch cạch đi lên, chào cả nhà rồi bước ra ngõ. Lặc đi về phía nhà của Lặc. Hắn ở với vợ của hắn. Việc đó là một việc hết sức mới mẻ và lạ lùng, khiến chúng tôi phải bàn tán với nhau dữ lắm, trong nhiều buổi sáng và nhiều buổi chiều.
Và từ khi nghe nói Lặc có vợ thì bọn trẻ trong nhà thường hó háy nhìn trộm Lặc. Lặc lấy vợ ư? Kỳ nhỉ! Hắn hóa ra cũng chững chạc rồi. Bởi có một hôm rõ ràng tôi trông thấy Lặc đội khăn xếp bằng lượt. Mặc áo dài vải nâu da bò. Lần thứ nhất đấy. Cái áo dài rộng rãi che vừa kín cái bụng trống.
Tôi đi báo cái tin như vậy cho mọi đứa trẻ trong nhà đều biết.
Thế rồi chúng tôi chìa tay ra móc xẩu. Định với nhau rằng từ giờ không đứa nào thèm hay là chẳng dám chơi với Lặc nữa. Hắn đã là người lớn rồi còn chi!
o O o
Lũ trẻ dò xem mặt vợ Lặc.
Tưởng ai, hóa ra vợ Lặc là cái con ở nhà bà hương Khoai, vẫn hay vào nhà tôi xin bèo. Vậy thì thường lắm.
Tên nó là Hoa. Tên đẹp thế, nhưng người nó béo phục phịch, mặt nó đen thủi và rỗ chằng chịt. Lúc cười, đôi mắt nó ti hí và cả hai hàm răng nó cùng chìa ra ngoài.
Chẳng phải là họ lấy nhau vu vơ. Cũng có cái ân tình cẩn thận. Nhưng lũ trẻ chúng tôi ngờ nghệch chẳng biết gì cả. Chúng tôi chỉ biết được rằng cô Hoa thường vào đây xin bèo về cho lợn và Lặc ta thường vác sào nứa, cởi truồng tồng ngồng ra để lội xuống ao vớt bèo hộ cô ả.
Thế mà đã có một ngày tốt lành, hai người đó lấy nhau. Họ mượn của làng một mảnh đất ở ngoài đầu xóm, làm nên một túp lều nhỏ. Chỗ ấy chỉ có cỏ dại tự do mọc hoang. Nhưng Lặc ta cũng chịu khó dọn được ở trước cửa một khu cỏ để làm sân và hắn lại rào giậu bằng nứa đan chéo, như kiểu của những nếp nhà ngăn nắp. Trong sân, hắn giồng mười cây đu đủ. Cái thứ cây xốc nổi, chóng được ăn quả nhất.
Bây giờ Lặc không ăn cơm ở nhà tôi nữa. Cuối tháng hắn xin hai đồng rưỡi tiền công. Hắn mang tiền về để đong gạo ăn chung với vợ. Vợ chồng ăn cùng một mâm. Cu Lặc lần thứ nhất, đã gặp một địch thủ lợi hại. Cô ả cũng ăn khỏe không kém gì chàng. Có nghĩa là cho đến khi vét nồi cồn cột cũng chẳng còn sót lấy một hạt cơm thì phải đứng dậy. Mỗi lần xong bữa, cô vợ khệ nệ đứng dậy, vươn vai. Nếu cái bụng của nàng phởn ra to phềnh thì cái bụng của chàng cũng thế, không kém. Có phần lại hơn nữa. Cặp vợ chồng mới liền nhìn nhau mà cười. Chàng cù nàng một cái. Ôi! Hạnh phúc thay!
Nhưng ở đời, hạnh phúc vốn là một sự chẳng bao giờ có, người ta chỉ đặt ra hai chữ ấy để nói cho hoa mỹ mà thôi. Cho nên họ ở với nhau được hơn một tháng thì cả hai người cùng khám phá ra được một điều sầu lắm là họ cùng ăn khỏe đến bậc nhất nhì trong thiên hạ cả.
Tuy sức chứa của bụng Lặc vào loại nặng tấn, nhưng chưa khi nào Lặc biết mình ăn nhiều đến độ nào. Bởi hắn chưa hề phải đong gạo. Làm cho nhà người, hắn chỉ có việc ngày đánh ba bữa no kềnh. Bây giờ tiền túi bỏ ra thì hắn thấy rằng một tháng còng lưng của hai người, cộng lại, không đủ cung cho miệng hai người ăn đủ. Thực là một nỗi buồn rầu. Nếu họ cùng không ăn khỏe, thì họ yêu nhau biết bao nhiêu!
Bởi cùng ăn khỏe nên họ không thể yêu nhau. Một hôm, người vợ hơi cáu một mảy vì phải ăn đói. Người chồng không nói gì, nhưng mà cũng không cười. Một hôm nữa, người vợ vét gạo để đi thổi cơm, thấy ít quá, văng ra một câu không được hay. Thế là họ xông vào đấm đá, cào cấu nhau liền. Hăng quá. Con mụ vừa cào vừa kêu làng. Nhưng chẳng ai đến cả. Ở đấy không có tứ bề hàng xóm. Họ đánh nhau chân tay, rồi thôi. Người đàn bà ôm mặt khóc hu hu. Người đàn ông bỏ đi. Nhưng đến chiều họ lại ăn cơm với nhau như thường. Và họ lại cùng cười hề hề.
Song không thể còn yêu được nữa. Cái thói đánh nhau như đã thành tính và thành lệ. Không mấy ngày họ không réo năm đời mười đời nhau, cho ông bà ông vải của nhau ăn toàn những của ngon vật hiếm và để kết liễu cuộc đấu khẩu, họ thụi nhau từng trận cật lực. Sức vóc cùng tương đương cả, nên không ai hề gì.
Một buổi chiều nọ, vợ Lặc ở nhà chủ về. Buổi sáng hai vợ chồng đã đánh nhau to lắm. Mụ về nhà gói ghém quần áo, đội nón và bỏ cả đôi guốc mộc vào bọc cẩn thận. Rồi mụ đánh lên một que diêm. Que diêm xòe lên thì mụ tiếp vào một bó đóm. Cái mặt rỗ của mụ quặm lại, nom đến ghê. Mụ châm liền bó đóm ấy vào mái bếp, về phía trong. Lửa đỏ bùng lên và cháy lên.
Mụ cắp nón đi mất.
Lúc ngọn lửa bốc cao gần bằng ngọn tre mới có người biết. Người ta chạy dồn cả đến. Nhưng khi trông thấy lửa hoành hành ở một cái nhà chơ vơ giữa bãi hoang thì không ai xô vào chữa. Người ta lại nhăn răng ra cười.
Mãi sau cu Lặc mới hay tin. Hắn hộc tốc chạy về. Thì nhà của hắn chỉ còn là một đống than hãy còn hồng rực và còn ba cây đu đủ chảy đỏ hắt, chong chỏng giữa sân. Hắn đứng chắp hai tay sau lưng, tần ngần nhìn đám khói đen.
Rồi Lặc huỳnh huỵch chạy đến nhà bà hương Khoai tìm vợ. (Tội nghiệp, hắn chẳng biết gì hết). Người ta bảo vợ hắn về từ lâu. Hắn liền cầm một chiếc gậy tre lớn, đi lùng vợ khắp bốn xóm trong làng Nghĩa Đô. Nhưng không thấy mụ đâu cả. Đến tận sáng hôm sau cũng vẫn bặt vô âm tín con người nội trợ không được tốt ấy.
Bây giờ Lặc đã trở về cuộc đời xưa.
Lặc làm, rồi Lặc ăn cơm và lại đi ngủ ở nhà tôi. Còn có nghĩa nữa là Lặc ta lại về đánh bạn với lũ trẻ. Mọi khi, ở với vợ hắn chỉ lầm lì cuốc vườn cả ngày, đợi đến lúc mặt trời tà tà, hắn cung cúc về ngay, quên cả các chú bạn tí nhau. Lũ trẻ cũng lảng đi chơi với nhau, lờ cái anh cu có vợ ấy đi.
Giờ lại chơi với nhau như thường rồi. Và hắn lại dễ dàng như trước. Anh nào muốn gọi hắn là Lặc, là cu Lặc cũng được, không hề giận dỗi chi. Ai hỏi gì về vợ hắn, hắn chỉ mỉm cười vu vơ rồi lắc cái đầu. Nếu có vui chuyện lắm. Lặc mới nói:
- Ló gớm nắm. Ló vừa đánh, ló vừa bóp. Tôi phải thua đấy.
Một hôm, lũ trẻ nghe có tiếng bập bùng bung ở trong vườn. Chúng tôi chạy vào thì thấy Lặc ta đương giơ hai tay vỗ bụng và gân cổ lên hát cái bài “ò í e” quen thuộc ngày trước. Đã lâu mới lại được nghe hắn hát, vui lạ. Hát xong, hắn nheo mắt, cười. Và hắn lại làm cái trò phập phồng bụng.
Cu Lặc lại có thêm nhiều trò mới nữa. Hắn có một câu đố rằng:
- Cái thúng mà thủng hai đầu. Bên ta thời có, bên Tàu thời không. Đó nà cái gì?
- Không biết.
- Chịu.
Có thằng hóm hỉnh:
- Là cái bụng anh Lặc.
Cả bọn cùng cười. Nhưng Lặc nói:
- Không phải. Ló nà cái váy!
Hắn giảng tỉ mỉ những tại làm sao mà lại là cái váy. Chúng tôi nghe, lấy làm phục lắm. Hắn hẳn mới học mót được của vợ. Tôi hỏi. Hắn nhìn tôi, mặt xịu lại.
Tôi gặng:
- Có phải anh Lặc học của vợ anh không?
Buồn buồn, hắn nói:
- Không phải. Tôi nại hát thế lày cho cậu nghe nhé.Mà hát trống quân cẩn thận cơ!
- Anh Lặc hát đi...
Lặc phồng bụng, xòe hai bàn tay ra vỗ:
Thình thùng thình... yêu nhau thì lém bã giầu, ghét nhau thì lém đá vỡ đầu nhau ra... Thình thùng thình...
Tiếng reo hoan hô vang động cả khu vườn. Mấy anh chích chòe đương vểnh đuôi, cong cánh lên hót véo von, chẳng biết cà kê ra sao, vỗ cánh bay mất.
Câu hát lạ này, ý hẳn Lặc cũng mới học được của vợ. Đàn bà tài thực!
Một năm, đói kém quá. Hàng lụa ế đến nỗi ai đặt chân vào làng Nghĩa Đô đều thấy vắng tanh, không nghe tiếng một con thoi chạy. Nhà tôi cũng phải nghỉ dệt lụa.
Lặc không còn việc gì để làm. Ngày kia, hắn bỏ đi đâu mất. Không có ai biết. Được ít lâu, có kẻ nói là nghe phong thanh thấy người ta đồn cu Lặc đã nhập với bọn phu mộ sang Tân thế giới làm ăn.
Ba năm sau, vào khoảng tháng Hai, gia đình tôi nhận được một lá thư xa. Ngoài bì thư có đóng dấu ở Thủ Dầu Một, Nam kỳ. Thư như sau:
Dầu Tiếng le 8 tháng Giêng,
Tên con là Lặc. Hôm nay là tháng Giêng năm mới, con có lời về mừng hai cụ, ông bà cùng các cậu, năm mới đều được phát tài bằng năm bằng mười năm ngoái. Con ở bên này lấy điều làm mừng lắm lắm. Từ ngày con ra đi làm ăn xa xôi, nhờ ơn thiên địa giời đất vẫn cũng được như thường.
Thư bất tận ngôn.
Bấy nhiêu chữ viết bằng mực tím nhòe nhoẹt bò cao thấp, lổm ngổm vừa kín cả một mảnh giấy con, dính đen sạm những chất nhờn của mồ hôi tay. Không thấy đề rõ chỗ ở. Dáng hẳn Lặc ta nhờ mãi, nói khó mãi mới có được một ông bạn tốt bụng viết cho ngần ấy chữ quý hóa.
Nghĩa Đô 1941